Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với thơ mới ( Qua thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 128 trang )

1
































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


VŨ THỊ LOAN




ẢNH HƢỞNG CỦA CHỦ NGHĨA TƢỢNG TRƢNG ĐỐI VỚI
THƠ MỚI (QUA THƠ XUÂN DIỆU, HUY CẬN, BÍCH KHÊ)




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học






HÀ NỘI, 2014


2
































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ THỊ LOAN



ẢNH HƢỞNG CỦA CHỦ NGHĨA TƢỢNG TRƢNG ĐỐI VỚI
THƠ MỚI (QUA THƠ XUÂN DIỆU, HUY CẬN, BÍCH KHÊ)




Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Khánh Thành




HÀ NỘI, 2014

3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện

dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Trần Khánh Thành.
Các kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và không
trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi xin chịu tránh nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

Vũ Thị Loan
















4






LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy, cô giáo trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt 2 năm
học qua.
Qua đây, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới người thầy mà tôi
vô cùng kính trọng – thầy Trần Khánh Thành - trong suốt thời gian qua đã động viên,
chỉ dẫn, tiếp cho tôi thêm niềm say mê khoa học.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn bên cạnh cổ vũ, tạo điều kiện giúp đỡ
cho tôi có thể học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong sự đóng góp của quý thầy cô để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Ngƣời thực hiện



Vũ Thị Loan



5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Error! Bookmark not defined.
1. Lí do chọn đề tài Error! Bookmark not defined.
2. Lịch sử vấn đề Error! Bookmark not defined.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Error! Bookmark not defined.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Error! Bookmark not defined.
5. Phương pháp nghiên cứu Error! Bookmark not defined.
6. Cấu trúc luận văn Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 1. KHÁI LƢỢC VỀ CHỦ NGHĨA TƢỢNG TRƢNG VÀ PHONG
TRÀO THƠ MỚI Error! Bookmark not defined.
1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa tượng trưng Error! Bookmark not defined.
1.2. Nguyên tắc sáng tạo và đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tượng trưng 9
1.3. Thơ mới và tiếp nhận của chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới Error!
Bookmark not defined.
1.3.1. Sự ra đời và ý nghĩa của phong trào Thơ Mới Error! Bookmark not
defined.
1.3.2. Sự tiếp nhận của chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới. Error! Bookmark
not defined.
CHƢƠNG 2. TÍNH TƢƠNG GIAO VÀ HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG
TRONG THƠ MỚI Error! Bookmark not defined.
2.1. Tính tương giao trong Thơ mới Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Sự tương giao giữa các giác quan Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Sự tương giao giữa vạn vật Error! Bookmark not defined.
6

2.1.3. Sự tương giao giữa con người và vũ trụ, vạn vật Error! Bookmark not
defined.
2.1.4. Sự tương giao giữa màu sắc và ánh sáng Error! Bookmark not defined.
2.2. Hệ thống biểu tượng và sức ám gợi trong Thơ mới Error! Bookmark not
defined.

CHƢƠNG 3. NGÔN TỪ VÀ NHẠC TÍNH TRONG THƠ MỚI 74
3.1. Ngôn từ trong Thơ mới 74
3.1.1. Xu hướng chọn hệ thống từ vựng Error! Bookmark not defined.
3.1.1.1. Từ láy Error! Bookmark not defined.

3.1.1.2. Từ gợi ấn tượng về sự tương giao cảm giác 81
3.1.2. Các biện pháp tu từ 84
3.1.2.1. Ẩn dụ 84
3.1.2.2. Một số biện pháp tu từ khác 88
3.2. Nhạc tính trong Thơ mới 89
3.2.1. Vần và thanh điệu 91
3.2.2. Nhịp điệu Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Một số biểu hiện khác của tính nhạc 101
KẾT LUẬN 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO Error! Bookmark not defined.



7






MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hơn một thập kỷ tồn tại, Thơ mới (1932-1945) đã để lại những dấu ấn
nhất định trong tiến trình thơ ca Việt Nam. Phong trào Thơ mới, gắn với sự ảnh hưởng
của các trào lưu văn học phương Tây cùng với những đổi mới trong tư tưởng, thi pháp
đã thực sự tạo nên “Một Thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh). Không phải dĩ nhiên mà
một phong trào thơ chỉ diễn ra trong thời gian ngắn ngủi như Thơ mới, nhưng lại chứng
kiến những biến đổi cũng như sự sung sức nhất trong thơ ca Việt Nam với nhiều tên
tuổi kiệt xuất, nổi tiếng sớm như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Nguyễn Bính Tất cả như được thời đại sắp đặt và sứ mệnh mà lịch sử trao

cho thi ca giai đoạn trước cách mạng đó là vai trò cách tân mạnh mẽ. Loại bỏ những
“cặn bã của một lối thơ đến lúc tàn” (Hoài Thanh), Thơ mới đã mạnh mẽ cách tân và
thực sự tạo ra một hiệu ứng sâu rộng cả trong tư tưởng, nghệ thuật cũng như nhiều lĩnh
vực khác trong xã hội. Có thể nói, Thơ mới (1932 – 1945) đã thổi một luồng mới lạ,
làm xôn xao và đánh thức cả một nền thơ đang “triền miên trong cõi chết” (Lưu Trọng
Lư).
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan dưới góc độ nghiên cứu loại hình
học và lý thuyết văn học so sánh, nhiều nhà nghiên cứu sau này đều thừa nhận rằng bản
thân phong trào Thơ mới không tự dưng xuất hiện, mà đó là sự ảnh hưởng của những
tác động khách quan đến tiến trình văn học. Cụ thể, đó là một hiện tượng văn học nảy
sinh trong những điều kiện lịch sử, xã hội và thẩm mỹ tương đồng của các nền văn hóa
khác nhau trong khu vực. Trên phương diện lịch sử, văn hóa, sự ra đời của những tư
8

tưởng, trào lưu mới trong Thơ mới là kết quả của quá trình tiếp xúc, giao lưu và ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây để đổi mới, cách tân. Bản thân những tác giả của Thơ
mới lúc bấy giờ cũng đã thừa nhận ảnh hưởng của thơ ca Pháp, đặc biệt là chủ nghĩa
tượng trưng. Nhà phê bình Hoài Thanh cũng chỉ ra “sự ám ảnh” của Baudelaire - một
trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của trường phái chủ nghĩa tượng trưng (Pháp) đối
với nhiều tài năng của Thơ mới. Xuân Diệu đã học được của Baudelaire “một nghệ
thuật tinh vi”. Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên “đều chịu rất nặng ảnh hưởng Baudelaire”.
Chế Lan Viên phải thừa nhận: “Tôi yêu Baudelaire từ bé, yêu tác giả Ác Hoa (Fleurs
du Mal) từ buổi hoa niên cho đến bây giờ ” (Tuyển tập Chế Lan Viên, NXB Văn học,
1990, tr. 192). Huy Cận chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ cả Baudelaire và Edgar Allan Poe
(1809-1849) - nhà thơ Mỹ, người được coi là “mở đầu cho chủ nghĩa tượng trưng”, đặc
biệt là thủ pháp tương phản và cách sử dụng âm thanh, nhạc điệu trong thơ
Như vậy, nghiên cứu Thơ mới sẽ không thể thấu đáo, nếu như không không
được gắn với nghiên cứu ảnh hưởng chủ nghĩa tượng trưng, đặc biệt chủ yếu là chủ
nghĩa tượng trưng trong văn học Pháp thế kỉ XIX. Sự đánh giá thấu đáo ảnh hưởng của
Chủ nghĩa tượng trưng đối với Thơ mới không chỉ góp phần làm sáng tỏ hơn những giá

trị mới có tính chất cách tân cho thơ hiện đại, mà còn góp phần làm sâu sắc hơn vai trò
và tầm ảnh hưởng của những tác giả đỉnh cao của Thơ mới.
Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi xin tập trung vào ảnh hưởng của chủ
nghĩa tượng trưng đối với Thơ mới, khảo sát qua thơ của ba tác giả: Xuân Diệu, Huy
Cận, Bích Khê.
2. Lịch sử vấn đề
Nhìn một cách tổng thể, kể từ khi Thơ mới ra đời từ năm 1932 đến nay, đã có hàng
nghìn công trình nghiên cứu, sách, tạp chí đề cập đến các vấn đề liên quan đến phong
trào Thơ mới, tác giả, tác phẩm trong phong trào Thơ mới. Bên cạnh đó là một số ít các
công trình đề cập đến chủ nghĩa tượng trưng và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam. Nhìn
một cách tổng thể hai vấn đề này, chúng ta có thể chia lịch sử vấn đề nghiên cứu của
9

luận văn này thành ba giai đoạn: trước năm 1945, từ sau năm 1945 đến 1986, từ sau
năm 1986 tới nay.



2.1. Trƣớc năm 1945
Đầu tiên, ta có thể nhắc tới công trình Thi nghệ: Lược luận về thơ và nghệ thuật
làm thơ của tác giả Lê Văn Hòe, do NXB Quốc học thư xã ấn hành năm 1941 đã đề
cập tới Thơ mới và yêu cầu đối với Thơ mới (có trích dẫn một số bài thơ tiêu biểu).
Tiếp đó, ta không thể không nhắc tới cuốn Thi nhân Việt Nam 1932 – 1941 của tác
giả Hoài Thanh, Hoài Chân, in lần đầu tiên năm 1942 tại nhà in Nguyễn Đức Phiên và
cho đến nay đã được tái bản nhiều lần. Đây là một hợp tuyển thơ đầu tiên của thời
kỳ Thơ mới, phác họa đôi nét nhận xét, đánh giá về thời đại và phong trào thơ mới, ghi
nhận lại những tên tuổi nhà thơ và những bài thơ chọn lọc, có giá trị của các nhà thơ đó
trong khoảng 1932-1941. Cuốn sách bình luận theo phương pháp chủ quan, được
nhiều nhà văn đánh giá rất cao về giọng bình và trình độ cảm nhận của tác giả.
Ngoài ra, thời kì này còn có một số tập thơ được in với nhan đề chỉ rõ đó là Thơ

mới của một số tác giả.
2.2. Từ sau năm 1945 đến năm 1986
Trong khoảng thời gian 1946 đến năm 1954, đất nước ta phải trải qua cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược nên Thơ mới và những tìm hiểu về Thơ mới
(được coi là ủy mị, làm nhụt tinh thần chiến đấu của người lính nên không còn phù hợp
với thực tế lúc bấy giờ) được gác lại một bên, dành chỗ cho thơ ca động viên cách
mạng.
Từ sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết năm 1954, miền Nam vẫn tiếp tục cuộc
chiến tranh chống đế quốc Mĩ, trong khi đó miền Bắc đã được giải phóng (vẫn còn
chiến tranh phá hoại bằng máy bay của Mĩ đưa từ miền Nam ra) và hướng xây dựng
10

theo mô hình chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, việc khắc phục hậu quả chiến tranh là một
điều không hề đơn giản. Chính vì thế mà phong trào Thơ mới những năm đầu sau khi
miền Bắc được giải phong cũng chưa được quan tâm. Mãi tới năm 1966, nhà nghiên
cứu Phan Cự Đệ mới đưa ra công trình Phong trào Thơ mới do NXB Khoa học xã hội
phát hành. Công trình này đề cập tới vấn đề lịch sử phong trào Thơ mới lãng mạn 1932
– 1945, những quan điểm mỹ học, yếu tố tích cực, giá trị nghệ thuật và những hạn chế
suy đồi của phong trào Thơ mới với bề dày của sự nghiên cứu có phần chuyên sâu hơn
với các công trình nghiên cứu về Thơ mới trước đó. Và tới năm 1982, cuốn sách được
tái bản lần 2 có sửa đổi và bổ sung. Năm 1975 , đất nước được thống nhất, Bắc Nam
sum họp một nhà, cùng khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng đất nước trên mọi
lĩnh vực nhưng nghiên cứu Thơ mới cũng chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm nên
ít có công trình nào về vấn đề này được ra đời.
2.3. Từ sau năm 1986 đến nay
Sau thời kì đổi mới, Thơ mới được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nhưng chỉ được
đánh dấu sự trở lại từ năm 1989 với sự ra đời của công trình Tổng tập văn học Việt
Nam do Hà Minh Đức chủ biên. Tiếp đó là hàng loạt các công trình như: Con mắt thơ:
phê bình phong cách Thơ mới (Đỗ Lai Thúy) năm 1994; Nhìn lại một cuộc cách mạng
thi ca: 60 năm phong trào Thơ mới (Huy Cận, Hà Minh Đức chủ biên) năm 1992;

Cùng năm này, tác giả Hà Minh Đức cũng xuất bản cuốn Một thời đại trong thi ca (về
phong trào thơ Mới 1932 – 1945),
Từ năm 1998 tới nay, Thơ mới lại được coi là một địa hạt màu mỡ để các nhà
nghiên cứu tìm hiểu, cày xới, để cho ra đời những công trình có tính khoa học cao.
Tiêu biểu là một số công trình như: Tinh hoa Thơ mới: thẩm bình và suy ngẫm (nhiều
tác giả); Thơ mới 1932 – 1945: tác giả và tác phẩm (nhiều tác giả); Thơ mới lãng mạn
– những lời bình (Vũ Thanh Việt biên soạn); Giọng điệu trong thơ trữ tình: qua một số
nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới (Nguyễn Đăng Điệp); Đặc trưng từ vực Thơ
mới 1932 – 1945 (Vũ Thị Ân). v v
11

Ngoài ra, còn rất nhiều luận án Tiến sĩ, các công trình nghiên cứu cũng tập trung
vào Thơ mới hoặc những đặc điểm nghệ thuật của các tác giả cụ thể trong Thơ mới
nhưng do khuôn khổ bài viết có hạn, chúng tôi xin phép không đề cập ở đây.
Đặc biệt, trên internet có một số trang web đã đề cập tới vấn đề chủ nghĩa tượng
trưng và Thơ mới. Ta có thể kể ở đây một số trang như: có bài
Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới; trang
có bài của Hoàng Ngọc Hiến về Baudelaire – Chủ nghĩa tượng trưng và Thơ mới;
trang có bài Thơ Bích Khê và chủ nghĩa tượng trưng của Mai Bá
Ấn; trang có bài của Trần Thế Nhân về Nhìn nhận yếu tố tượng
trưng, siêu thực trong Thơ mới; trang có bài Vấn
đề tiếp nhận các yếu tố nghệ thuật của thơ tượng trưng phương Tây trong Thơ mới Việt
Nam 1932 – 1945. .v v
Ngoài những công trình trên, đề cập tới chủ nghĩa tượng trưng, ta có thể kể tới công
trình Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XIX (Lê Hồng Sâm chủ biên) của NXB Ngoại văn,
in năm 1990 hay mới đây công trình này được tái bản, có sửa chữa và bổ sung do
Phùng Văn Tửu và Lê Hồng Sâm chủ biên với nhan đề Lịch sử văn học Pháp thế kỉ
XVIII và thế kỉ XIX của NXB Đại học Quốc gia Hà Nội in năm 2005.
Qua việc điểm qua các công trình, các bài nghiên cứu về Thơ mới và chủ nghĩa
tượng trưng, chúng tôi thấy rằng có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy

nhiên, hầu như những công trình đó còn mang tính chất giới thiệu điểm qua về ảnh
hưởng của chủ nghĩa tượng trưng tới Thơ mới hoặc khai thác vấn đề trên một khía cạch
riêng lẻ của một tác giả trong Thơ mới hay nói chung về chủ nghĩa tượng trưng; mà
chưa có cái nhìn một cách hệ thống về ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với
Thơ mới. Chính vì thế, trong công trình này, chúng tôi cố gắng đưa ra một cách nghiên
cứu tương đối có tính hệ thống về ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với Thơ
mới và trong khuôn khổ giới hạn của luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát sự ảnh
12

hưởng ấy trên thơ của ba tác giả tiêu biểu liên quan đến đề tài: Xuân Diệu, Huy Cận và
Bích Khê trên cơ sở tiếp thu có lựa chọn những công trình trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi triển khai với mục đích tìm hiểu một cách hệ thống sự ảnh
hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với Thơ mới, để từ đó đưa ra nhiệm vụ phần nào
phác họa được một cái nhìn khái quát về ảnh hưởng của một trào lưu, chủ nghĩa về thơ
của phương Tây tới Việt Nam và sự tiếp nhận sáng tạo trào lưu, chủ nghĩa này của các
nhà Thơ mới 1932 – 1945.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn của mình, chúng tôi muốn xác lập một đối tượng nghiên cứu thật
cụ thể và phù hợp với khả năng của bản thân. Vì thế chúng tôi hướng tới đối tượng
nghiên cứu là sự ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng (chủ yếu là chủ nghĩa tượng
trưng Pháp) đối với Thơ mới, qua khảo sát thơ của ba nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận và
Bích Khê.
Với đối tượng nghiên cứu như trên, chúng tôi tiến hành khảo sát phạm vi nghiên
cứu là những tuyển tập thơ của ba tác giả nói trên. Một là cuốn Tuyển tập Xuân Diệu:
thơ (tập 1), NXB Văn học năm 1983. Hai là cuốn Huy Cận toàn tập: thơ (tập 1), NXB
Văn học năm 2011. Ba là cuốn Thơ Bích Khê, NXB Đồng Nai năm 2007 . Ngoài ta,
chúng tôi còn tham khảo một số tư liệu khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tiến hành thực hiện luận văn, chúng tôi đã lựa chọn nhưng phương pháp nghiên

cứu sau đây:
Phương pháp so sánh: phân tích, tổng hợp, những tài liệu đã có về chủ nghĩa tượng
trưng, phong trào thơ mới để tìm ra những điểm giống nhau giữa chủ nghĩa tượng
trưng ở Pháp và những hình thức nghệ thuật được biểu hiện trong thơ của ba nhà thơ
Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê để rút ra được mức độ ảnh hưởng.
13

Phương pháp tiếp cận thi pháp học: nghiên cứu về mặt hình thức và ý nghĩa tổng thể để
khẳng định thi pháp trào lưu, thi pháp tác giả.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc như sau:
Chương 1: Khái lược về chủ nghĩa tượng trưng và phong trào Thơ mới.
Chương 2: Tính tương giao và hệ thống biểu tượng trong Thơ mới.
Chương 3: Ngôn từ và nhạc tính trong Thơ mới.
CHƢƠNG 1. KHÁI LƢỢC VỀ CHỦ NGHĨA TƢỢNG TRƢNG
VÀ PHONG TRÀO THƠ MỚI
1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa tƣợng trƣng
Soi chiếu lịch sử văn học Pháp, ta có thể thấy sự ra đời của chủ nghĩa tượng
trưng bắt nguồn từ nửa kỉ cuối thế kỉ XIX, khi mà cuộc khủng hoảng của văn hóa nhân
văn phương Tây dẫn đến sự chống lại Chủ nghĩa tự nhiên và các nguyên tắc Thực
chứng luận của nhóm Thi Sơn.
Chủ nghĩa tượng trưng Pháp xuất hiện những năm 50 của thế kỉ XIX và phát
triển mạnh vào cuối thế kỉ XIX. Đây được coi là thế kỉ của những bão tố chính trị,
những đảo lộn chưa từng thấy trong lịch sử của đất nước, của các tầng lớp và của mỗi
cá nhân. Xét về sự tác động của bối cảnh lịch sử thì chủ nghĩa tượng trưng ra đời một
phần cũng là do những nhà thơ có sự bất mãn sâu xa với xã hội Pháp với nền chuyên
chế Napoleon III, sự bành trướng của đế quốc chủ nghĩa…Thêm vào đó, các học thuyết
xã hội mà các nhà tư tưởng đưa ra về bảo thủ hay tiền tiến, hoài niệm hay quá khứ
ngưỡng vọng tương lai (trước những đảo lộn xã hội làm tan rã nhiều trật tự vốn có), đã
tạo nên những chuyển biến khá mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của những nghệ sĩ

sống trong thế kỉ ấy.
Nếu như trước đây, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực ra đời đã để lại
dấu ấn vô cùng quan trọng trong lịch sử văn học Pháp thì khi xã hội thay đổi, những
14

hình thái nghệ thuật ấy đã lần lượt nhường chỗ cho chủ nghĩa tự nhiên với yêu cầu mô
tả cuộc sống bằng những phương pháp của khoa học tự nhiên.
Chủ nghĩa tự nhiên (Naturalism) ra đời và tồn tại những năm 1870 – 1880 với
những đại biểu như Edmond, Goncourt, Zola Họ yêu cầu miêu tả cuộc sống bằng
phương pháp của khoa học tự nhiên, chú trọng tư liệu về con người và hiện tượng đời
sống, đặc biệt là đời sống sinh lí và những hoạt động vật chất của con người. Họ coi
trọng quan sát, săn tìm tư liệu hơn là dùng trí tưởng tượng.
Thế nhưng, chủ nghĩa tự nhiên sau giai đoạn phồn vinh mà đỉnh điểm là năm
1880, trường phái Tự nhiên chủ nghĩa lại đi vào rạn nứt và tan rã. Năm 1884, Ngược
chiều của J.K. Huysmans (với đự dịnh khảo sát đến cùng một nhân vật mắc bệnh thần
kinh dẫn tới miêu tả những ám ảnh, mộng mị, đạt “hiệu quả hư ảo, phi thực tế) đã
khiến chủ nghĩa tự nhiên hoàn toàn bị đảo ngược. Đỉnh điểm là tới tháng 8 năm 1887,
nhiều nhà văn đã từng hâm mộ Zola đã tập hợp và viết bản Tuyên ngôn nổi tiếng để
kịch liệt lên án tiểu thuyết Đất của ông. Đó là kết quả tất yếu của sự chán ngán muốn
tìm một hình thái nghệ thuật khác của những nghệ sĩ đương thời bấy giờ.
Chính vì ý thức muốn tìm một hình thái nghệ thuật mới thay thế cho hình thái
nghệ thuật của chủ nghĩa tự nhiên không còn phù hợp, một số nhà thơ trẻ đã tập hợp
những vần thơ mới trong Tuyển tập Thi Sơn với 3 tập thơ được xuất bản lần lượt những
năm 1866, 1869, 1876 và lập nên nhóm Thi Sơn. Họ nổi lên như một sự phản ứng trực
tiếp với chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực, cũng như sự thờ ơ với thơ của độc
giả. Với việc lập ra nhóm này, các nhà thơ muốn đoạt lại thơ ca và làm cho nó hồi sinh
bằng những năng lượng mới.
Nhóm Thi sơn theo chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, và trong thơ cần có
nhạc của Gautier, quan tâm đến việc luyện âm và chữ, đưa nhục cảm vào thơ của
Banville. Họ không tin ở cảm hứng mà tin vào lao động ngôn ngữ; kết hợp với tưởng

tượng nhà thơ bộc lộ những đam mê trần trụi của mình. Họ từ chối “cái tôi” trữ tình
lãng mạn, trở về gần hơn với sự hoàn hảo của thi ca cổ điển, với những câu thơ hay,
15

giầu âm điệu, đầy chất suy tưởng. Hai yếu tố huyền ảo và âm nhạc, được đưa vào
thơ. Thi sơn ảnh hưởng sâu rộng trong thi ca Pháp tới đầu thế kỷ XX.
Trong bối cảnh đời sống thơ ca nửa sau thế kỉ XIX, chữ “suy đồi” được nhắc
nhiều trong phê bình từ những năm 60 với ý nghĩa khẳng định sự tàn lụi của thơ trước
văn xuôi, và đến những năm 80 nó ám chỉ một khát vọng đưa thơ ca vượt khỏi đời
sống hàng ngày, có tính chất trưởng giả, nhàm chán. Lúc này Baudelaire được nói đến
nhiều, trở thành người được bàn luận rộng rãi với những hình ảnh bị cho là không lành
mạnh, kì lạ, bi quan. Những nhà thơ mới nổi nhóm lại với nhau trong những nhóm gọi
là những người suy đồi, và từ đó họ dần tự tách ra khỏi phái Thi Sơn, trở thành những
tập hợp nhỏ trên thi đàn. Các nhà thơ suy đồi đã phản bác lại việc phái Thi Sơn chủ
trương xu hướng vô ngã của thơ cũng như văn chương hiện thực và tự nhiên chỉ chú
trọng tính xác thực bề mặt và loại bỏ yếu tố chủ thể ra khỏi sáng tạo văn học. Có thể
nói rằng, trên danh nghĩa là thơ suy đồi và những người suy đồi, nhưng thực chất đó là
định hướng một nguồn thơ mới – thơ tượng trưng – mà nó sẽ có tên gọi chính thức từ
1886. Và trong thực tế, trong thời kì gọi là suy đồi cũng đã xuất hiện rải rác trên các
tạp chí và các báo những từ như “tượng trưng”, “những người tượng trưng” [59].
Trước bối cảnh một trường phái mới có thể thành hình, Jean Moréas, gửi một bức
thư để đăng trên báo Le Figaro, ngày 18/9/1886, dưới cái tựa (do toà soạn chọn) Một
bản tuyên ngôn văn chương, trong lá thư đó, ông đề nghị chữ Symbolisme (Trường
phái Tượng trưng) là thích hợp nhất để chỉ trường phái này.
Theo ông, gọi những nhà thơ mới là những nhà thơ tượng trưng (symbolistes)
phù hợp hơn so với cách gọi Những nhà thơ suy đồi (decadents), vì thế hệ các nhà thơ
trẻ luôn ý thức tìm kiếm những biểu tượng vĩnh cửu. Với bài báo này, Moréas chính là
người có công chỉ ra bước đi cụ thể đầu tiên, ở đó chủ nghĩa tượng trưng sẽ thế chỗ cho
thơ suy đồi, và đó sẽ là một khái niệm phổ biến về một phong cách thơ đầy tính cách
mạng [59].

16

Bài của Moréas được coi là bản “Tuyên ngôn Tượng trưng”. Nhưng bản “tuyên
ngôn” này cũng không có gì mới, tác giả chỉ định vị chỗ đứng của trào lưu Tượng
trưng trong dòng chảy của thi ca, và đề cao vai trò của những người “khai sáng” như
Baudelaire, Banville, Mallarmé, Verlaine mà không nói gì đến việc định nghĩa khái
niệm Tượng trưng.
1.2. Nguyên tắc sáng tạo và đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tƣợng trƣng
Chủ nghĩa tượng trưng không có lý thuyết rõ như chủ nghĩa lãng mạn hay chủ
nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa lãng mạn có bài Tựa Cromwell của Hugo, chủ nghĩa cổ điển
có cuốn Nghệ thuật thơ của Boileau, còn chủ nghĩa tượng trưng tuy có ra tuyên ngôn
nhưng tuyên ngôn không nêu rõ nguyên tắc mỹ học của trường phái này. Có một số tài
liệu đáng chú ý: Lời nói đầu của Mallarmé viết cho đầu cuốn Luận về ngôn từ của
René Ghil, Tuyên ngôn của chủ nghĩa tượng trưng của Jean Moréas. Từ những tài liệu
đó, có thể thấy mấy yêu cầu chính của phái tượng trưng:
Một là những người tượng trưng chủ nghĩa cho rằng giữa vũ trụ và con người có
những mối tương quan bí ẩn. Những tương quan này được biểu hiện qua những dấu
hiệu, những cảm niệm mơ hồ. Sứ mệnh của nhà thơ là tập hợp những mớ cảm niệm ấy
và cột nó lại để nói lên cái “Ý niệm nguyên sơ”. Như vậy, những người tượng trưng
chủ nghĩa gán cho thơ một nhiệm vụ có tính chất thần bí: khải thị chân lý…
Hai là vận dụng cho được cái hay của các nguyên âm, phụ âm, vận dụng âm điệu
thế nào để cho một từ thành một tượng trưng hay như Mallarmé nói: “một từ đầy đủ,
mới mẻ, xa lạ với ngôn ngữ và nghe như thần chú”.
Ba là những người tượng trưng chủ nghĩa phải chú trọng cải cách câu thơ Pháp,
đề cao câu thơ tự do.
Những yêu cầu đó được những người tượng trưng chủ nghĩa nêu ra hoặc bằng
sáng tác thơ hoặc bằng lời lẽ có tính chất lý luận. Verlaine viết trong Nghệ thuật thơ
(1884) có đoạn nói đến cách biểu hiện thơ của ông. Verlaine thích cái lơ lửng không rõ
ràng, thích sắc thái hơn màu sắc, vì sắc thái có khả năng biến màu sắc này sang màu
17


khác, tạo ra một cái gì không rõ ràng, hợp với tâm trạng người tượng trưng chủ nghĩa.
Verlaine nhấn mạnh yếu tố âm nhạc trong thơ: “Âm nhạc trước mọi sự”. Thơ không
mô tả, kể lể, mà ám thị, muốn ám thị thơ cần âm nhạc, làm cho độc giả nghe bài thơ
như người nghe âm nhạc. Thi sĩ chú trọng vần điệu hơn đường nét cấu trúc, do đó số
âm tiết ít nhiều không quan trọng.
Chủ nghĩa tượng trưng quan niệm nghệ thuật không phản ánh thế giới thực tại, thế
giới của của hiện tượng mà là một thế giới siêu tưởng, một thế giới mơ hồ của sự tương
hợp giữa ánh sáng, màu sắc, âm thanh, mùi hương và nhạc điệu. Chủ thể tiếp nhận thơ
tượng trưng cùng một lúc có thể cảm ứng tổng hòa thế giới âm thanh, màu sắc, mùi
hương bằng tất cả các giác quan tương ứng. Các nhà tượng trưng xem thế giới hữu
hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là biểu trưng cho một thế giới mà ta không thấy được.
Họ quan niệm chính cái không nhìn thấy đó mới là bản thể của thế giới.
Nhà thơ tượng trưng nhận thức thế giới bằng trực giác, chỉ có trực giác mới giúp
họ nắm bắt được cái vô hình, mới ứng cảm được thế giới đích thực mà ta không nhìn
thấy. Họ cho rằng nghệ thuật nếu muốn phản ánh thế giới thì phải tìm ra những “hiện
thực ẩn dấu” và thể hiện nó bằng các biểu trưng thẩm mĩ. Nhà thơ cùng một lúc vừa
phân thân, vừa tụ hội các năng lực cảm biến thế giới bên trong và thế giới trực giác,
trong ấn tượng, tượng trưng để làm nên những thứ vô nghĩa lý nhưng hợp lý [62].
Sự đoạn tuyệt của nghệ sĩ với xã hội, với quần chúng mà nhóm Thi sơn chủ
trương, thì ở các nhà Tượng trưng càng được biểu hiện gay gắt hơn. Mối liên hệ giữa
người sáng tác và công chúng bị cắt đứt. Thơ của Mallarmé, Verlaine, Chales Cros,
tiểu thuyết của Huysmans, kịch của Maeterlinck đã đưa nghệ thuật ra khỏi con đường
có phần đơn điệu và chật hẹp của sự miêu tả, mở ra cho trí tưởng tượng sáng tạo nhiều
không gian mới mẻ, nhưng lại khiến sự giao tiếp với độc giả trở nên khó khăn. Chủ
trương “chẳng miêu tả cái gì và chẳng gọi tên cái gì” – như Anatole France tóm tắt một
cách châm biếm tuyên ngôn của Moréas – mà chỉ tổng hợp bằng ngôn từ những dấu
hiệu nhìn thấy được, tìm đường trong những “cánh rừng biểu tượng” như Baudelaire đã
18


làm, là việc gay go ngay với các tác giả tượng trưng chủ nghĩa, đòi hỏi chẳng những
cảm hứng mà cả một vốn tri thức bách khoa. Hiếm ai có được vừa sự uyên bác vừa sự
kiên trì khắc kỉ của Mallarmé. Một số người nhờ lục lọi các pho lịch sử tôn giáo, các
công trình nghiên cứu về thời Trung cổ, các sách của những nhà thần bí học, đã thành
những thi sĩ giỏi làm ảo thuật với kho sưu tập các ẩn dụ, tỉ dụ, chứ không phải các nhà
thơ sáng tạo những biểu trưng thực sự.
Có thể nói, chủ nghĩa tượng trưng dựa trên cái nhìn chủ quan tuyệt đối về thế
giới. Thơ ca không có nhiệm vụ miêu tả cái thế giới gọi là “thực tại” mà ngược lại, lập
nên một “thực tại” khác, thực hơn. Sự sáng tạo thơ ca là thực tại tối cao, đem lại ý
nghĩa cho cuộc sống vốn chỉ là ảo tưởng và hư không.
Nếu như thơ lãng mạn chủ yếu biểu hiện bằng hình tượng, hình ảnh tương phản;
thơ hiện thực coi trọng tính khách quan của sự thể hiện; thì thơ tượng trưng biểu hiện
mối quan hệ giữa con người và sự vật trong mối tương hợp.
Mỹ học tượng trưng cũng quan niệm giữa vũ trụ và con người có một mối tương
quan bí ẩn. Mối tương giao, tương hợp này diễn ra trên nhiều mặt. Có sự tương giao về
ý niệm: hư - thực, có sự tương giao về cảm giác: ánh sáng- bóng tối, có sự tương giao
về không gian: ngang - dọc, có sự tương giao về màu sắc: đen - trắng, có sự tương giao
về màu vị: trong - ngọt Giữa vũ trụ và con người có sự tương ứng huyền bí
(Baudelaire).
Những nguyên tắc của trường phái tượng trưng do Jean Moreas (1856-1910),
gốc Hy Lạp đề xướng trong bài tuyên ngôn của trường phái Tượng trưng (1886) trên tờ
Figaro. Ông nêu lên tính cách biểu trưng nghệ thuật cho các vật tự nó và các ý niệm
nằm ngoài giới hạn của sự tri giác cảm tính. Trong cuốn Manifeste du Symbolisme năm
1886 ông viết: Điều cốt yếu mà Chủ nghĩa Tượng trưng đem lại là không bao giờ ám
chỉ điều gì như một khái niệm tuyệt đối”. Ông còn cho rằng thế giới hữu hình chỉ là
phản ánh của thế giới tâm linh và nhà thơ là người giải minh các dấu hiệu.
19

Từ những quan niệm trên, có thể nhận thấy Jean Moreas đã thể hiện ước muốn
về một nghệ thuật mới mẻ và một lý tưởng đòi hỏi khắt khe. Đây cũng là cơ sở cho các

nhà thơ tượng trưng đi đến thống nhất một số nguyên tắc cho thơ tượng trưng như sau:
Thứ nhất, tính cách biểu trưng cho các vật tự nó và các ý niệm nằm ngoài giới hạn của
sự tri giác cảm tính.
Thứ hai, phải vươn tới bản chất lý tưởng siêu thời gian của thế giới, cái vẻ đẹp siêu
nghiệm.
Thứ ba, bác bỏ lý tưởng thẩm mỹ: nghệ thuật vị nghệ thuật
Thứ tư, phản ứng lại phái Thi Sơn
Thứ năm, gợi ra những sắc thái tế nhị của cảm giác và tâm hồn
Thứ sáu, mơ ước đạt được cái thực tại tiên thiên ở bên ngoài những hiện tượng biểu
kiến của cuộc đời, vũ trụ [61].
Khám phá và diễn đạt sự bí ẩn sâu xa của thế giới là mục đích và bản chất của
thơ tượng trưng. Các nhà thơ không hài lòng với lối thơ mô tả sự vật một cách hời hợt
bên ngoài, mà cho rằng thế giới xung quanh chúng ta luôn chứa đựng những điều bí ẩn
kì diệu, thơ có khả năng và quyền lực để chiếm lĩnh và biểu hiện nó. Như một người
tiên phong, Baudelaire thể hiện mình là người ý thức được sớm và đầy đủ về bản tính
của thơ để định hướng cho một thời đại với những sáng tạo mới. Mặc dù nhận thấy
những hạt nhân hợp lí ở chủ nghĩa lãng mạn và Thi sơn, nhưng ông vẫn thấy các hình
thức thơ đó còn nhiều hạn chế, chủ yếu vẫn là “thức ăn của lí trí” thuần túy. Với ông,
chức năng thơ không phải sự bộc bạch những trạng thái cảm xúc thông thường (cái mà
văn xuôi có thể thay thế và làm tốt), mà phải hướng đến thể hiện những tri thức huyền
nhiệm và chỉ có nó (thơ) mới diễn đạt được. Thơ là sự cố gắng thể hiện một thế giới
mới nằm ẩn dấu sau thế giới hiện thực, khả dĩ đem lại cho tinh thần một sức mạnh đặc
biệt là khả năng nhìn thấy thế giới không giống như nó hiện hữu mà ở chỗ nó lộ ra
bằng những loại suy (analogies) bất ngờ giữa những cảm giác và trong sự tương hợp
sâu xa giữa cái có thể nhìn thấy, cảm tính và cái tinh thần ẩn dấu bên trong [59].
20

Các nhà tượng trưng chủ nghĩa cho rằng thơ sẽ nhờ âm thanh của các từ gợi lên
được những sắc thái tinh tế nhất của tâm trạng. Nhà thơ tượng trưng muốn biến bài thơ
thành một thứ nhạc điệu chiêu hồn gợi lên những giấc mơ kì lạ, như một điệu đàn âm

vàng từ nơi rừng thẳm xa xôi. Bài thơ sẽ dẫn con người đi tới một nơi xa lạ không
giống với xã hội thi sĩ đang sống, đi tới nơi ngự trị của ý niệm nguyên sơ [36, tr. 58].
Thơ ca không có nhiệm vụ miêu tả cái thế giới gọi là “thực tại” mà ngược lại, nó lập
nên một “thực tại” khác, thực hơn [44, tr. 314].
Về nhận thức, các nhà thơ tượng trưng là những người phê phán một cách gay
gắt cách làm của phái Thi Sơn, cho rằng những nhà thơ của phái này có thể nắm bắt
một cách rất chắc sự vật và miêu tả đầy đủ đường nét góc cạnh của nó, nhưng họ đã
tước bỏ mất phần lớn niềm vui thi vị của sáng tạo. Với họ, thơ là sự biểu hiện một thế
giới vô hình, qua hình ảnh biểu tượng và năng lực tinh thần kì diệu của nghệ sĩ chứ
không phải một thế giới được nhìn thấy bằng sự quan sát thông thường. Nhìn chung
thơ tượng trưng từ Baudelaire đến Rimbaud, Mallarmé phản ánh niềm say mê thám
hiểm thế giới mới, những sự phá cách táo bạo và những sự tìm kiếm không mệt mỏi
những giá trị nghệ thuật, cách biểu hiện theo hướng hiện đại. Diễn đạt bằng hình ảnh,
biểu tượng, bằng những liên tưởng bất ngờ dựa trên năng lực có tính chất thần cảm của
nghệ sĩ đã tạo cho thơ tượng trưng những khả năng biểu hiện mới, những vẻ đẹp quyến
rũ thú vị mà thơ thuần lí trí từ Phục hưng đến thời đại Cổ điển, Khai sáng và Lãng mạn
không thể có được.
Thế kỉ XIX chứng kiến sự “phục sinh” của nền thơ Pháp. Khởi đầu từ cảnh khô
cằn hoang vắng, con đường thơ kết thúc trong sự rậm rạp phần nào hỗn độn, dẫn tới
nhận định về “tình trạng Babel” của thơ những năm cuối thế kỉ. Con đường này trải
qua những chặng “cách mạng” mà một số nhà nghiên cứu gọi là “nhịp mạnh” xen kẽ
những chặng “phản ứng” hay “nhịp yếu” [44, tr. 343].
Một thành tựu của chủ nghĩa tượng trưng là câu thơ tự do (mà Rimbaud đã thể
nghiệm với tác phẩm thơ – văn xuôi Thần cảm), cũng được coi là khó tiếp nhận đối với
21

độc giả. Gustave Kahn được coi là người xây dựng lí thuyết thơ tự do. Theo Kahn, việc
thay thế thơ truyền thống bằng thơ tự do là một cuộc cách mạng, đáp ứng cảm xúc hiện
đại của thế hệ nghệ sĩ trẻ. Tiếp theo những cải cách rụt rè của các nhà lãng mạn,
Baudelaire, Verlaine và đặc biệt là Rimbaud (trước khi sáng tác Thần cảm), đã giảm

bớt hình thức nghiệt ngã của thơ truyền thống, nhưng mới tạo ra “câu thơ được giải
thoát”, chưa phải “câu thơ tự do”. Theo Kahn, không phải thơ bị qui phạm hóa một
cách ngặt nghèo và hình thức hơn văn xuôi mà ngược lại, thơ chỉ tuân theo qui phạm
mỗi lúc một khác của bản thân nó. Mỗi thi sĩ, mỗi lần phải sáng tạo một tiết tấu đặc
biệt riêng cho mỗi tác phẩm thơ. Hậu quả của sự cách tân này là mỗi lần muốn nắm bắt
giai điệu thơ – giai điệu này càng cá biệt bao nhiêu càng “đạt” bấy nhiêu – người đọc
phải cố gắng hết sức để giao cảm với tác giả, một sự cố gắng nhọc nhằn, nhiều lúc phải
triệt bỏ cả ý nghĩ hưởng thụ, thưởng thức khi đọc thơ, và như vậy, sự li khai giữa thi sĩ
với công chúng có nguy cơ trở nên tuyệt đối [44, tr. 342].
Chủ nghĩa tượng trưng xem thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là tượng
trưng cho một thế giới mà ta không nhìn thấy được. Đây mới chính là bản thể của thế
giới. Cho nên, nhà thơ phải đến với cuộc sống bằng trực giác vì chỉ có trực giác mới
tìm ra cái bí ẩn nằm sau thế giới hữu hình, mới nhìn thấy thế giới đích thực là cái thế
giới không nhìn thấy ấy.
Từ những ý trên chúng ta có thể nhận ra những đặc trưng tiêu biểu của thơ tượng
trưng như sau:
+ Thơ là sự tương giao (tương hợp) cảm giác.
+ Thơ là nhạc, là sự tổng hòa nhiều giác quan.
+ Thơ được biểu đạt bằng một hệ thống các biểu tượng giàu sức ám gợi.
Thơ tượng trưng là khởi đầu của chủ nghĩa hiện đại. Các nhà thơ của thi phái
này là những vị tiền bối trực tiếp cho các trào lưu nghệ thuật hiện đại thế kỉ XX, tiêu
biểu như chủ nghĩa siêu thực trong thơ và khuynh hướng văn học nội quan (tiêu biểu là
Marcel Proust) trong lĩnh vực văn xuôi… Trong sự cách tân của mình, thơ tượng trưng
22

đã khai sinh ra tính hiện đại trong văn học thế giới với những biểu hiện muôn màu,
muôn vẻ của nó (khái niệm tính hiện đại gắn liền với tên tuổi nhà thơ tiên phong của
thi phái này: Charles Baudelaire). Trên cái nhìn tổng quát, tính hiện đại của thơ tượng
trưng gắn liền với ý niệm về một sự lật nhào và vượt lên trên ranh giới của những cái
đã biết, cái quen thuộc, cái hàng ngày nhìn thấy. Thơ tượng trưng đã tự giải thoát mình

khỏi những qui định và ước lệ, nó chỉ biết tuân theo những đòi hỏi mãnh liệt của nhu
cầu sáng tạo của nghệ sĩ chứ không tuân theo những chuẩn mực tiền lệ hoặc quán tính.
Tính hiện đại vừa là một phẩm chất thơ, vừa là một yêu cầu để từ đó thơ ca (và nghệ
thuật nói chung) vươn tới để tiếp cận và chiếm lĩnh những giá trị thẩm mĩ mới phù hợp
với cảm xúc và trình độ tư duy của công chúng văn học hiện đại [59].
Chủ nghĩa tượng trưng là một cuộc nổi loạn ngôn từ. Nhận thức đó hoàn toàn có
cơ sở, vì khác với bất kì trường phái văn học nào trước nó, các nhà thơ đã ân sủng cho
nó một quyền lực mới, riêng biệt. Thơ phải tạo cho những từ ngữ mới hoặc cấp cho từ
những ý nghĩa mới trở thành thành một trong những ám ảnh thường trực đối với các
nhà thơ tượng trưng. Bởi vì đối với họ, trong ngôn ngữ thường nhật, ngôn ngữ của trí
năng, thậm chí của cả văn xuôi, từ là vật phụ thuộc trong những mối liên hệ, được sắp
xếp trong trật tự dưới sự dẫn dắt của lí trí phổ quát và thực hiện chức năng truyền đạt
thông tin theo mục đích của chủ thể hành ngôn. Các nhà thơ tượng trưng và sau này là
các nhà thơ hiện đại chủ nghĩa cho rằng: ngay ở thơ cổ điển (và cả lãng mạn), chức
năng của các nhà thơ không phải là tìm ra những từ mới, cô đặc hơn hay rực rỡ hơn,
mà là sắp xếp một nghi thức cũ, hoàn thiện tính đối xứng hay tính súc tích của một mối
quan hệ… Ý nhị cổ điển là ý nhị về các mối quan hệ, chứ không phải về từ: đó là nghệ
thuật biểu đạt chứ không phải nghệ thuật phát minh… Người ta thích thú vì cách trình
bày chúng chứ không phải vì sức mạnh và vẻ đẹp riêng của nó. Ngôn từ không phải chỉ
là phương tiện của thơ mà còn là chính bản thân thơ [59].
Những nhà thơ lãng mạn đã lợi dụng tối đa các khúc gẫy của câu thơ truyền
thống – chuyển dịch và tăng thêm các chỗ ngắt hơi, thực hiện những cách vắt dòng táo
23

bạo, đảo lộn cú pháp để phục tùng tiết tấu. Chính vì thể, họ đã xô đổ được các vách
ngăn bên trong mà không phá hủy được cấu trúc cơ bản của câu thơ. Về phương diện
ngôn từ, các nhà thơ lãng mạn quan niệm, từ không còn là một kí hiệu lệ thuộc vào một
cái gì tiên nghiệm, “có trước” nó như các nhà cổ điển quan niệm. Theo Hugo “Từ là
một thực thể sống, mạnh hơn kẻ sử dụng nó, vọt ra từ nơi tối tăm, nó làm nảy sinh một
nghĩa mới, tùy theo ý nó”.

Với các tác giả tượng trưng, sự đổi mới diễn ra trong lòng ngôn ngữ thơ: những
sự “tương hợp” của Baudelaire hay “thuật luyện đan về ngôn từ” của Rimbaud, triết
luận ngôn ngữ của Mallarmé hay “chủ nghĩa ấn tượng” về từ vựng hoặc ngữ pháp ở
Verlaine, Mallarmé và các nhà tượng trưng
Mallarme, lãnh tụ của phái tượng trưng nhấn mạnh ý nghĩa thần bí của bài thơ
và của từ ngữ trong thơ. Rimbaud viết bài thơ Những nguyên âm, nêu lên ý nghĩa của
mỗi nguyên âm. Rimbaud nói: “Tôi đã sáng chế ra màu sắc các nguyên âm: A đen, E
trắng, I đỏ, O tím, U xanh – Tôi đã điều chỉnh hình thức và sự vận động của mỗi phụ
âm và với những tiết điệu có tính chất bản năng, tôi tự hào đã sáng chế ra một ngôn
ngữ thơ có thể ngày một ngày hai phù hợp cho tất cả các giác quan”. Với Rimbaud, thi
sĩ là người tiên tri (Le Voyant), là người thay đổi cách nhìn, cách cảm, để chọn trong
hiện thực những giá trị thơ mà người khác không tìm thấy được. [36, tr. 59]
Thơ tượng trưng dùng biểu tượng như là một cấu tạo hình tượng đặc biệt để
chống lại lối miêu tả và biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn. Nói cách
khác, chủ nghĩa tượng trưng tôn trọng điều bí ẩn của thơ. Họ tránh dùng miêu tả mà
dùng những từ gợi lên ý nghĩa. Tức là dùng biểu tượng như là một phương tiện biểu
hiện. Đến thời kỳ cuối, thơ tượng trưng rơi vào hình thức chủ nghĩa, mấp mé giữa
đường ranh nghệ thuật và phi nghệ thuật bằng lối thơ hủ nút, kín mít. Điều này khiến
thơ tượng trưng rơi vào tình trạng phi giao tiếp, có tính chất loại bỏ sự giao tiếp của
người đọc [57].
1.3. Thơ mới và tiếp nhận của chủ nghĩa tƣợng trƣng trong Thơ mới
24

1.3.1. Sự ra đời và ý nghĩa của phong trào Thơ Mới
Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định
của xã hội. Nó là tiếng nói của một tầng lớp người, của một giai cấp vừa mới ra đời,
đang lớn lên hoặc đã già cỗi trong xã hội. Thơ cũ (trong Nam Phong, Văn học tạp chí)
là tiếng nói của một tầng lớp phong kiến đã thất bại và đầu hàng đế quốc. Văn học lãng
mạn từ 1932 trở đi là tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản thành thị. Sự xuất hiện của giai
cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính làm cho phong trào Thơ mới ra

đời [1, tr.16]
Do kết quả sự mở rộng khai thác thuộc địa của đế quốc Pháp, sau chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, một giai cấp tư sản bản xứ hèn yếu ra đời, đồng thời một giai cấp
vô sản tương đối mạnh mẽ hơn cũng xuất hiện. Trong những năm đại chiến 1914 –
1918, giai cấp tư sản Việt Nam đã có những hoạt động khá mạnh.
Giai cấp tiểu tư sản thành thị có điều kiện hình thành sớm hơn ngay sau đợt khai
thác lần thứ nhất. Lúc này, các thành thị lớn đã đông đúc, việc buôn bán tương đối phát
triển, bộ máy viên chức của thực dân và phong kiến đã có quy mô hoàn chỉnh. Giai cấp
này bao gồm những tiểu thương, tiểu chủ, viên chức, giáo viên, học sinh, sinh viên,
những người làm nghề tự do Theo Thống kê niên giám của Đông Dương thì năm
1921 – 1922 ở Việt Nam có khoảng 189.130 giáo viên, công chức, học sinh, sinh viên
và đến năm 1932 – 1933 là năm “Thơ mới” đã ra đời, con số đó lên tới 352.369 người
[10, tr. 17].
Trong những năm sau đại chiến tầng lớp trí thức cũng bắt đầu xuất hiện, nhưng
do sự kìm hãm của thực dân nên nó phát triển chậm. Tính từ năm 1929 trở về trước, tri
thức Việt Nam tốt nghiệp ở Pháp đã có những luật khoa tiến sĩ, y khoa tiến sĩ, cử nhân
văn chương, cử nhân sử địa, cử nhân triết học, cử nhân khoa học. Từ 1920 trở về sau
trong nước đã có một số sinh viên tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm (Dương Quảng
Hàm, Hoàng Ngọc Phách, Đặng Thai Mai ). Ở nước ta, lúc bấy giờ vào loại tri thức
còn có thể kể những người đã đậu bằng tú tài tây hoặc cao đẳng tiểu học.
25

Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (tri thức, viên chức cao cấp)
đã có lối sinh hoạt “văn minh” ở thành thị. Người ta ở nhà lầu, đi ô tô, dùng đèn điện,
quạt điện, đi nghe hòa nhạc hoặc đi xem chớp bóng. Những kiểu sinh hoạt đua đòi, trụy
lạc được thực dân khuyến khích. Năm 1931 dân số Hà Nội không quá 10 vạn người mà
có hơn 100 nhà săm và nhà thổ! Trên báo chí xuất hiện những quảng cáo to tướng của
các ông vua thuốc lậu. Năm nào ở các đô thị lớn cũng có chợ phiên, hội chợ, thi sắc
đẹp Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn
mặc của thanh niên nam nữ. Cô gái Bắc Kì trước kia đội nón thúng quai thao, tóc bỏ

đuôi gà, dép sơn cong tớn, quần áo thâm lượt thượt Sau đó các cô bỏ dép, bỏ nón,
dùng giày mõm nhái, ô đen. Năm 1929, ta đã thấy những cô thiếu nữ Hà thành mặt
đánh phấn, đôi mày vọng nguyệt bằng nét mực Tàu, môi son đỏ chót, áo màu, ô màu,
giày thêu mũi nhọn gót cao. Năm 1931, những cô thiếu nữ “tân tiến” nhất thì đường
ngôi rẽ lệch, giày cao gót, quần trắng, áo màu, khăn san, phấn mặt, chơi tennis.
Thanh niên thành thị giàu sang cũng mỗi năm mỗi “mốt” không kém gì phụ nữ.
Thậm chí cái mốt “y phục lụng thụng” năm 1928 của Paris, những người Pháp ở Đông
Dương chưa dùng mà một số công tử Hà thành đã bắt chước rồi.
Những đổi mới nói trên là những đổi mới nằm trong phạm vi sinh hoạt. Điều đáng chú
ý là những thay đổi về suy nghĩ, cảm xúc do lối sinh hoạt mới gây nên. Những thay đổi
đó cũng do sự tiếp xúc văn hóa với Pháp, đặc biệt là với văn học Pháp. Năm 1915 thực
dân Pháp và triều đình phong kiến bắt buộc bãi bỏ thi hương ở Bắc kì. Khoa thi hội
cuối cùng ở Huế vào năm 1919 đã chấm dấu hết cho một chế độ khoa cử thối nát. Khoa
cử bỏ thì thơ Đường thất ngôn bát cú cũng theo đó mà mất dần vị thế độc tôn. Trong và
sau chiến tranh thế giới thứ nhất, để đầu độc thanh niên và trí thức Việt Nam, thực dân
Pháp cho Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh ra tạp chí Nam Phong, báo Trung Bắc tân
văn và nhà xuất bản Âu tây tư tưởng. Họ giới thiệu và dịch các sách cổ điển và lãng
mạn Pháp, đặc biệt giới thiệu những tư tưởng được coi là bảo thủ, phản động trong văn

×