Tải bản đầy đủ (.pdf) (197 trang)

Những đặc điểm thi pháp của tiểu thuyết huyền thoại hiện đại qua nghệ nhân và margarita của m bulgakov

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 197 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ NHƯ TRANG

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP
CỦA TIỂU THUYẾT HUYỀN THOẠI HIỆN
ĐẠI QUA
NGHỆ NHÂN VÀ MARGARITA CỦA
M.BULGAKOV

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ NHƯ TRANG

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP
CỦA TIỂU THUYẾT HUYỀN THOẠI HIỆN ĐẠI
QUA
NGHỆ NHÂN VÀ MARGARITA CỦA
M.BULGAKOV
Chuyên ngành: Văn học Nga
Mã số: 62 22 30 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. Phạm Gia Lâm


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sự xuất hiện các cuốn tiểu thuyết Ulysses (1922) của J.Joyce, Núi thần
(1924) của T.Mann, Nghệ nhân và Margarita (hoàn thành năm 1940 – xuất bản
năm 1967) của M.Bulgakov đã khiến độc giả cũng như giới phê bình băn khoăn
về thể loại của chúng: đó phải chăng là “biến thể văn học. Tiểu thuyết? Dĩ nhiên
là khơng. Đó khơng phải là tiểu thuyết mà là một dạ hội ma quái của phù thủy,
một bản nhạc Capriccio đồ sộ, một đêm vũ hội của Quỷ hiếm có trong tưởng
tượng” [127, tr. 206-207]. Những tác phẩm như thế tuy thuộc về một khuynh
hướng mới của tiểu thuyết thế kỉ XX, được định danh về mặt thể loại là “tiểu
thuyết huyền thoại” (роман-миф) nhưng những dấu hiệu đặc trưng thể loại của
nó vẫn là vấn đề gây tranh luận. Khám phá đặc trưng thể loại khả dĩ định hình
được một hướng tiếp cận mạch lạc, cách giải thích logic cho những cuốn tiểu
thuyết vốn dĩ rất “rối rắm” trong cấu trúc và ý nghĩa. Những lí giải về đặc trưng
thể loại sẽ trở nên cụ thể và có cơ sở hơn nếu nghiên cứu thơng qua một vài
trường hợp cụ thể.
Nghệ nhân và Margarita của M. Bulgakov là một trong những hiện tượng
lớn nhất của văn học nghệ thuật Nga thế kỉ XX. Đó là cuốn tiểu thuyết được
hồn thành sau nhiều lần bị chính nhà văn xé, đốt… do những áp lực từ chế độ
chính trị. Đó cũng là cuốn tiểu thuyết, do sự gắt gao của chế độ kiểm duyệt, phải
20 năm sau khi hoàn thành mới được in và đến với độc giả (1967). Số phận cuốn
tiểu thuyết đã khẳng định “định đề” nhà văn đặt vào lời của Quỷ ở gần cuối tác
phẩm: “bản thảo không bao giờ cháy”. Ở Nghệ nhân và Margarita người đọc có
thể tìm thấy và khám phá mã lịch sử - tơn giáo – văn hóa folklore, dấu ấn truyền
thống văn học Nga, sự hiện hữu của truyền thống văn học Phương Tây, những
nét tương đồng về mặt thi pháp và những cảm thức thời đại với nhiều tác phẩm
lớn của văn học thế giới thế kỉ XX (Ulysses của J.Joyce, Núi thần của

T.Mann…) và rất nhiều bí ẩn cần giải mã trong phong cách cũng như tư duy
nghệ thuật của M.Bulgakov. Có lẽ cũng vì vậy, từ thời điểm xuất hiện của cuốn
tiểu thuyết cho đến nay, những bàn cãi, tranh luận về nó trong giới phê bình Nga
1


và Phương Tây ln sơi nổi và chưa có điểm dừng. Một trong những tâm điểm của
những bàn thảo ấy vẫn là vấn đề thể loại của tác phẩm.
Mặt khác, trong văn học Nga thế kỉ XX, M. Bulgakov được coi là nhà văn
thuộc bộ phận văn học phi chính thống, một bộ phận văn học tạo thêm tính phức
tạp, đa diện cho bức tranh văn học của giai đoạn này, một bộ phận văn học dẫu
không nhận được sự ủng hộ, “đồng vọng” của thể chế chính trị xơ viết, nhưng
vẫn tồn tại và khẳng định được giá trị và ý nghĩa tồn tại của chính mình, khơng
chỉ với độc giả Nga mà với cả thế giới, không chỉ ở thời điểm ra đời mà cả sau
khi cùng với sự sụp đổ của thể chế xô viết, cái định tính “phi chính thống” đã
được gỡ bỏ. Vì thế, nghiên cứu M.Bulgakov với “tiểu thuyết định mệnh” Nghệ
nhân và Margarita cịn góp phần lí giải sự tồn tại, những đóng góp, những đặc
điểm riêng biệt của bộ phận văn học Nga từng bị cấm đoán trong tổng thể thẩm
mĩ – Văn học Nga thế kỉ XX.
Với tất cả những lí do đó, chúng tơi chọn Nghệ nhân và Margarita của
M.Bulgakov như một trường hợp để nghiên cứu những đặc điểm thi pháp của
tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX.
2. Lịch sử vấn đề
Kể từ thời điểm cuốn tiểu thuyết được in cho đến nay, số lượng các bài báo,
cơng trình nghiên cứu về Nghệ nhân và Margarita trên thế giới khó có thể thống
kê hết được. Ở Nga, những nghiên cứu chuyên sâu về M.Bulgakov chủ yếu tập
trung ở các chun luận của L.Ianovska, M.Chudakova, A.Smeliansky… và các
cơng trình nghiên cứu của V.Lakshin, A.Vulis, B.Sokolov, E.A.Yablokov… Theo
thống kê của B. T. Georgievna trong luận án bảo vệ năm 2001 tại MGU - Sáng tác
của Mikhail Bulgakov trong phê bình viết bằng tiếng Anh những năm 1960-1990

[56], số lượng bài báo và sách nghiên cứu ở Nga về M.Bulgakov từ năm 1967 đến
1997 là 220 [56, tr. 193-201]. Ở Mĩ và Phương Tây, số lượng những bài báo
nghiên cứu về cuốn tiểu thuyết cuối cùng của M.Bulgakov đăng trên các tạp chí
New York Times, Australia Slavonic and East European Studies, Slavic Review,
Slavic and East European Journal, Russian Review, Slavonic And East European
Review, Canadian Slavonic Papers, Russsian Literature Triquaterly từ 1967 đến
2


1997 là 289 [56, tr. 177-192]. Số lượng bài báo đã công bố nghiên cứu về Nghệ
nhân và Margarita ở Việt Nam: 03 bài và lời giới thiệu văn xuôi M.Bulgakov của
Đồn Tử Huyến mở đầu Tuyển tập văn xi M.Bulgakov.
Phổ chung nghiên cứu của ngành “Bulgakov học” (Bulgakovedenie) rất
rộng, bao gồm: các lĩnh vực thi pháp học, văn bản học, văn hóa học, nghiên cứu
so sánh,… các vấn đề giai đoạn sáng tác cuốn tiểu thuyết, ngọn nguồn, thể loại,
cấu trúc, motif, tư tưởng của nó. Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề thể loại
của Nghệ nhân và Margarita, nên chúng tôi quan tâm nhiều đến các tài liệu bàn về
thể loại, đặc biệt là những cơng trình trực tiếp hoặc gián tiếp gợi ý cách hình dung
Nghệ nhân và Margarita như một tiểu thuyết huyền thoại và những đặc điểm thi
pháp thể loại của tác phẩm.
Bàn về thể loại của Nghệ nhân và Margarita, các nhà nghiên cứu đi theo
bốn hướng. Khuynh hướng thứ nhất cho rằng tiểu thuyết được xây dựng dựa trên
việc kết hợp sử dụng các thể loại đã tồn tại trước đây. Hầu hết các nhà phê bình
đều lưỡng lự trong việc xác định thể loại cụ thể, họ nhận ra các đặc điểm khác
nhau giữa các chương Moskva và Yershalaim và không thể hợp nhất các tuyến
truyện vào trong tổng thể thống nhất. Khuynh hướng thứ hai nhìn tiểu thuyết như
một dạng thức của thể loại châm biếm. Các nhà nghiên cứu tranh cãi về các thể
loại từ châm biếm chính trị đến châm biếm Menippus. Khuynh hướng thứ ba coi
tiểu thuyết như một tác phẩm quan trọng của chủ nghĩa hiện đại. Khuynh hướng
thứ tư nhìn Nghệ nhân và Margarita như một tác phẩm thuộc chủ nghĩa tân

huyền thoại của thế kỉ XX. Dưới đây chúng tôi sẽ lần lượt phân tích từng khuynh
hướng nghiên cứu. Theo đó, chúng tơi khơng triển khai lịch sử vấn đề theo nhóm
những nghiên cứu của Nga, Phương Tây và Việt Nam, cũng như không phân
định theo các giai đoạn mà đi theo các cụm vấn đề đã được đặt ra.
Nghệ nhân và Margarita - tiểu thuyết thống hợp nhiều thể loại
Trong cuốn sách Thập kỉ cuối cùng của Mikhail Bulgakov: nhà văn như là
nhân vật [151], học giả J.A.E.Curtis của Đại học Oxford đã chỉ ra rằng cuốn tiểu
thuyết mang hình thức thể loại đặc biệt. Theo bà, cấu trúc phức tạp và các phong
cách khác nhau chạy suốt các chương Moskva và Yershalaim đã khiến các nhà
3


phê bình tranh cãi về thể loại của nó. Họ khẳng định rằng các tác phẩm văn học
những giai đoạn trước hoặc các truyền thống văn học đã ảnh hưởng đến
M.Bulgakov và hướng đến miêu tả sự kết hợp khác thường của các thể loại trong
bản thân tác phẩm.
Nhà phê bình người Nga A.Lesskis hướng nhiều đến vấn đề hình thức
trong cơng trình phê bình của mình. Ơng chỉ ra những đặc điểm khác nhau của
các chương Yershalaim và Moskva, và gọi tác phẩm của M.Bulgakov là “tiểu
thuyết cặp đôi” (двойной роман), tiểu thuyết trong tiểu thuyết, một tiểu thuyết
về một tiểu thuyết [75, tr. 52]. Theo ông, Nghệ nhân và Margarita không trùng
với diện mạo thể loại của một tiểu thuyết (ông định nghĩa tiểu thuyết là thể loại
bàn luận về số phận của một người hoặc một nhóm người, kết nối với những
người khác), mà đó là một hiện tượng thể loại đặc biệt [75, tr. 54]. Lesskis hoàn
toàn đúng khi lưu ý rằng Nghệ nhân và Margarita vượt ra ngồi cách hình dung
truyền thống về thể loại tiểu thuyết nhưng cách phân loại Nghệ nhân và
Margarita như một tiểu thuyết cặp đơi đã bỏ qua tính chặt chẽ trong cấu trúc,
những dấu hiệu lặp lại giữa trần thuật Moskva và Yershalaim, tính tổng thể
thống nhất về mặt triết mĩ của nó.
K.Simonov [101, tr. 181] tuy vẫn sử dụng khái niệm “tiểu thuyết cặp

đôi”, nhưng khẳng định rằng M.Bulgakov về cơ bản đã đưa một tiểu thuyết tâm
lí vào trong tiểu thuyết huyễn tưởng. Việc nhà phê bình nhấn mạnh huyễn
tưởng như một phương thức nổi trội của tác phẩm vẫn cịn mơ hồ ở chỗ nó
khơng giải thích được sức nặng của những đoạn miêu tả tâm lý liên quan đến
Nghệ nhân và Pilate.
Nhà phê bình Larisa Fialkova tiếp cận tác phẩm của M.Bulgakov theo
hướng so sánh, bắt đầu bằng việc thừa nhận rằng tiểu thuyết kết hợp trong nó
nhiều thể loại. Khi bàn về những nét tương đồng giữa cái nhìn của M.Bulgakov và
Andrei Belyi về thành phố Moskva, Fialkova cho rằng các chương Yershalaim
được viết theo thể loại tiểu thuyết lịch sử [117, tr. 366]. Khi bàn về các yếu tố ảo
trong các chương Moskva bà không đưa ra những phân định về thể loại (như bà đã
từng tiến hành với các chương Yershalaim). L.Fialkova khơng giải thích tại sao
4


M.Bulgakov lựa chọn thể loại tiểu thuyết lịch sử cũng như không trả lời câu hỏi về
hiệu ứng tổng thể do nó tạo ra. Giống như A.Lesskis, L.Fialkova khơng giải thích
thỏa đáng về sự liên kết giữa hai phần của tiểu thuyết, cũng như khơng đề xuất
một ngun lí liên kết chung của toàn bộ tác phẩm.
Mikhail Kreps đi xa hơn L.Fialkova trong cách nhận diện các thể loại tồn
tại trong tiểu thuyết. M.Kreps khẳng định rằng kiệt tác của M.Bulgakov chứa
đựng trong nó ít nhất bốn thể loại: 1) truyện trào phúng (liên quan đến phần miêu
tả đời sống văn chương và sân khấu ở Moskva đương đại); 2) truyện lịch sử
(Yeshua và Ponti Pilate); 3) truyện lãng mạn (Nghệ nhân và Margarita); 4)
truyện phiêu lưu (cuộc phiêu lưu của Voland và đoàn tùy tùng ở Moskva đương
đại) [70, tr. 70].
Đoàn Tử Huyến với lời giới thiệu của Tuyển tập văn xi Bulgakov có phần
giống với M.Kreps khi đưa ra nhận định về tính chất tổng hợp và phức tạp của thể
loại ở Nghệ nhân và Margarita, thậm chí ông còn “mở rộng” danh sách thể loại
tồn tại trong tiểu thuyết này: “chúng ta có thể xếp Nghệ nhân và Margarita vào

các loại: tiểu thuyết triết học, tiểu thuyết trào phúng, tiểu thuyết giả tưởng, tất
nhiên cả tiểu thuyết hiện thực và…” [23, tr. 16]. Làm rõ sự kết hợp của nhiều thể
loại trong tác phẩm, Đoàn Tử Huyến đã phân tách ba nhóm sự kiện: nhóm sự
kiệm trào phúng, nhóm sự kiện liên quan đến Nghệ nhân – nhóm sự kiện mang
tính bi kịch và nhóm sự kiện về lịch sử cổ đại; tương ứng với các nhóm sự kiện là
các nhóm nhân vật. Về cơ bản, Đồn Tử Huyến gợi ý cho người đọc hình dung về
sự phức tạp của các thể loại tồn tại trong Nghệ nhân và Margarita.
Rất nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng tiểu thuyết của M.Bulgakov là
sự tiếp nối của truyền thống Faust. Dựa vào trên những trích dẫn và những ám
gợi truyền thuyết nhiều người đã tranh cãi về bản chất và phạm vi sự tồn tại của
Faust trong Nghệ nhân và Margarita. Năm 1969, Elizabeth Stenbock- Fermor,
một trong những nhà phê bình đầu tiên của Phương Tây về M.Bulgakov, đã so
sánh tiểu thuyết của Bulgakov với Faust của Goethe và những phiên bản khác
của truyền thuyết Faust ở thế kỉ XVI [180]. Andrew Barratt, người viết lời giới
thiệu cho cuốn chuyên khảo về Nghệ nhân và Margarita, cho rằng trong chương
5


đầu cuốn tiểu thuyết của M.Bulgakov những ám gợi về Faust quá rõ ràng [143,
tr. 138]. Edythe Haber [160] và sau đó là Gisela Zimmermann [186] thừa nhận
sự phân chia các nguyên mẫu của Goethe trong một số nhân vật. E.Habber chỉ ra
rằng tác phẩm của M.Bulgakov gắn kết chặt chẽ với nhiều yếu tố trong câu
chuyện về Faust và Chúa; tuy nhiên, ơng khơng chuyển tải ngun vẹn tồn bộ
cốt truyện và nhân vật của Faust vào trong tiểu thuyết của mình [160, tr. 384].
Hơn nữa, E.Habber khẳng định, M.Bulgakov “tiếp cận các huyền thoại như là
những phức hệ của các motif cốt truyện và các đặc điểm nhân vật, những yếu tố
có thể bị phá vỡ để xuất hiện trong những kết hợp hoàn toàn khác ở cốt truyện
chính của ơng” [160, tr. 384]. Ý kiến này gợi đến thi pháp liên văn bản trong tiểu
thuyết của M.Bulgakov mà chúng tôi sẽ đề cập đến ở khuynh hướng tiếp cận thể
loại thứ tư.

Sự tồn tại của nhiều thể loại khác nhau trong Nghệ nhân và Margarita
cũng được giới nghiên cứu quan tâm đến. Một số nhà phê bình dùng thể loại
truyện cổ tích (сказка) để giải thích các đặc điểm hình thức của tiểu thuyết. Sona
Hoisington, một nhà nghiên cứu người Mĩ [161, tr. 44], sau đó là Rita Giuliani,
một chuyên gia người Italia về M.Bulgakov [58, tr. 288], cũng như nhà phê bình
người Serbia M.Povanovic [96, tr. 61] đã bàn luận rằng các phần của tiểu thuyết
dường như tn theo mơ hình về truyện cổ tích mà Vladimir Propp miêu tả trong
Hình thái học truyện cổ tích (1928). L.Milne trong bài viếtNghệ nhân và
Margarita - một vở hài kịch về chiến thắng [167] nhìn thấy kịch tơn giáo và
carnaval thời Trung Cổ đi kèm với các lễ hội tôn giáo trung cổ như là những tiền
đề của hình thức tiểu thuyết [167, tr. 2]. Tìm ra những nét tương đồng của tiểu
thuyết M.Bulgakov với cách giải thích về Chúa và những cảnh vui đùa, khôi hài
xung quanh câu chuyện linh thiêng, thần thánh, chỉ ra mối quan hệ giữa sân khấu
dân gian Nga và truyền thống Trung cổ này và mối quan hệ với cả tiểu thuyết
của M.Bulgakov [167, tr. 3], nhà phê bình kết luận tiểu thuyết là “một vở hài
kịch về chiến thắng tinh thần đối với thế giới vật chất và cái chết” [167, tr. 33].
Guiliani khi lưu ý đến mối liên hệ với truyện kể dân gian, cũng nói thêm: tiểu
thuyết của M.Bulgakov đã kết hợp nhiều thể loại khác nhau của sân khấu bình
6


dân Nga và Ukraina. Nhà phê bình chỉ ra rằng M.Bulgakov sử dụng chúng như
là “kí ức khách quan về thể loại”, theo cách nói của M.Bakhtin.
Chúng tơi khi tiếp cận với các cơng trình trên hồn tồn chia sẻ với các
nhà nghiên cứu quan điểm cho rằng tác phẩm của M.Bulgakov đã thay đổi cách
hình dung thơng thường trước đây về thể loại, giới hạn thể loại tiểu thuyết được
mở rộng tối đa, thậm chí bị phá vỡ. Từ đó chúng tơi thấy cần cắt nghĩa tại sao có
hiện tượng đó và cần có khái niệm lí luận định danh thể loại/ biến thể thể loại
này. Ngoài ra, các cơng trình nghiên cứu đã nêu cũng gợi ý cho chúng tôi rằng,
với Nghệ nhân và Margarita không thể bỏ qua các văn bản và truyền thống triết

mĩ liên quan, vai trị của nó đối với việc định hình tư duy thể loại. Hai vấn đề
này sẽ được triển khai trong chương 1 và chương 2 của luận án.
Nghệ nhân và Margarita - tiểu thuyết châm biếm và giễu nhại
Từ thời điểm bản in tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita xuất hiện vào
năm 1967, rất nhiều nhà phê bình phương Tây và Nga đều coi cuốn tiểu thuyết
như một hình thức châm biếm.
Các nhà phê bình Phương Tây thời kỳ đầu, chẳng hạn Elena Mahlow, cho
rằng tiểu thuyết chứa đựng bộ mã và phúng dụ về thời đại Stalin trong lịch sử xơ
viết. L.Skorino, năm 1968, với bài báo có tên gọi Những khn mặt khơng có
mặt nạ carnaval [102] xuất bản trên Voprosy Literatury coi tiểu thuyết của
M.Bulgakov như một cuộc tấn công ngầm ẩn vào hiện thực xô viết qua việc sử
dụng yếu tố huyễn tưởng [102, tr. 17]. Châm biếm ở tác phẩm của M.Bulgakov
rõ ràng hướng vào hiện thực xơ viết, nhưng nó khơng đơn thuần chỉ là một vấn
đề chính trị mà liên quan đến cả quan điểm triết học và thế giới quan siêu hình
của M.Bulgakov. L.Skorino, tuy nhiên, lảng tránh những câu hỏi về triết học nảy
sinh trong tiểu thuyết. I.Vinogradov cũng đưa ra một cái nhìn tương tự với
L.Skorino, coi Nghệ nhân và Margarita như một tác phẩm châm biếm chính trị.
Trong bài báo Di chúc của Nghệ nhân [49], I.Vinogradov khi tập trung vào các
chương Yershalaim đã so sánh tình trạng tiến thoái lưỡng nan về mặt đạo đức
của Pilate với trí thức Nga - những người cố gắng giữ lại sự thật trong lương tâm
của mình [49, tr. 43]. Cùng năm, Vladimir Lakshin tiếp tục phát triển luận điểm
7


của I.Vinogradov trong bài báo Tiểu thuyết “Nghệ nhân và Margarita” của
M.Bulgakov [73] đăng trên “Novy Mir”, tập trung vào tình thế tiến thối lưỡng
nan khi Pilate quyết định hành hình Yeshua. Luận điểm của cả V.Lakshin và
I.Vinogradov cho rằng tiểu thuyết thể hiện tình thế lưỡng nan của trí thức Nga
khi vật lộn trong sự giam cầm của xã hội xơ viết đều khơng có sức thuyết phục.
Song cũng cần ghi nhận ở bài báo của V.Lakshin những gợi ý, những ý tưởng

quan trọng, đặt cơ sở ban đầu cho những nghiên cứu thể loại của Nghệ nhân và
Margarita, dẫu ông chưa đưa ra được cách gọi tên thể loại hợp lí. Nhà nghiên
cứu cho rằng M.Bulgakov đã “liên kết một cách dễ dàng cái không thể liên kết:
lịch sử và châm biếm, trữ tình và huyền thoại, sự tồn tại và cái huyễn tưởng – tạo
ra khó khăn nhất định khi xác định thể loại của tác phẩm” [73, tr. 284]. Theo
V.Lakshin nếu gọi tên thể loại tiểu thuyết là Menippus sẽ khơng diễn đạt được
tính đa dạng của phong cách. Các nhà phê bình cũng sai lầm khi gọi Nghệ nhân
và Margarita là “sử thi hài hước” hay “tiểu thuyết khơng tưởng châm biếm”.
Ơng cho rằng chỉ cần gọi Nghệ nhân và Margarita là “tiểu thuyết”, ở đó có sự
kết hợp các yếu tố hài hước và hiện thực, hiện thực và dị thường, cái bình
thường và cái bất thường. Những ý tưởng về hình ảnh một Yeshua khơng giống
với truyền thống Phúc âm, một hình ảnh Jesus của riêng M.Bulgakov, một
Voland và ý nghĩa nước đôi về cái ác đã được khơi lên ở bài báo này.
Nhiều nhà phê bình Phương Tây thừa nhận sự hiện diện của các yếu tố
châm biếm trong tác phẩm của M.Bulgakov. Tuy nhiên, họ khơng coi tồn bộ tác
phẩm là sự châm biếm trực diện với xã hội xô viết. Quan điểm cho rằng
M.Bulgakov không đơn thuần châm biếm một đối tượng riêng, đặc biệt mà giễu
nhại cả hệ thống đức tin đã được khơi lên trong giới phê bình. Donald B.Pruit,
chẳng hạn, nghiên cứu giễu nhại (parody) trong tác phẩm của M.Bulgakov,
nhưng ở phạm vi tôn giáo. D.Pruit coi tiểu thuyết như một tổng thể thể hiện thái
độ giễu nhại Phúc âm của St.John trong cả cách xây dựng nhân vật và văn phong
[174, tr. 319]. Voland, theo ông, là hình tượng giễu nhại Chúa [174, tr. 313].
Ơng luận bàn rằng hành động “ác” của Voland rất mong manh. Sự chuộc lỗi của
Pilate gắn liền với khái niệm về Thượng Đế thần thánh.
8


Một nhóm các nhà phê bình khác coi Nghệ nhân và Margarita như một
hình thức châm biếm Menippus. Nhà phê bình người Nga A.Vulis, trong lời bạt
cuốn sách Nghệ nhân và Margarita xuất bản năm 1966 đã miêu tả tiểu thuyết như

một thể loại châm biếm Menippus, ở đó có sự xuất hiện của các yếu tố tiếng cười
và carnaval thể hiện những tư tưởng triết học. Ellendea Proffer chia sẻ với A.Vulis
quan điểm về thể loại của Nghệ nhân và Margarita trong bài báo năm 1969 [172,
tr. 616] và cơng trình sau này Bulgakov - cuộc đời và tác phẩm (1984) [173, tr.
531] rằng Nghệ nhân và Margarita có thể được xếp vào phạm trù của châm biếm
Menippus. Cách hiểu của E.Proffer về thể loại châm biếm Menippus dựa trên
những nghiên cứu của N.Frye, M.Bakhtin. Theo bà, trong châm biếm Menippus
tác giả sử dụng cái huyễn tưởng, cái nghiêm trang, cái hài, tính kịch, trần thuật
khơng cịn tính cân đối, hòa trộn hiện thực và huyễn tưởng [172, tr. 617]. Kiểu
châm biếm này phá vỡ truyền thống không - thời gian và không bị hạn chế bởi
nguyên tắc miêu tả giống như thật. Các nhân vật của châm biếm Menippus thuộc
về truyền thuyết và có thể là những nhân vật lịch sử có thật. Các yếu tố tơn giáo và
thần bí thường được thể hiện dưới hình thức hài hước và thô lỗ. Những nhà văn
châm biếm viết theo lối Menippus thường kết hợp triết học và huyễn tưởng. Họ
tạo ra những trạng thái tư duy đặc biệt, chẳng hạn như những giấc mơ và tình
trạng mất trí, điên rồ đặc biệt là bệnh schizophrenia (bệnh tâm thần phân liệt). Nhà
văn loại bỏ thế giới dựa trên lí trí và có trật tự, bởi vậy sự gián đoạn, đứt gãy và
mâu thuẫn là đặc điểm thường xuất hiện trong câu chuyện. Bà chỉ ra rằng tiểu
thuyết của M.Bulgakov có đầy đủ tất cả các đặc điểm đó [172, tr. 619].
Bruce A.Beatie và Phyllis W.Powell, hai nhà phê bình người Mĩ coi phân
tích cấu trúc như một cơng cụ để giải mã tiểu thuyết của M.Bulgakov, có phần
lưỡng lự khi xác định thể loại cho Nghệ nhân và Margarita. Trong khi vẫn thừa
nhận có thể coi Menippus là biến thể của tiểu thuyết, họ lại khẳng định Nghệ
nhân và Margarita cùng với Ulysses của Joyce thuộc về “thể loại hiếm khi xuất
hiện mà Northrop Frye gọi là “tiểu thuyết bách khoa” [145, tr. 237]. Các nhà phê
bình cho rằng đặc điểm “các cấu trúc ám dụ đa nghĩa đan cài vào nhau, các phức
hợp motif và biểu tượng liên kết với nhau…, đặc biệt không thay đổi là những

9



ám dụ ngẫu nhiên bên ngoài đối với lịch sử xã hội và văn chương” được tìm thấy
trong tiểu thuyết của M.Bulgakov tương ứng với châm biếm Menippus, nhưng
cách tổ chức hướng tâm cao độ và cấu trúc biểu tượng “đơn tử” lại hướng vào
đặc trưng của tiểu thuyết bách khoa (encyclopedic fiction) [145, tr. 237]. Tuy
nhiên, theo quan điểm của N.Frye, thực chất tiểu thuyết bách khoa luôn gắn chặt
với thể loại châm biếm Menippus. Vì vậy, mặc dù cố gắng phân biệt châm biếm
Menippus với tiểu thuyết bách khoa, các nhà phê bình vẫn miêu tả chúng giống
nhau. Ngồi ra, A.Beatie và Ph.Powell cịn khẳng định rằng tiểu thuyết này trên hết
là một tiểu thuyết mỉa mai, châm biếm (ironic fiction). Sự nhập nhằng về thể loại
theo họ xuất phát từ tính đa dạng trong các phương diện châm biếm.
A.Beatie và Ph.Powell cũng nói rằng những ám gợi về kinh ngụy tác trong
phức hệ biểu tượng “những cái đầu bị chặt” gợi ý rằng tiểu thuyết này là tiểu
thuyết ngụy tác, rằng đó là một tác phẩm hướng vào “sự kết thúc của tất cả mọi
thứ” [145, tr. 237]. Trong cơng trình nghiên cứu Hình ảnh sách khải huyền trong
tiểu thuyết Nga hiện đại (1989) [147], David Bethea một lần nữa khẳng định
quan điểm này. Bethea coi đây là tiểu thuyết khải huyền (apocalyptic fiction), và
nhận xét rằng tiêu điểm của các tiểu thuyết khải huyền không phải là sự chuyển
đổi thế giới trần tục sang một trạng thái được hiểu là nhân văn hoàn hảo mà dự
báo về sự kết thúc của con người và vũ trụ như đã được tiên tri trong Tân ước
hoặc trong những cuốn sách Khải huyền khác [147, tr. 149-150]. Quả thực, cuốn
sổ tay về Nghệ nhân và Margarita của M.Bulgakov những năm 1938-1939 đã
thể hiện rõ rằng ông dành sự quan tâm đặc biệt cho sách Khải huyền. Dưới tiêu
đề “Nostradamus”, M.Bulgakov tơ đậm bằng bút chì đỏ và xanh một ghi chú
rằng sự kết thúc của thế giới được tiên đoán xảy ra vào năm 1943.
Như vậy khuynh hướng phê bình này coi châm biếm như thể loại gốc của
Nghệ nhân và Margarita. Cách phân loại này có cơ sở hợp lí nhất định. Chúng
tơi cho rằng châm biếm là một trong những phương thức chủ đạo trong cách tổ
chức tác phẩm của M.Bulgakov. Phân tích tác phẩm khơng thể bỏ qua phương
thức và hiệu ứng châm biếm được tạo ra. Tuy nhiên, cách định danh Nghệ nhân

và Margarita là tiểu thuyết châm biếm không bao trùm được tất cả các đặc điểm
thi pháp của tiểu thuyết.
10


Nghệ nhân và Margarita - tiểu thuyết của chủ nghĩa hiện đại
Một số nhà phê bình cho rằng Nghệ nhân và Margarita chắc chắn là một dẫn
chứng của văn xuôi chủ nghĩa hiện đại – một khuynh hướng ở đó các nhà văn muốn
loại bỏ thực tại hỗn loạn để dựng nên một thế giới độc lập với thế giới đang diễn ra
và trong đó người nghệ sĩ/ nhà văn là thực thể tối cao, được đặt lên trên hết. L.Milne
coi đây là một tiểu thuyết hiện đại, nếu hiểu chủ nghĩa hiện đại theo nghĩa rộng nhất
là một phong trào chung của Châu Âu cố gắng lấy ra những giá trị và ý nghĩa từ
khủng hoảng [168, tr. 261]. D.Bethea cho rằng Nghệ nhân và Margarita có thể
được coi là tiểu thuyết “hiện đại” đặc biệt (par excellence) của Nga-soviet [147, tr.
205-206]. Luận điểm này của nhà nghiên cứu dựa trên một vài đặc điểm của tiểu
thuyết. Thứ nhất là khả năng của M.Bulgakov trong việc mã hóa các giễu nhại phức
tạp đối với câu chuyện Kinh Thánh và Faust của Goethe. Thứ hai là khả năng đưa
chính cuộc đời của mình vào trong tiểu thuyết. Thứ ba là mối quan tâm sâu sắc
dành cho vấn đề cái thiện và cái ác, khớp nối với một cấu trúc cực kỳ phức tạp.
Vladimir Tumanov bàn luận về vai trò của Quỷ trong tác phẩm của M.Bulgakov,
khẳng định rằng đây là “một tác phẩm độc đáo của chủ nghĩa hiện đại” [181, tr. 49].
Với V.Tumanov, Voland xuất hiện như một biểu tượng về sự giải phóng tinh thần,
nghệ thuật và vật chất [181, tr. 50]. V.Tumanov sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa hiện
đại” trong sự đối lập với các tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Quỷ
như một nhân tố trong cuộc nổi loạn nghệ thuật, theo quan điểm của V.Tumanov,
hắn thất bại trong cuộc đấu tranh của mình ở cuối cuốn tiểu thuyết [181, tr. 61].
Giống như E.Proffer, B.A.Beatie và Ph.W.Powell, O.Kushlina và Yu.
Simrnov lưu ý đến sự hòa trộn các phong cách và truyền thống trong tiểu thuyết
của M.Bulgakov [72, tr. 285]. Tuy nhiên, các nhà phê bình khơng phân định rõ
tiểu thuyết thuộc thể loại nào. Họ gọi tiểu thuyết là một “mơ hình văn hóa”

(модель культуры) [72, tr. 303] bởi nó có nguồn gốc từ sự hòa trộn các truyền
thống cổ xưa, ngoại giáo, đạo Do Thái, tiền Kito giáo, Quỷ học Trung cổ Đông
Âu, cả huyền thoại tiền Kito và hậu Kito.
Một số nhà nghiên cứu, để khẳng định tính chất hiện đại của tác phẩm, đã
chứng minh rằng Nghệ nhân và Margarita chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học
11


Kỉ nguyên bạc và coi đây là “tiểu thuyết triết học” (philosophical novel).
A.Barratt [143] và I.L.Galinskaya [53] đặt tiểu thuyết của M.Bulgakov trong mối
liên hệ với triết học của V.Soloviev. Sau này, Riitta Pittman nhấn mạnh thêm
tầm quan trọng của tư tưởng Nikolai Berdiaev với tác phẩm của M.Bulgakov.
Đặc biệt những ảnh hưởng của triết học P.A.Florensky đối với M.Bulgakov được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến. M.Chudakova cho rằng cuốn sách Tính ảo
trong hình học của P.A.Florensky ảnh hưởng rất lớn đến M.Bulgakov trong cách
tổ chức thời gian – kiểu thời gian đứt đoạn [129]. Ý tưởng đó tiếp tục được
B.A.Beatie và Ph.W.Powell khai thác khi nhìn thấy sự tương ứng của mơ hình
vũ trụ do P.A.Florensky đưa ra với cấu trúc không thời gian của Nghệ nhân và
Margarita: những giao cắt bề mặt, những chuyển dịch từ tưởng tượng sang hư
ảo, những yếu tố phi lí trong khơng gian và thời gian của tiểu thuyết theo họ cần
phải được lí giải từ “tri thức về tính hư ảo” mà P.A.Florensky đưa ra [146, tr.
260-261 ]. J.A.E.Curtis [151], B.Sokolov [105], G.Krugovoy [165] và đặc biệt là
Howard Solomon [179] đi xa hơn nữa trong nghiên cứu ảnh hưởng của nhà triết
học này với M.Bulgakov khi đặt cả P.A.Florensky và M.Bulgakov trong mạch
chảy của chủ nghĩa tượng trưng Nga và triết học kỉ nguyên bạc, nhấn mạnh ảnh
hưởng của P.A.Florensky đến M.Bulgakov ở tư duy siêu hình. Luận án của
chúng tơi sẽ tiếp tục đề cập đến phương diện này, coi đó là nền tảng triết học
quan trọng để giải thích ý nghĩa của các huyền thoại trong tác phẩm.
Đặt Nghệ nhân và Margarita trong bối cảnh văn xuôi hiện đại chủ nghĩa
là khuynh hướng được nhiều nhà phê bình, nhà nghiên cứu ủng hộ, tuy nhiên đây

vẫn chưa phải là cách xác định thể loại cụ thể, chuyển tải được một cách khái
quát đặc điểm thi pháp của tác phẩm. Bên cạnh đó, khẳng định tác phẩm thuộc
văn xi hiện đại chủ nghĩa song các nhà nghiên cứu chưa đưa ra được các tiêu
chí thể loại cụ thể cho các luận điểm của mình. Những cơng trình nghiên cứu đã
nêu, dù vậy, cũng đã chỉ ra cho chúng tôi một định hướng quan trọng: muốn hiểu
ý nghĩa của huyền thoại trong Nghệ nhân và Margarita phải đặt tác phẩm trong
mối liên hệ với môi trường triết học kỉ nguyên bạc, đó là “trường” triết –mĩ quan
trọng đối với tác phẩm.
12


Nghệ nhân và Margarita - tiểu thuyết huyền thoại (роман – миф)
A.V.Mironov [89], B.Gasparov [52], S.Telegin [111]…. trong các công trình
nghiên cứu của mình đã xác định Nghệ nhân và Margarita là tiểu thuyết huyền
thoại.S.Telegin trong cơng trình Tiểu thuyết huyền thoại Nga khơng dành một
chương riêng để phân tích Nghệ nhân và Margarita. Song, trong chương 1 – Huyền
thoại – văn học - tiểu thuyết, khi đề cập đến sự phân biệt tiểu thuyết huyền thoại thế
kỉ XIX và tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX, nhà nghiên cứu xếp Nghệ nhân và
Margarita vào nhóm tiểu thuyết huyền thoại (роман – миф) cùng với Lâu đài, Biến
dạng, Trăm năm cơ đơn,… ở đó huyền thoại “khơng phải là một thủ pháp (như thế
kỉ XIX) mà trở thành “khung” của tiểu thuyết [111, tr. 24]. “Khu vực huyền thoại
hóa” của các tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX theo S.Telegin: “được chuyển từ thế
giới bên ngoài vào trong tâm hồn con người” [111, tr. 24]. Ông nhấn mạnh sự tác
động tổng thể của huyền thoại đối với tiểu thuyết thế kỉ XX đặc biệt ở phạm trù tư
duy thẩm mĩ. Dẫu không đưa ra những chứng minh cụ thể song luận điểm đó đã gợi
cho chúng tơi ý tưởng về sự khác nhau cơ bản giữa tiểu thuyết có chứa yếu tố huyền
thoại của thế kỉ XIX và tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX từ đó có định hướng để
tiếp cận Nghệ nhân và Margarita với tư cách là một tiểu thuyết huyền thoại. Cơng
trình của S.Telegin ngồi chương 1 đề cập một chút đến tiểu thuyết huyền thoại thế
kỉ XX, phần lớn các trang viết dành để nghiên cứu huyền thoại trong tiểu thuyết thế

kỉ XIX (tiểu thuyết của I.A. Goncharov ở chương 2, của M.E. Santykov-Shedrin ở
chương 3 và chương 8, của N.X. Leskov ở chương 4, của F. Dostoevsky ở chương
5 và chương 9, của P.I.Melnikov ở chương 6, của L.Tolstoy ở chương 7) và nặng về
phân tích cổ mẫu. B.Gasparov chứng minh Nghệ nhân và Margarita là tiểu thuyết
huyền thoại thơng qua việc phân tích các motif cấu trúc. Nhà nghiên cứu đi tìm
motif của Kinh Thánh, Faust … trong các nhân vật như Bezdomny, Berlioz;
khẳng định hình ảnh đám cháy ở Moskva hiện đại như một huyền thoại chứa đựng
hình ảnh đám cháy ở Rome dưới thời Nero và đám cháy ở Moskva vào năm 1812,
đó vừa là quá khứ vừa là tương lai, chuyển động vào hiện tại, một sự hồi ức mang
tính huyền thoại và đồng thời là lời tiên tri; khám phá hình ảnh Moskva và sự phản
chiếu một Yershalaim huyền thoại. A.V.Mironov cho rằng nghiên cứu tiểu thuyết
13


huyền thoại (Nghệ nhân và Margarita, Hố móng …) khơng chỉ dừng lại ở yếu tố
hình ảnh, motif hay cốt truyện mà cần quan tâm đến các nguyên lí thể loại, để tìm ra
ngun lí thể loại cần phải trả lời được huyền thoại là gì và tại sao tư duy huyền
thoại xâm nhập được vào tiểu thuyết.
Luận án của chúng tôi tiếp tục quan điểm của các nhà nghiên cứu về cách
xác định thể loại của tác phẩm. Từ “điểm dừng” cũng như gợi ý của các nhà nghiên
cứu chúng tôi nhận thấy rằng để chứng minh tiểu thuyết huyền thoại như một thể
loại cần phải xác định được những tiêu chí cụ thể về phương diện thi pháp. Các tiêu
chí nhận diện thể loại này được chúng tơi nêu ra trong chương 1 của luận án.
Một số công trình nghiên cứu cấu trúc tác phẩm tuy khơng nêu ra cách
định danh thể loại cho Nghệ nhân và Margarita song đã chỉ ra một vài đặc điểm
thi pháp nổi bật của tiểu thuyết, có mối liên hệ với yếu tố huyền thoại. Khi
nghiên cứu đặc điểm thi pháp của tiểu thuyết huyền thoại Nghệ nhân và
Margarita chúng tôi không thể không lưu ý đến những luận điểm trong những
công trình đó. Ekaterina Skorospelova nhận định rằng các motif cấu trúc trong
Nghệ nhân và Margarita về cơ bản dựa trên sự đối lập “cái của mình”/ “của kẻ

khác” (cвое/ чужое). Khơng đưa ra những phân tích q cụ thể và chi tiết song
theo Skorospelova, cặp đối lập này hiện diện trong cả không gian, thời gian, hệ
thống nhân vật của tác phẩm [103, tr. 84-86]. Luận điểm này gợi ý cho chúng tơi
tìm hiểu sự chi phối của đặc điểm tư duy huyền thoại (hướng đến sự đối lập) với
cấu trúc tiểu thuyết đặc biệt là cấu trúc không-thời gian trong chương 2. Một số
motif ít nhiều gắn liền với huyền thoại đã lần lượt được các nhà nghiên cứu đưa
ra. Chẳng hạn, Vũ Công Hảo trong bài báo Bàn thêm về motif và cấu trúc motif
trong tiểu thuyết thuyết Nghệ nhân và Margarita của M.Bulgakov đã khái quát
và phân loại hai nhóm motif quan trọng trong tác phẩm: “motif xác định tổ chức
cốt truyện” và “motif xác định vị thế của nhân vật”. Luận án của chúng tôi quan
tâm nhiều đến những phân tích về sự chuyển hóa của “cặp motif đối lập thiện –
ác” trong “motif xác định tổ chức cốt truyện”, đồng thời chúng tôi cũng đề cập
đến một số motif mà nhà nghiên cứu nêu ra, chẳng hạn motif “gặp gỡ”, nhưng
nhấn mạnh hơn mối liên hệ của nó với các cổ mẫu huyền thoại.
14


Liên văn bản là một trong những phương pháp chủ đạo được sử dụng khi
nghiên cứu tiểu thuyết huyền thoại. Rất nhiều cơng trình về Nghệ nhân và
Margarita ở cả Nga, phương Tây và Việt Nam từ cuối những năm 90 của thế kỉ
XX đến nay hướng đến sử dụng phương pháp này. Chúng tơi tìm thấy ở đó những
gợi ý quan trọng cho việc giải quyết vấn đề nghiên cứu của mình. Khơng phải đến
những năm 90, giới phê bình phương Tây mới đặt Nghệ nhân và Margarita trong
mối liên hệ liên văn bản với Kinh Thánh, Faust… Những năm 70-80 nhiều nhà
nghiên cứu đã đề cập đến sự có mặt của các hình ảnh, nhân vật trong Faust và
những hình ảnh trong Kinh Thánh ở tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita, nhưng
đó mới chỉ là những phân tích ở cấp độ hình ảnh, chi tiết, và hướng đến làm rõ ý
nghĩa giễu nhại, châm biếm. Từ những năm 90, giới phê bình Nga và Phương Tây
mở rộng dần cấp độ liên văn bản trong tiểu thuyết, từ hình ảnh, chi tiết sang cốt
truyện, nhân vật, và đặc biệt hơn nữa liên văn bản được gắn liền với triết học, cố

gắng giải mã ý nghĩa triết học của tác phẩm. Đó là hướng đi của các cơng trình
của O.Gurevich [159], A.Barratt [144], E.A.Yablokov [136, 137], G.Williams
[185],… Theo E.A.Yablokov “mô hình cuộc đối thoại vĩnh hằng giữa văn hóa và
lịch sử đóng vai trị quan trọng trong tư duy nghệ thuật của Bulgakov” [136, tr. 99]
vì vậy khi phân tích cấu trúc nghệ thuật văn xuôi M.Bulgakov trên tất cả các cấp độ
cốt truyện, hình ảnh thời gian, hình ảnh khơng gian, những biểu tượng thiên nhiên,
ơng ln có sự so sánh với thuyết mạt thế (эсхатология), chẳng hạn hình ảnh bầu
trời, hình ảnh ánh sáng và sự kết thúc của thế giới… G.Williams cho rằng Nghệ
nhân và Margarita chịu ảnh hưởng từ thuyết Mani (Manichaeism). G.Williams chỉ
ra trong truyền thống Mani, thế giới của bóng tối và cái ác chứa đựng năm yếu tố:
sự hiểm độc, bóng tốí, sương mù, những cơn bão, và những ngọn lửa thiêu rụi. Tất
cả những yếu tố này đều xuất hiện nhiều trong Nghệ nhân và Margarita. Dùng
thuyết Mani, nhà nghiên cứu cũng đưa ra những giải thích thú vị về hiện tượng kết
cục số phận của các nhân vật (Pilate, Yeshua, Ivan Bezdomny..) gắn liền với ánh
trăng – một hình ảnh liên quan đến sự tẩy rửa. Cũng vận dụng thuyết Mani, ông giải
thích được tại sao các chương cổ đại Yershalaim khác với Cựu ước,… Mối liên hệ
liên văn bản của Faust với Nghệ nhân và Margarita được các nhà nghiên cứu như
15


E.Olonova và A.Barrat nhấn mạnh, cả hai đều thống nhất rằng mối liên hệ đó khơng
chỉ nằm ở các nhân vật mà ở chính triết lí quan niệm về cái thiện – cái ác, sáng tạo
và hủy diệt… O.Gurevich đặt ra câu hỏi “Tại sao các nhà phê bình khơng thống
nhất về cách hiểu Nghệ nhân và Margarita?” và chỉ ra hạn chế lớn nhất trong cách
tiếp cận của một số nhà nghiên cứu đối với tiểu thuyết của M.Bulgakov: cứng nhắc
trong việc tạo ra mơ hình song trùng giữa ba thế giới. Bà gợi ý rằng có thể dùng lí
thuyết khơng gian tâm lí để hình dung về sự song trùng đó, để “chỉ ra tính phức tạp
và chưa hoàn toàn của những mối quan hệ song trùng giữa các thế giới của tiểu
thuyết, giữa tiểu thuyết và Faust của Goethe…” [159, tr. 25]. Thực chất O.Gurevich
hướng người đọc đến cách tiếp cận liên văn bản với tác phẩm; q trình liên văn

bản diễn ra khơng chỉ giữa văn bản tác phẩm với các văn bản ngoài tác phẩm (Nghệ
nhân và Margarita với Faust và Kinh Thánh) mà còn ở bên trong văn bản tác phẩm
(Nghệ nhân và Margarita với cuốn tiểu thuyết của Nghệ nhân). Do vậy, liên văn
bản ở Nghệ nhân và Margarita không tạo ra những mơ hình đối xứng tuyệt đối.
Chúng tơi sẽ đi tiếp ý tưởng này trong những phân tích ở chương 2 và chương 3.
Trong bài báo Motip Kyto giáo trong tiểu thuyết “Nghệ nhân và Margarita”
của M.Bulgakov (Thử nghiệm tiếp cận liên văn bản), Phạm Gia Lâm nói rõ hơn ý
tưởng gắn kết thi pháp liên văn bản với tiểu thuyết huyền thoại: “Thi pháp liên văn
bản có liên quan đến đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tân huyền thoại với vai trò đặc
biệt của huyền thoại cổ đại, huyền thoại Thánh Kinh và các văn bản được huyền thoại
hóa (như Hamlet, Don Juan, Faust,...) trong việc tạo nên tư tưởng của tác phẩm [29,
tr. 38]. Nhà nghiên cứu đã “thử nghiệm” cách đọc tác phẩm từ góc nhìn liên văn bản
ở ba cấp độ: không gian hành động, nhân vật và cốt truyện. Những ý tưởng mà bài
báo nêu ra về sự vận động ngược chiều nhau của ba lớp không gian, về các bộ ba
nhân vật, về những “trích dẫn”, cắt dán, “ám gợi” trên cơ sở liên kết các văn bản
Phúc âm, Faust và văn cảnh văn hóa – xã hội Nga sẽ được chúng tơi tiếp tục triển
khai trong luận án của mình, đặt tất cả trong “tọa độ” đặc trưng thi pháp thể loại tiểu
thuyết huyền thoại thế kỉ XX.
Từ gợi ý của các nhà nghiên cứu, chúng tôi coi văn bản Kinh Thánh và
Faust là hai “văn bản nguồn” quan trọng của Nghệ nhân và Margairta. Mối liên
16


hệ của tiểu thuyết với các văn bản đó khơng chỉ được khai thác trong chương 2
của luận án mà còn được đề cập đến trong một vài luận điểm ở các chương sau.
Hơn nữa, liên văn bản trong Nghệ nhân và Margairta theo chúng tơi khơng cịn
là một phương thức gắn kết các văn bản mà đã trở thành một hình thức trị chơi
độc đáo trong sự tương tác giữa tư duy huyền thoại và tư duy tiểu thuyết.
Trong phạm vi quan sát của mình, chúng tơi thấy chưa có một cơng trình
nào nghiên cứu chun sâu về Nghệ nhân và Margarita từ góc độ thi pháp thể

loại tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX. Vì thế luận án của chúng tơi có thể coi là
thử nghiệm đầu tiên tường giải kiệt tác này trong khung tham chiếu thi pháp tiểu
thuyết huyền thoại thế kỷ XX.
3. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Đề tài của luận án đòi hỏi chúng tôi phải bao quát một lượng tác phẩm đồ
sộ và vô cùng phức tạp trong lối viết thuộc thể loại tiểu thuyết huyền thoại. Luận
án cố gắng tiếp cận với một số tác phẩm tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết này
của văn học Phương Tây (các tác phẩm của J.Joyce, T.Mann, A.Platonov,
Ch.Aitmatov, F.Kafka…) trong phần khái quát về tiểu thuyết huyền thoại ở
chương 1. Song cần nhấn mạnh rằng, tâm điểm của luận án là xác định những
đặc trưng thi pháp của thể loại tiểu thuyết huyền thoại thơng qua nghiên cứu
trường hợp. Vì vậy phạm vi khảo sát chủ yếu và chuyên sâu của chúng tôi là
cuốn tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita của M.Bulgakov. Những nghiên cứu
và khảo sát của chúng tôi được tiến hành trên bản dịch của Đoàn Tử Huyến.
Trong trường hợp cần khảo sát trên nguyên bản, chúng tôi sử dụng bản Nga ngữ
của NXB AST Moskva, năm 2009. Để hình dung sự tồn tại và chi phối của tư
duy huyền thoại trong cấu trúc tiểu thuyết, để chứng minh sự tồn tại về mặt thể
loại của tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX, chúng tơi tiến hành phân tích văn bản
tiểu thuyết trên tất cả các yếu tố cấu trúc: không – thời gian, hệ thống nhân vật,
tổ chức cốt truyện và cấu trúc chủ thể trần thuật.
Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu văn bản và cấu trúc tác phẩm Nghệ
nhân và Margarita, trong luận án, ở một số trường hợp cần thiết chúng tơi có đề
17


cập đến một số truyện vừa (Trái tim chó, Những quả trứng định mệnh) và tiểu
thuyết Bạch vệ của M.Bulgakov.
Các định hướng về mặt lí luận của luận án chủ yếu dựa trên những nghiên
cứu của M.Bakhtin, N.T.Rymar về thể loại văn học, của B.A.Uspensky,

M.Bakhtin, W.Schmid về cấu trúc chủ thể của tác phẩm văn học; của
O.M.Freydenberg, Yu.Lotman về thi pháp motif, cốt truyện; của Yu.Lotman,
M.Bakhtin, V.N.Toporov về không –thời gian. Cơ sở nghiên cứu thi pháp huyền
thoại trong văn bản nghệ thuật được chúng tôi tiếp thu từ một số cơng trình của
D.E.Maksimov,

Z.G.Mints,

E.M.Meletinsky,

A.F.Losev,

M.M.Bakhtin,

Yu.M.Lotman, V.N.Toporov, R.Barthes…
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định đặc điểm của thể loại tiểu thuyết huyền thoại hiện đại thông
qua việc nghiên cứu sự tương tác của tư duy huyền thoại và tư duy tiểu thuyết
trên tất cả các yếu tố cấu trúc (không-thời gian, nhân vật, tổ chức cốt truyện, cấu
trúc chủ thể), từ đó đưa ra cách hình dung về khái niệm “tiểu thuyết huyền thoại”
thế kỉ XX, điểm khác nhau cơ bản giữa tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX và
những tiểu thuyết có chứa đựng những yếu tố huyền thoại của thế kỉ XIX.
- Xác định các lớp liên văn bản tạo cơ sở cho việc hiểu ý nghĩa huyền
thoại trong văn bản Nghệ nhân và Margarita.
- Chỉ ra những nguyên lí cơ bản chi phối sự vận động các yếu tố cấu trúc
tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita khi có sự tác động của tư duy huyền thoại.
- Góp phần xác định đặc điểm phong cách văn xuôi M.Bulgakov.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án đề cập đến những vấn đề liên quan đồng thời đến cả thi pháp trào
lưu, thi pháp thể loại và thi pháp tác giả. Bởi vậy phương pháp chủ đạo chúng tôi

sử dụng là thi pháp học lịch sử, nhìn đối tượng nghiên cứu trong cả lát cắt đồng
đại và lịch đại, “xem xét trước hết tính kế thừa trong sự phát triển thi pháp các thời
đại, sau đó là lịch sử của các dạng và hình thức phóng chiếu đời sống” [28, tr. 50].
Đặc trưng thi pháp thể loại tiểu thuyết huyền thoại luôn là vấn đề chúng
tơi xốy sâu, coi đó là trục chính để triển khai các luận điểm nghiên cứu. Do đó,
18


luận án vận dụng phương pháp nghiên cứu loại hình và cấu trúc loại hình, hướng
đến xác định vai trị của các yếu tố trong hệ thống, và tìm ra cấu trúc và ngun
lí vận động của hệ thống đó. Chọn hướng nghiên cứu thi pháp thể loại thông qua
một trường hợp, kết hợp với phương pháp nghiên cứu loại hình, chúng tơi sử
dụng phương pháp nghiên cứu hệ thống, nhằm khám phá những mối liên hệ nội
tại của các thành tố bên trong cấu trúc thể loại và cấu trúc tác phẩm. Cũng vì
vậy, phương pháp nghiên cứu trường hợp (case-study), một phương pháp vốn
quen thuộc của lĩnh vực nghiên cứu xã hội học, được vận dụng trong suốt luận
án này, nhằm hướng đến phát hiện những mối liên hệ bên trong và tìm ra ngun
lí vận động của tổng thể từ một đối tượng, một trường hợp có tính đại diện nằm
trong tổng thể đó.
Với tiểu thuyết huyền thoại, để hình dung cấu trúc và luận giải ý nghĩa
của các lớp huyền thoại trong văn bản, kết hợp với các phương pháp vừa nêu,
chúng tôi sử dụng một số phương pháp như sau:
- Liên văn bản: trong trường hợp cần tìm ra mối liên hệ hiển lộ hoặc ngầm
ẩn về mặt ngữ nghĩa – chức năng giữa văn bản với văn bản, giữa văn bản với văn
cảnh trên các tầng bậc cấu trúc. Phương pháp này được sử dụng khi chúng tơi
tìm hiểu mối quan hệ của Nghệ nhân và Margarita với Kinh Thánh và Faust, với
các trầm tích văn hóa và huyền thoại cổ xưa trong cả chương 2, chương 3 và
chương 4.
- Trần thuật học: sử dụng trong quá trình đi tìm “chiến lược” trần thuật,
cấu trúc chủ thể của tác phẩm.

- Thông diễn học: trong trường hợp giải thích các kí hiệu, hình ảnh, biểu
tượng liên quan đến Kinh Thánh, Faust…
Luận án vận dụng một số thao tác như: phân tích, so sánh, thống kê, mô tả
khảo sát để đưa ra những luận giải, cơ sở cần thiết cho phán đoán, kết luận.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án xác lập những đặc điểm cơ bản, khái quát về thi pháp của tiểu
thuyết huyền thoại thế kỉ XX và chỉ ra những biểu hiện cụ thể của nó trong Nghệ
nhân và Margarita, từ đó cho phép hình dung về sự phát triển của thể loại tiểu
19


thuyết huyền thoại trong văn học Phương Tây thế kỉ XX nói chung và trong văn
xi Nga nói riêng.
Luận án đóng góp kinh nghiệm trong việc tiếp cận một hiện tượng văn
học từ góc độ thi pháp học lịch sử, kinh nghiệm ứng dụng các lí thuyết văn học
hiện đại vào nghiên cứu tác phẩm.
Luận án là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu tiểu thuyết Nghệ
nhân và Margarita từ góc độ thi pháp tiểu thuyết huyền thoại hiện đại. Các kết
quả nghiên cứu của luận án có thể dùng để biên soạn giáo trình về lí thuyết và
lịch sử văn học, cụ thể hơn là về xu hướng phát triển của tiểu thuyết Nga hiện đại
trong bối cảnh vận động chung của thể loại tiểu thuyết, về M.Bulgakov trong tiến
trình văn học Nga thế kỉ XX.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, 4 chương, phần kết luận, tài liệu tham khảo và
phụ lục
Chương 1: Tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX – những nét khái quát
Chương 2: Nghệ nhân và Margarita – tiếp biến liên văn bản
Chương 3: Ngun lí trị chơi trong tổ chức không-thời gian, hệ thống
nhân vật và cốt truyện
Chương 4: Cấu trúc chủ thể trần thuật


20


CHƯƠNG 1: TIỂU THUYẾT HUYỀN THOẠI THẾ KỈ XX NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT
1.1. Huyền thoại và đặc trưng tư duy huyền thoại
Huyền thoại là một khái niệm được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Phùng Văn Tửu trong bài viết Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học
đã dẫn ý kiến của Gilbert Durand và Simone Vierne trong hội thảo về “Huyền
thoại và cái huyền thoại” ở Cerizy-la-salle: “hiện nay có sự lạm phát trong sử
dụng thuật ngữ huyền thoại, và sự nhập nhằng của thuật ngữ cái huyền thoại”
[40, tr. 300]. Quả thực, trong huyền thoại học (tiếng Nga

ифо о и , tiếng Anh:

Mythology), các định nghĩa về huyền thoại được nêu ra, gắn liền với cơng trình
của các nhà nghiên cứu như: Euhemerus, Vico, Muler, Potebnya, Afanasev,
Potebnia, Frazer, Levi-Strauss, Malinovsky, Levi-Bruhl, Cassirer, Freud, Jung,
Losev, Toporov, Meletinsky, Freydenberg, Eliade... Trường phái nghi lễ hay
trường phái phê bình phân tâm học, phê bình biểu tượng-ngữ nghĩa hay phê bình
cấu trúc đều có những cách hiểu và cách tiếp cận không giống nhau với huyền
thoại. Johan Degenar trong bài báo Các diễn ngôn về huyền thoại [152] đã phân
tách ra ba kiểu diễn ngôn về huyền thoại: tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện đại.
Diễn ngôn tiền hiện đại khơng nói về huyền thoại như là huyền thoại mà nhấn
mạnh huyền thoại như một hiện thực. Diễn ngôn hiện đại coi huyền thoại như
một kiểu tự sự có thể được đánh giá theo nhiều cách khác nhau. Diễn ngôn hậu
hiện đại khám phá sự phong phú trong chức năng của huyền thoại trong đó đặc
biệt nhấn mạnh bối cảnh chính trị-xã hội mà huyền thoại được sử dụng. Trong
các Từ điển bách khoa toàn thư, Từ điển thuật ngữ văn học, hay Từ điển về văn
hóa, mục từ myth/ миф/ mythe cũng được định nghĩa từ các góc nhìn khơng

giống nhau. Theo chúng tơi, dẫu có rất nhiều định nghĩa, cách xác định nội hàm
khái niệm “huyền thoại” được nêu ra, nhưng có thể thấy rõ ba hướng chính khi định
nghĩa khái niệm này.
Thứ nhất, nếu xét về từ nguyên, từ миф trong tiếng Nga hay “myth” trong
tiếng Anh đều xuất phát từ “mythos” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là lời nói, câu
21


chuyện, việc kể chuyện, truyện kể, truyền thuyết, trong tiếng Latin nó có nghĩa
tương ứng với từ fabula (chuyện kể, truyện hoang đường). Đặc điểm cần nhấn
mạnh của “mythos” là tính mơ hồ cần được giải mã bởi nó chính là lời nói hoặc
“liên quan đến lời nói”, phân biệt với “logos”– minh xác, rõ ràng. Vì vậy V.I.Dal’
trong cuốn Từ điển giải thích tiếng Nga [57] cho rằng: huyền thoại là lĩnh vực của
cái phi thường, kỳ lạ, hoang đường; huyền thoại được hiểu như là cái kỳ lạ, lạ
thường, hoang đường bao phủ lên câu chuyện. Nếu hiểu theo hướng này, khái
niệm huyền thoại bị đồng nhất với cái kì ảo (fantastic), cái thần kì (magical). Theo
chúng tơi, trong huyền thoại có yếu tố kì ảo, thần kì nhưng huyền thoại còn mang
những đặc điểm riêng khác nữa. Những đặc điểm này sẽ được chúng tơi trình bày
và lí giải rõ hơn trong những phần viết sau.
Thứ hai, huyền thoại được hiểu như là “câu chuyện dân gian cổ xưa về
các anh hùng kiệt xuất, thần thánh về nguồn gốc của các hiện tượng tự nhiên”
[93, tr. 325]. Theo hướng này, từ điển Encyclopaedia Britannica 1994-1998
trong mục từ “Myth and mythology” định nghĩa “Huyền thoại là một câu
chuyện, thường có nguồn gốc khơng rõ ràng và theo truyền thống có phần liên
quan đến các sự kiện có thực để giải thích thực tiễn, niềm tin, thể chế hay hiện
tượng tự nhiên nào đó, yếu tố đặc biệt liên quan đến nghi lễ và niềm tin tôn
giáo. Từ huyền thoại học (mythology) bao hàm cả nghiên cứu huyền thoại và
toàn bộ các ngữ liệu về huyền thoại trong truyền thống văn hóa hoặc tơn giáo
đặc thù”. Với nội hàm đó, huyền thoại bị đồng nhất với thần thoại hoặc truyền
thuyết - những thể loại trong văn học dân gian. Khái niệm myth/ mythe/ миф

trong tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga được dịch sang tiếng Việt là thần
thoại hoặc là huyền thoại. Thần thoại là cách chuyển ngữ khi hiểu khái niệm
theo hướng huyền thoại bị đồng nhất với thần thoại. Huyền thoại là cách
chuyển ngữ mở rộng nội hàm khái niệm, không chỉ hướng đến các câu chuyện
cổ xưa, các huyền thoại cổ đại mà bao chứa cả huyền thoại hiện đại.
Cùng với quá trình ra đời và phát triển mạnh mẽ của thể loại tiểu thuyết
huyền thoại trong thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu như L.V.Yaroshenko [139],
A.F.Losev [76], E.M.Meletinsky [34], N.A.Khrenov [125]… có cách hình dung
22


khác về huyền thoại. Huyền thoại là một hiện tượng tồn tại xuyên lịch sử, có mặt
trong đời sống của các dân tộc trong suốt các thời đại lịch sử, một hình thức tri
nhận xã hội, gắn liền với một kiểu tư duy. Khởi nguyên, huyền thoại là một
phạm trù mang tính bản thể luận – đưa ra một quan niệm về thế giới, và dần dần
hình thành một kiểu tư duy trong các tự sự mang tính huyền thoại. Mặc dù có
những truyện kể về thế giới chứa huyền thoại nhưng rõ ràng đó khơng phải là
một thể loại bởi “thế giới quan huyền thoại được thể hiện… không chỉ trong
truyện kể mà cịn trong các hình thức khác:…. bài hát, vũ điệu…” [41, tr. 222].
Nếu tồn tại như là một thể loại như các nhà nghiên cứu A.Nuikin [92],
L.Sofronova [108] nhận định thì rõ ràng huyền thoại ngay từ đầu phải định hình
những đặc trưng thể loại. Chúng tơi nhận thấy rằng chỉ có thể xác định huyền
thoại với tư cách là một kiểu tư duy, tri nhận về thế giới và vũ trụ; nó lần lượt
xâm nhập vào các thể loại, tạo ra những tác động và biến thái thể loại khác nhau.
Đặc điểm của kiểu tư duy này đã được các nhà nghiên cứu huyền thoại
khái quát (chẳng hạn như: E.M.Meletinsky [34], L.V.Yaroshenko [139]…) trong
các công trình nghiên cứu của mình. Duới đây chúng tơi điểm lại một số luận
điểm làm cơ sở để xem xét sự xâm nhập của huyền thoại vào cấu trúc tự sự của
văn học cũng như sự biến chuyển của cấu trúc tự sự từ các thể loại văn học dân
gian cho đến sự hình thành của tiểu thuyết tân huyền thoại thế kỉ XX.

Huyền thoại không đặt trọng tâm vào những vấn đề thiết cốt trong cuộc
sống đời thường của con người mà hướng sự quan tâm đến vũ trụ, mối quan hệ
giữa con người và vũ trụ, thông qua việc miêu tả cái đối lập, hỗn loạn để nhấn
mạnh sự hài hòa (NTNT nhấn mạnh) của vũ trụ trong mối quan hệ với con
người. Hướng đến và duy trì sự hài hòa, huyền thoại dung hòa với nghi lễ
(ritual), hay nói cách khác nghi lễ như là một phương tiện trợ giúp để huyền
thoại thực hiện cái đích mà nó mong muốn.
Tri nhận thế giới trong huyền thoại thường khơng theo kiểu định tính
khoa học mà nghiêng hẳn về phía trực giác và cảm nhận. Mọi đối tượng
thường được khúc xạ dưới ánh sáng của cái nhìn mang tính chủ quan, thường
được nhân cách hóa. Chính bởi vậy, E.M.Meletinsky trong Thi pháp của huyền
23


×