Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tư liệu văn học tác gia văn học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.15 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. TƯ LIỆU VĂN HỌC TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM 1-Lý Công Uẩn (974-1028) Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang. Ông sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (tức ngày 8 tháng 3 năm 974) và mất ngày 3 tháng 3 năm Mậu Thìn (tức ngày 31 tháng 3 năm 1028), thọ 55 tuổị Gốc gác còn nhiều nghi vấn; ta chỉ biết mẹ ông họ Phạm và từ năm ba tuổi ông đã làm con nuôi của sư Lý Khánh Văn. Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Năm 1009, Lê Ngọa Triều mất, ông được quần thần tôn lên làm vua, đổi niên hiệu là Thuận Thiên và dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, nhân đó để lại áng văn Thiên Đô Chiếụ< Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn, và rất hâm mộ Phật giáọ. 2-Lý Thường Kiệt (1019-1105) Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn. Thường Kiệt là tự; sau này ông được ban quốc tính nên mới đổi tên thành Lý Thường Kiệt. Theo tài liệu mới phát hiện (bài văn khắc trên chuông chuà Bắc Biên và cuốn Tây Hồ Chí) thì ông là người làng An Xá, huyện Quảng đức, thuộc khu vực phía nam hồ Tây trong thành Thăng Long. Ông sinh năm 1019 và mất tháng Sáu năm Ất Dậu (tức từ 13 tháng Bảy đến 11 tháng Tám năm 1105). Lý Thường Kiệt tinh thông thao lược, lại có tài thơ văn. Năm 23 tuổi, ông đã được bổ làm Hoàng môn chi hậu rồi thăng đến chức Thái úỵ Ông có công rất lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước: phá Tống, bình Chiêm, dẹp tan phản loạn... Tác phẩm còn lại gồm có bài Lộ Bố Văn phát ra cho nhân dân Trung Quốc ở các châu Ung Khâm Liêm nhân dịp chủ động đem quân sang đánh Tống năm 1075, lời tâu xin vua Lý Nhân Tông cho đi dẹp loạn Lý Giác năm 1103, và tiêu biểu nhất là bài thơ Nam Quốc Sơn Hà.. 3-Hải Thượng Lãn Ông. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 1.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. Hải Thượng Lãn Ông là tên hiệu của Lê Hữu Trác, một nho gia và đanh y Việt Nam vào cuối đời Hậu Lệ Ông sinh năm 1721, người xã Liêu xá, huyện Đường Hào, trấn Hải Đương (nay thuộc phủ Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông thuộc đòng đõi một gia đình có nhiều đời đại đăng khoạ Cha và chú đều đỗ tiến sĩ và làm quan đến đại thần. Lúc còn trẻ, ông đã nổi tiếng hay chữ. Đến năm 20 tuổi, gặp buổi nhiễu nhương, chúa Trịnh Giang độc đoán, giặc giã nổi lên khắp nơi, ông quyết định xếp bút nghiên theo việc đao cung. Đang ở trong quân ngũ, ông phải về quê ngoại là huyện Hương Sơn (thuộc tỉnh Hà Tĩnh bây giờ) để thay người anh thứ năm phụng đưỡng mẹ già. Tại Hương Sơn, ông mắc phải một chứng bệnh đai đẳng, may nhờ một y sĩ họ Trần cứu chữạ Từ đó, ông quyết định rời bỏ quan lộ, đốc lòng nghiên cứu y học, trở thành một y sĩ có tiếng. Ông mở trường đạy y học và ra công trước tác một bộ sách y khoa đồ sộ : Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. Năm 1782, ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo) tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên Phi -Đặng Thị Huệ). Tuy việc chữa bệnh không thành, ông đã phải ở kinh đô trong khoảng một năm. Cũng may là ông về nhà kịp trước khi xảy ra loạn Kiêu Binh, mở đầu một thời kỳ đại loạn trong lịch sử Việt Nam, kéo đài đến năm 1802 mới chấm đứt. Sau khi về, ông ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại kinh đô trong cuốn tùy bút "Thượng Kinh Ký Sự". Sách này thường được in trong phần phụ lục của Y Tông Tâm Lĩnh. Ông mất năm 1791.. 4-Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai, là con của Hồ Sĩ Danh (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, và một người thiếp quê ở Hải Dương. Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839). Hồ Xuân Hương học rộng, đọc sách nhiều, uyên thâm cả Nho, Phật, Lãọ Nàng có tài ứng đối, dùng điển tích rất tài tình, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán phục nàng: Tài cao nhã phượng thế gian kinh, Nguyễn Du so sánh nàng với Tiểu Thanh; Trương Đăng Quế, Hoàng Diệu Khuê, Trương Bỉnh Thuyên sánh nàng với Ban Chiêu, Tạ Huệ Liên, Tô Tiểu Muội, Sái Cơ của Trung Quốc, và đem Mai Am nữ sĩ, tức Công Chúa Lại Đức so sánh với Hồ Xuân Hương, (dĩ nhiên không thể sánh công chúa triều đình với một nhà thơ dâm tục được.). Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 2.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. Hồ Xuân Hương lận đận trên đường tình ái, trên bốn mươi mới gặp được Tri phủ Tam Đái tức Vĩnh Tường, sau được thăng lên làm Hiệp Trấn Yên Quảng là Trần Phúc Hiển, được ba năm Phúc Hiển bị vu tội tham nhũng, nhưng thật ra Phúc Hiển chết là vì vây cánh của Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường bị phe Lê Chất, Lê Văn Duyệt diệt, Thi tướng tao đàn Cổ Nguyệt đường là Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán cũng tự tử chết. Tác phẩm nổi bật nhất của bà là số thơ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập (dù có đôi bài đáng nghi vấn). Ngoài ra bà còn để lại tập thơ chữ Hán tựa đề Lưu Hương Ký. Thơ văn bà có ý lẳng lơ, mai mỉa, tinh nghịch, táo bạo, nhưng chứa chan tình cảm lãng mạn, thoát ly hẳn với những lễ giáo phong kiến thời bấy giờ. 5- Nguyễn Công Trứ. (1778-1858) Cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tư chất thông minh, tính người hào phóng. Cụ xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Cụ thân sinh là Nguyễn Tần, đỗ Hương Cống đời nhà Lê . Buổi thiếu thời, dù sống trong cảnh hàn vi, cụ luôn cố công trau dồi kinh sử để mong thi đỗ ra làm quan giúp dân, giúp nước. Sau nhiều lần thi hỏng, Cụ cuối cùng đậu Tú Tài năm 1813 và đậu Giải Nguyên năm Gia Long thứ 18 (1819) và đến năm Minh Mệnh nguyên niên 1820, bắt đầu ra làm quan, bấy giờ Cụ đã 42 tuổi . Cụ trải thờ ba triều: Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Từ chức hành tẩu Sử quán, thăng lên đến Binh bộ thượng thư lãnh chức Tổng đốc (bởi vậy tục thường gọi là Cụ Thượng Trứ). Nhưng hoạn lộ của Cụ lên voi xuống chó, chìm nổi nhiều phen: mấy lần bị giáng chức, một lần bị cách tuột; kết cục lúc về hưu (Tự Đức nguyên niên, 1848) chỉ còn lại hàm Thừa Thiên phủ doãn. Bấy giờ Cụ đã 71 tuổi . Khi về hưu, lúc Cụ ở quê nhà , lúc Cụ ở chùa, lúc Cụ đến ở hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải là nơi Cụ đã có công khai thác, gác bỏ việc đời, ngao du sơn thủy, sinh hoạt trong cảnh an nhàn. Cụ mất ngày 7 tháng 12 năm 1858 tại chính quán, thọ 81 tuổi, được phong tước Dinh Bình Hầu . Cụ tuy làm quan văn, nhưng có tài thao lược, nên Cụ từng đi đánh giặc nhiều phen, giúp triều đình nhà Nguyễn đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa lớn (Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Phan Bá Vành ...). Nhưng cái công nghiệp to nhất của Cụ lúc làm Doanh Điền Sứ, giúp dân khai khẩn đất hoang (1828) ở vùng bãi biển tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh Bình để lập ra hai huyện Tiền Hải (nay thuộc Thái Bình) và Kim Sơn (vẫn thuộc Ninh Bình). Cụ có biệt tài về văn nôm. Văn Cụ làm đủ các lối, (chữ Hán (câu đối, sớ) cũng như chữ Nôm (thơ, hát nói, phú, câu đối, ca trù ...), nhưng sở trường nhất là lối hát nói . Văn Cụ lỗi lạc khác thường; không thiên về tình buồn như phần nhiều các thơ ca của ta; trái lại, Cụ thường khuyên người ta phải gắng gổ làm tròn phận sự, lập nên công nghiệp và lúc nào cũng nên vui vẻ, dầu gặp cảnh nghèo khó cũng vậy . Lời văn lại hào hùng và ngạo nghễ, biểu lộ một bản lĩnh vững chắc, một chí khí mạnh mẽ, và thái độ cầu tiến, vươn lên, thật rõ là khẩu khí của một người suốt đời hăng hái làm việc cho đời, tận tụy với chức vụ .. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 3.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. Tham khảo từ: + Nguyễn Công Trứ, Con Người và Sự Nghiệp, Chu Trọng Huyến. + Đại Nam Liệt Truyện, Quốc Sử Quán nhà Nguyễn. + Thi Ca Cổ Điển, Bảo Vân.. 6-Nguyễn Gia Thiều Nguyễn Gia Thiều sinh năm 1741, không rõ ngày tháng nào, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình đại qúy tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình. Ông thân sinh của Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Cư, một võ quan cao cấp được phong tước hầụ Mẹ Nguyễn Gia Thiều là quận chúa Quỳnh Liên, con gái An Đô vương Trịnh Cương. Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là con cô cậu với chúa Trịnh Sâm. Vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa, nên từ lúc lên năm lên sáụ Nguyễn Gia Thiều đã được vào học trong phủ chúạ Ông nổi tiếng là người thông minh, học rộng, văn võ kiêm toàn. Ông lại còn tinh thông nhiều bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang trí. Về âm nhạc, Nguyễn Gia Thiều sở trường các bài ca, bài tán. Ông là tác giả các bản "Sơn trung âm" và "Sở từ điệu". Về hội họa, ông có bức tranh lớn "Tống sơn đồ", dâng vua xem được khen thưởng. Về kiến trúc, trang trí, ông là người được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích. Các công trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều đến nay không còn một cái nào, nhưng trong sáng tác văn học thì những tri thức về nghệ thuật của ông được phản ánh một cách khá rõ... Nguyễn Gia Thiều là một người rất được chúa Trịnh tin dùng. Năm 1759, mười tám tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội; sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự, năm 1782 thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa, và vì có quân công ông được phong tước hầu - Ôn Như hầụ Các em ông cũng lần lược được phong tước hầu, tước bá, như Nguyễn Gia Thưởng là Thưởng Vũ bá; Nguyễn Gia Xuyên là Du Lãnh hầụ Thời gian làm Tổng binh ở Hưng Hóa, mặc dù có công được khen thưởng, Nguyễn Gia Thiều vẫn thường hay bỏ về nhà riêng ở gần hồ Tây để vui chơi, làm thơ và bàn luận về triết học. Ông tự xưng là Hy Tôn tử và Như ý thiền, lấy biệt hiệu là Tân Thi viện tử và Sưu Nhân. Có người bảo giai đoạn này chúa Trịnh không còn tin ông như trước, mới đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa, và Nguyễn Gia Thiều biết điều đó, nên ông chán nản bỏ về. Năm 1786, Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn lên miền núi xứ Hưng Hóạ Năm 1789, Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh, lập ra triều đại mớị Vua Quang Trung trọng người tài, thu dụng một số quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều được mời ra cộng tác, nhưng ông cáo bệnh từ chốị Nguyễn Gia Thiều về lại làng cũ, sống ở đấy, hằng ngày uống rượu tiêu sầu, giả ngây giả dại và đến ngày 9 tháng 5 Mậu ngọ, tức ngày 22 tháng 6 năm 1798 thì mất, thọ 57 tuổị Về sáng tác, Nguyễn Gia Thiều có hai tập thơ chữ Hán là "Ôn Như thi tập" có đến nghìn bài, hiện không tìm thấỵ Phần viết bằng chữ Nôm ngoài "Cung oán ngâm khúc" là tác phẩm nổi tiếng nhất, Nguyễn Gia Thiều còn có "Tây hồ thi tập" và "Tứ trai thi tập", hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong tập "Tạp ký" của Lý Văn Phức. "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc bản dịch "Chinh phụ ngâm" của Đoàn Thị Điểm, từ thể loại ngâm khúc viết bằng song thất lục bát đến. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 4.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. cách phát triển chủ đề cũng như bút pháp nghệ thuật. Có thể nói sự ra đời của "Cung oán ngâm khúc" cùng với sự ra đời của "Chinh phụ ngâm đã khẳng định một cách vững chắc thể ngâm trong văn học của giai đoạn nàỵ. 7- Hàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 tại Lệ Mỹ, Đồng Hớị Thuở nhỏ ông học trung học ở Huế (1928-1930), làm viên chức sở đạc điền ở Quy Nhơn (1932-1933), vào Sài Gòn làm báo rồi lại trở về Quy Nhơn (1934-1935). Ông mắc bệnh phong từ năm 1937, phải vào nhà thương Quy Hòa tháng 9 năm 1940, và rồi mất ở đấy ngày 11 tháng 11 năm 1940. Hàn Mặc Tử bắt đầu làm thơ rất sớm với thể thơ Đường luật và bút danh Minh Duệ thị, Phong Trần; nổi tiếng vì được cụ Phan Bội Châu họa thơ và đề caọ Từ năm 1935 ông đổi bút hiệu thành Lệ Thanh, rồi Hàn Mạc Tử, và cuối cùng Hàn Mặc Tử. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản trong sinh thời tác giả), Thơ Điên (hay Đau Thương), Thượng Thanh Khí, Cẩm Châu Duyên, Chơi Giữa Mùa Trăng... Hàn Mặc Tử đem đến cho Thơ Mới một phong cách độc đáo và sáng tạo: bên cạnh những tác phẩm bình dị, trong trẻo, chan chứa tình quê là các tác phẩm đầy những cảm hứng lạ lùng, huyền bí, thậm chí đến điên loạn, phản ảnh trực tiếp một tâm hồn yêu thơ, yêu đời chan chứa, nhưng lại oàn oại vì cơn bệnh đau đớn dày vò.. 8-Chế Lan Viên Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920, quê ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành Chung thì thôi học, đi dạy tự Chế Lan Viên bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi; đến năm 17 thì xuất bản tập thơ đầu tay Điêu Tàn mà lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Sau 1954, Chế Lan Viên nằm trong Ban lãnh đạo Hội Nhà Văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội, viết nhiều thơ, bút ký, tùy bút, tiểu luận văn học. Sau 1975, ông vào Sài Gòn, ở quận Tân Bình, mất tại đấy ngày 19 tháng 6 năm 1989. Tác phẩm tiêu biểu: tập văn xuôi Vàng Sao (1942), các tập thơ Điêu Tàn (1937), Gửi Các Anh (1954), Ánh Sáng và Phù Sa (1960), Hoa Ngày Thường -- Chim Báo Bão (1967), Hoa Trên Đá (1984).... Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 5.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. Người ta thường biết Chế Lan Viên qua tập thơ Điêu Tàn, một trong những tác phẩm nổi bật trong thi đàn tiền chiến. Đọc Điêu Tàn là bước vào một thế giới ma quỉ, kinh dị, âm u và huyền bí. Tập thơ mượn những lời rên rỉ, khóc than nghẹn ngào, chất chứa bao u uất lẫn căm hờn của một dân tộc bị diệt vong để bộc lộ lòng yêu nước một cách kín đáo. 9-Hồ Dzếnh Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh (Hồ Dzếnh là phiên âm của Hà Anh theo giọng Quảng Đông). Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóạ Cha là người Quảng Đông, sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ là người Việt. Hồ Dzếnh ra Hà Nội học trung học, dạy tư, viết thơ, viết báo từ năm 1931. Năm 1953 vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội viết báo, làm thợ Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nộị Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Quê Ngoại (1942), Hoa Xuân Đất Việt (1946); tập truyện ngắn Chân Trời Cũ (1942); và các tiểu thuyết Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (1942), Những Vành Khăn Trắng (1946). Sự pha trộn của hai giòng máu chi phối nhiều sáng tác của tác giả. Tập thơ Quê Ngoại gây được nhiều ấn tượng nhất với những lời thơ êm đềm, nhẹ nhàng, trong sáng, và những cảm xúc đằm thắm chân thành dành riêng cho "quê ngoại" thân thương.. 10-Huy Cận Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31/5/1919 tại Hà Tĩnh - học trung học ở Huế và đại học ở Hà Nộị Những bài thơ đầu tay và nỗi tiếng của ông đều được đăng trong tạp chí Ngày Naỵ Hầu hết thơ Huy Cận trước 1945 thuộc trường phái lãng mạn - điển hình là tập thơ Lửa Thiêng. Ông có viết một tập văn xuôi - Kinh Cầu Tự - nhưng không được thành công mấỵ Sau năm 1945, Huy Cận theo kháng chiến và ở lại miền Bắc. Những tác phẩm sau 1954 được biết đến gồm có: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1964), Những năm 60 (1964). Những tập thơ sau này nghiêng hẳn về Xã Hộị.. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 6.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. 11-Lưu Trọng Lư Lưu Trọng Lư là tên thật, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 tại Cao La Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Học trường Quốc Học Huế đến năm thứ ba thì bỏ ra Hà Nội học tư, rồi bỏ đi làm thơ, làm báo, viết văn. Chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư tại Huế năm 1933-1934. Sau 1954, ông làm vụ trưởng Vụ Sân Khấu Bộ Văn Hóa, và là Tổng thư ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Tiếng Thu (1939), Người Con Gái Sông Gianh (1966), Từ Đất Này (1971), Hồng Gấm. Tuổi Hai Mươi (kịch thơ, 1973). Mặc dù Lưu là một trong những người cổ động cho Thơ Mới ồn ào nhất, đọc thơ ông, người ta vẫn có cảm tưởng nó chẳng mới bao nhiêụ Thơ Lưu Trọng Lư vẫn là một khúc đàn xưa, giàu tình cảm lẫn nhạc điệu với những rung động chân tình, dễ gây ấn tượng trong người đọc. Nhận xét của Hoài Thanh - Hoài Chân: "... thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta".. 12-Lưu Quang Vũ Lưu Quang Vũ sinh ngày 17 tháng 4 năm 1948 tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa (Vĩnh Phú). Quê ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Thuở nhỏ ông sống cùng gia đình ở Việt Bắc. Sau khi xuất ngũ năm năm 1970 xuất ngũ, Lưu Quang Vũ làm nhiều nghề khác nhaụ Nhưng từ tháng 8 năm 1979 cho đến khi mất, ông là một phóng viên của "Tạp chí sân khấu". Lưu Quang Vũ từng làm thơ, làm báo, lại viết văn khá có duyên, cộng với một tâm hồn nhạy cảm, Lưu Quang Vũ đã được chuẩn bị một vốn liếng văn học và nghề nghiệp nhất định trước khi bước vào lĩnh vực sân khấu Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh Trong hơn 50 tác phẩm trong khoảng thời gian tám năm, mà càng thời gian cuối những sáng tác càng nhiều, có thể chia làm ba loại: Loại 1: Dựa vào một số tích cũ của văn học dân gian trong và ngoài nước rồi viết lại như: Lời nói dối cuối cùng, Hồn Trương Ba da Hàng thịt, Nàng Sita, Đam San, Đôi đũa kim giao, Ông vua hóa hổ, Linh hồn của đá... Loại 2: Dựa vào một cốt chuyện văn học để chuyển thành kịch như: Đôi dòng sữa mẹ, Hẹn ngày trở lại, Chết cho điều chưa có, Muối mặn của đời em.... Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 7.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. Loại hoàn toàn do sáng tác: Đây là phần chủ yếu, là điểm mạnh và đóng góp lớn nhất cho sân khấu những năm qua và tuyệt đại bộ phận sáng tác này đều là đề tài hiện đạị Nét quán xuyến trong toàn bộ sáng tác, làm nên phong cách và âm hưởng chủ yếu trong sự nghiệp của Vũ, chính là tính hiện đại trong chủ đề tư tưởng các vỡ diễn, ngay cả khi viết về đề tài lịch sử, dã sử, truyện cổ dân gian trong nước cũng như của nước ngoàị Cùng lúc Vũ vừa làm được công việc đưa tác phẩm nghệ thuật đi gần với đời sống, cái khả năng không phải ai cũng có được là biến những sự kiện có thật trong đời sống thành những chi tiết nghệ thuật; đồng thời phổ vào những chi tiết vốn thực có và cá biệt đó, một ý nghĩa phổ biến và có sức khái quát. Thiếu điều đó thì sẽ chỉ có một thứ hiện thực "bò sát", hoặc tập hợp những chi tiết hoàn toàn có thật mà vẫn tạo nên một cơ thể nghệ thuật giả. Giữa lúc tài năn đang sung mãn, đột ngột thay, ngày 29 tháng 8 năm 1988, Lưu Quang Vũ từ trần trong một tai nạn giao thông tại tỉnh Hải Hưng, cùng với vợ là nữ thi sĩ Xuân Quỳnh và con trai là Lưu Quỳnh Thợ CÁC TÁC PHẨM CHÍNH: + Về kịch bản sân khấu: - Kịch dài: 1. Đôi bạn quê hương (1966) 2. Sống mãi tuổi 17 (1979) 3. T.15 về đâu (1980) 4. Mùa hạ cuối cùng (1981) 5. Cô gái đội mũ nồi xám (1981) 6. Người con gái trở về (Trời xanh trên mái phố) (1981) 7. Những ngày đang sống (1981) 8. Thủ phạm là aỉ (1982) 9. Cây ngọc lan của Huyền (1982) 10. Nữ ký giả (1983) 11. Dạ khúc tình yêu (1983) 12. Nàng Sita (1982) 13. Ngôi sao màu lá xanh (Giòng máu trắng) (1983) 14. Hẹn ngày trở lại (1984) 15. Nguồn sáng trong đời (1984) 16. Bên sông Thu Bồn (1984) 17. Tôi và chúng ta (1984) 18. Người trong cõi nhớ (1982) 19. Vách đá nóng bỏng (1983) 20. Đường bay (1984) 21. Hoa xuyến chi (1982) 22. Hồ Trương Bađa hàng thịt (1981) 23. Người tốt nhà số 5 (1981) 24. Ngọc Hân công chúa (1984) 25. Lời nói dối cuối cùng (Cuội và Bờm) (1985) 26. Đất sống của người (1985) 27. Vi khuẩn Han-Xen (Hạnh phúc của người bất hạnh) (1985) 28. Đôi dòng sữa mẹ (Hai giọt máu) (1985). 29. Ông vua hóa hổ (1985) 30. Khoảnh khắc và vô tận (1986) 31. Tin ở hoa hồng (1986) 32. Nếu anh không đốt lửa (1986). Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 8.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. 33. Hoa cúa xanh trên đầm lầy 34. Muối mặn của đời em 35. Đam San 36. Chết cho điều chưa có 37. Quyền được hạnh phúc (1987) 38. Đôi đũa Kim Giao 39. Ông không phải bố tôi (1988) 40. Linh hồn của đá 41. Bệnh Sĩ (1988) 42. Lời thề thứ chín 43. Chim Sâm Cầm không chết (1988) 44. Trái tim trong trắng (Vụ án hai ngàn ngày) (1988) 45. Điều không thể mất (1988) 46. Người bạn già (1984) - Kịch ngắn: 47. Juy-li-ét không trẻ mãi 48. Sống giả chết giả 49. Con tò te 50. Tẩy, bút chì và thước kẻ (Chưa công bố) 51. Ngọn gió vô hình (Chưa công bố) 52. Đoàn thanh tra tới 53. Câu chuyện chiều cuối năm ... Ngoài ra còn một số truyện ngắn, thơ đã in trên các báo, tập chí và chưa công bố.. 13-Nam Cao Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (1915-1951) thuộc thế hệ văn học tiền chiến nhưng mất rất sớm trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm của ông quan trọng là của thời trước chiến tranh với những khổ đau của dân quê và những hủ tục của một thời mà con người nghèo nàn chỉ biết bám víu vào những hư vị hão trong thôn đảng. Giá trị con người được đề cao trong truyện của Nam Cao, nhất là trong truyện ngắn nổi danh Chí Phèo mà trước đây ít người được biết. Truyện ngắn Nam Cao có nghệ thuật trong kết cấu và ngôn từ . Nhiều truyện của ông mang tính cách tâm lý đến bây giờ vẫn còn là những khuôn thước tốt cho người muốn bước vào lãnh vực truyện ngắn. Với Nam Cao, ta có thể nói như với Edgar Poe, truyện ngắn đã thành hình và có quy luật riêng của nó . Có những nhà văn mà tác phẩm càng đi vào thời gian càng có giá trị Nam Cao ở vào trường hợp đó . Truyện của ông là những bộ nhớ ghi lại một cách sống động những sinh hoạt đặc biệt của nông thôn Việt Nam cách đây nửa thế kỷ . Ta yêu mến dân tộc ta . Ta tha thiết với những gì mà dân tộc ta đã trải qua tất nhiên ta tha thiết và mến yêu những nét chấm phá trong truyện của Nam Cao . Ở đây có đầy đủ hết, từ anh mõ nghèo nàn nhưng ai cũng sợ, đến những chức dịch luôn luôn ậm ọc nhưng chỉ biết có những miếng đỉnh chung tại chốn đình chung, từ một anh tha phương cầu thực tấp vào sống nhờ trong làng đến một người lính tập có dịp ra khỏi lũy tre làng xã nên đã mở mắt với đời ... đủ cả . Có người nói Nam Cao nổi tiếng nhờ truyện Chí Phèo . Đúng, nhưng thiếu, Chí Phèo là tuyện. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 9.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. đỉnh văn chương của Nam Cao, và các truyện khác của ông cũng là những tác phẩm rất có giá trị trong văn chương Việt.. 14- Nguyễn Bính Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xã Đồng Đội, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định (hiện nay đã được đổi lại là Hà Nam Ninh); ông lấy bút hiệu Nguyễn Bính. Theo tài liệu được Hội Nhà Văn ở Hà Nội công bố về tiểu sử của ông: thuở nhỏ Nguyễn Bính không được đi học ở nhà truờng mà chỉ đuợc học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm. Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sinh sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà... Những năm đầu thập niên 40, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào Miền Nam. Lúc này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết. Năm 1 43, Nguyễn Bính lại đi vào Miền Nam lần thứ ba và đã gặp Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang... Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây#... "Từ độ về đây sống rất nghèo Bạn bè chỉ có gió trăng theo Những thằng bất nghiã xin đừng tới Hãy để thềm ta xanh sắc rêu#." (Từ Độ Về Đây - 1943) Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Miền Nam. Đến Năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà văn ở Hà Nội một thời gian. Năm 1956, Ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ TRĂM HOA (nguyên văn trong tài liệu của Hội Nhà văn); Đến năm 1958, Nguyễn Bính chuyển về tỉnh nhà Nam Định và phục vụ trong Ty Văn Hoá Nam Định cho đến ngày ông từ giã cõi đờị Nguyễn Bính chết ngày 20-1-1966, những ngày cuối năm Ất Tị; Suốt 30 năm sinh hoạt văn nghệ, nhà thơ đã sáng tác nhiều thể loại như làm thơ, viết kịch, truyện thợ.. Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi cạ Ông đã xuất bản được 20 tác phẩm đủ loại: -. Lỡ Bước Sang Ngang (Thơ 1940) Tâm Hồn Tôi (Thơ 1940) Hương Cố Nhân (Thơ 1941) Một Nghìn Cửa Sổ (Thơ 1941) Người Con Gái Ở Lầu Hoa (Thơ 1942) Mười Hai Bến Nước (Thơ 1942) Mây Tần (Thơ 1942) Bóng Giai Nhân (Kịch Thơ 1942) Truyện Tỳ Bà (Truyện Thơ 1942) Ông Lão Mài Gươm (Thơ 1947) Đồng Tháp Mười (Thơ 1955). Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 10.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. -. Trả Ta Về (Thơ 1955) Gửi Người Vợ Miền Nam (Thơ 1955) Trong Bóng Cờ Bay (Truyện Thơ 1957) Nước Giếng Thơi (Thơ 1957) Tiếng Trống Đêm Xuân (Truyện Thơ 1958) Tình Nghĩa Đôi Ta (Thơ 1960) Cô Son (Chèo cổ 1961) Đêm Sao Sáng (Thơ 1962) Người Lái Đò Sông Vỵ (Chèo 1964). Ngoài những tác phẩm kể trên, còn một số thơ rời viết trong năm 1964, 1965 và 1966 chưa kịp xuất bản.. 15- Nguyễn Huy Thiệp "Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểụ Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó. Vua Gia Long hiểu điều ấy và đấy là nỗi cay đắng lớn nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng. Nguyễn Du thì khác, ông không hiểu điều ấỵ Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy điển tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình. Nguyễn Du ngập trong mớ bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long đứng cao hẳn ngoài đời sống ấỵ Người mẹ của Nguyễn Du (tức nền chính trị đương thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải ba trăm năm sau người ta mới thấy điều này vô nghĩa Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950, quê quán: Thanh Trì, Hà Nộị Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên ... Nông thôn và những người lao động vì thế để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong nhiều sáng tác của ông. ``Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là người am hiểu nho học và mẹ, vốn là người sùng đạo Phật. Năm 1960, ông cùng gia đình về quê quán và định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ Nguyễn Huy Thiệp là một bông hoa nở muộn trên văn đàn. Vài truyện ngắn của ông xuất hiện lần đầu tiên trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1986. Chỉ một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông. ``Có người lên án anh gay gắt, thậm chí coi văn chương của anh có những khuynh hướng thấp hèn. Người khác lại hết lời ca ngợi anh và cho rằnh anh có trách nhiệm cao với cuộc sống hiện nay (Lời cuối sách của NXB Đa Nguyên) Sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn, có thể tạm được phân loại như sau: về lịch sử và văn học: Kiếm Sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút Thoáng Xuân Hương .... Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 11.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. truyện ngắn mang hơi hướm huyền thoại hoặc "cổ tích": Những Ngọn Gió Hua Tát, Con Gái Thủy Thần, Giọt Máu, Muối Của Rừng, Chảy Đi Sông Ơi, Trương Chi ... về xã hội VN đương đại: Không Có Vua, Tướng Về Hưu, Cún, Sang Sông, Tội Ác và Trừng Phạt ...; về đồng quê và những người dân lao động: Thương Nhớ Đồng Quê, Những Bài Học Nông Thôn, Những Người Thợ Xẻ ... Ngoài ra, Nguyễn Huy Thiệp còn viết nhiều kịch, tiêu biểu là Xuân Hồng, Còn Lại Tình Yêu, Gia Đình (hay Quỷ Ở Với Người, dựa theo truyện ngắn Không Có Vua), Nhà Tiên Tri, Hoa Sen Nở Ngày 29 Tháng 4 ...; và nhiều thơ (chưa xuất bản tập thơ nào, song thơ xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn của ông). Năm 1994, Nguyễn Huy Thiệp gác bút và xoay ra mở nhà hàng ở Hà Nội tên là Hoa Ban, rất ăn khách.. 16- Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến lúc nhỏ tên là Thắng, sinh năm Ất Mùi (1835) ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Thủa nhỏ chăm học. Năm 17 tuổi, ông đi thi cùng một khóa với cha, nhưng bị hỏng. Sau đó cha mất, nhà nghèo, Nguyễn Khuyến phải đi dạy học để kiếm sống và nuôi mẹ. Ông nghè Vũ Văn Lí, học trò cũ của ông bác Nguyễn Khuyến thương tình cảnh của Nguyễn Khuyến, đem về nuôi cho ăn học tiếp. Năm 1864, Nguyễn Khuyến thi hương đậu giải nguyên (đậu đầu); năm sau thi hội bị hỏng, ông vào kinh theo học trường Quốc Tử Giám. Năm 1871, ông thi lại lần nữa và đỗ liền cả Hội nguyên và Đình nguyên. Nguyễn Khuyến đậu đầu cả ba kỳ nên người ta thường gọi ông là ông Tam nguyên hay Tam nguyên Yên Đỗ. Ông Tam nguyên Yên Đỗ đã từng làm ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lí bộ Hộ,... Thời gian Nguyễn Khuyến ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và đang đánh ra miền Bắc. Cuối năm 1883, Nguyễn Khuyến được cử làm quyền Tổng đốc Sơn Tây thay cho Tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận đã bỏ Sơn Tây lên Hưng Hóa chống thực dân Pháp, nhưng Nguyễn Khuyến từ chốị Sau đó Hoàng Cao Khải Kinh lược sứ Bắc Kì mời ông đến nhà dạy học, rồi Lê Hoan Tuần phủ Hưng Yên tổ chức thu vịnh Kiều cũng mời ông làm giám khảọ Hoàng Cao Khải, Lê Hoan là những kẻ cộng tác với thực dân Pháp. Từ chối lời mời của họ ông biết sẽ sinh chuyện lôi thôi nên đành miễn cưỡng nhận lờị Nguyễn Khuyến làm quan tất cả hơn 10 năm, rồi từ quan về nhà. Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở thôn quệ Ông mất năm 1909, thọ 75 tuổị SỰ NGHIỆP THƠ CA:. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 12.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. Sáng tác của Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm, cả hai đều rất điêu luyện. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội dung: - Bộc bạch tâm sự của mình; - Viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương - một vùng đồng chiêm nghèo ở Bắc Bộ; - Chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỉ, tùy thời, cơ hội lúc bấy giờ. Nguyễn Khuyến là một nhà thơ được đào tạo theo khuôn mẫu của đạo đức của Nho giáọ Đối với ông, con người sinh ra ở đời sau khi học hành, đỗ đạt thì phải ra làm quan để "thờ vua giúp nước", thực hiện nghĩa vụ "trí quân trạch dân" (vừa giúp vua, vừa làm cho dân được nhờ) mà đạo lý nhà nho đã quy định. Trong một thời buổi bình thường chắc Nguyễn Khuyến sẽ trở thành một ông quan thanh liêm, mẫu mực. Nhưng thời Nguyễn Khuyến sống, Pháp đang đánh chiếm Việt Nam, triều đình vì bạc nhược nên đã lần lượt đầu hàng giặc. Trong một bối cảnh như thế nếu Nguyễn Khuyến cứ làm quan thì không khác nào tiếp tay cho giặc, đó là điều mà các nhà nho chân chính rất sợ. Nguyễn Khuyến lúng túng trong thái độ ứng xử. Cuối cùng ông quyết định từ quan. Trong thơ ông có rất nhiều bài thể hiện cái tâm trạng ấỵ Lúc đầu ông do dự "mình bỏ nước về nhưng bạn bè đâu phải không có người ở lạị Và về như thế chắc gì con cháu đã khen". Về sau ông mới dứt khoát cho rằng lui về là phải, và ông tiếc là một số bạn bè đã không hành động như ông. Có điều thời cuộc thì mỗi ngày một xấụ Thực dân Pháp ngày một lấn tới, bọn cơ hội, tùy thời lúc đầu còn rụt rè, về sau thì công khai ra cộng tác với giặc. Nguyễn Khuyến cảm thấy buồn vô hạn. Ông viết về tiếng con cuốc kêu và đó cũng là tiếng lòng của ông đối với non sông đất nước: Năm canh máu chảy đêm hè vắng, Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ. Có phải tiếc xuân mà đứng gọi, Hay là nhớ nước vẫn nằm mợ Và cho đến lúc nghĩ là mình sắp từ giã cuộc đời, trong bài Di chúc, ông vẫn nói: Ơn vua chưa chút báo đền Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹo trời! Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở nông thôn. Quê ông là một miền đồng chiêm nghèo trũng nước. Nguyễn Khuyến sống ở quê và quan hệ thân tình với mọi ngườị Ông làm thơ tặng bạn bè, tặng anh vợ, tặng ông hàng thịt,... làm câu đối viếng người làng, viếng người thợ rèn, mừng đám cưới, mừng nhà mới,... Nguyễn Khuyến viết nhiều về con người, về thiên nhiên, cảnh vật ở nông thôn. Trước Nguyễn Khuyến, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng có những tác phẩm viết về nông thôn, nhưng hình ảnh nông thôn trong văn học nói chung còn mờ nhạt. Có thể nói, với Nguyễn Khuyến lần đầu tiên nông thôn Việt Nam mới thực sự đi vào văn học. Nguyễn Khuyến xứng đáng được gọi là nhà thơ của nông thôn. Dưới ngòi bút của ông, cuộc sống ở nông thôn dường như lúc nào cũng khó khăn, túng thiếu: Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, Chợ búa, trầu cau chẳng dám muạ. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 13.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. (Chốn quê) Nỗi ám ảnh thường xuyên của người nông thôn là lo mất mùa, lụt lội: Năm nay cày cấy vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùạ (Chốn quê) Hay: Quai Mễ Thanh Liêm đã vờ rồi, Vùng ta thôi cũng lụt mà thôị (Nước lụt Hà Nam) Ngày tết đến, nếu là năm được mùa thì còn có chút vui: Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng, Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt. (Cảnh tết) nhưng chẳng may gặp năm mất mùa thì tết nhất lại càng thê thảm: Dở trời mua bụi còn hơi rét, Nếm rượu tường đền được mấy ông? Hàng quán người về nghe xáo xác, Nợ nần năm hết hỏi lung tung. (Chợ Đồng) Trong thơ Nguyễn Khuyến, thiên nhiên được miêu tả cũng là một thiên nhiên nông thôn rất rõ. Cảnh mùa thu trong thơ của ông không phải là mùa thu ở miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đông chiêm Bắc Bộc lúc bấy giờ. Ta có thể nhận thấy điều ấy qua cái màu "xanh ngắt" của bầu trời, đến cái nước "trong veo" của ao cá; hay từ cái "Lưng giậu phát phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe". Và cũng phải đến Nguyễn Khuyến, trong thơ Việt Nam mới có những bữa trưa đặc biệt nông thôn như: Chuông trưa vẳng tiếng người không biết, Trâu thả sườn non ngủ gốc câỵ (Nhớ cảnh chùa Đọi) Viết về nông thôn với những tình cảm đằm thắm như thế, không phải trước mà sau Nguyễn Khuyến cũng hiếm có người nào viết được như ông. Một mảng sáng tác khác cũng rất có giá trị của Nguyễn Khuyến là mảng thơ trào phúng, đả kích. Nguyễn Khuyến thấy khá rõ cái xấu của xã hội đương thờị Là một nhà nho đã từng làm quan, ông chú ý trước hết đến cái xấu của đám nho sĩ, của bọn quan lạị Đi thi, làm quan trong thời buổi nước mất nhà tan thì có gì là thực chất, thì làm được việc gì? Ông gọi là "tiến sĩ giấy", là "phỗng đá", là anh hề chèọ Ông vạch trần bọn quan lại chỉ lo cho túi mình đầy ắp và bất chấp tất cả mọi sự khen che của dư luận. Ông đả kích thói rởm đời lố lăng, thứ con đẻ của cã hội thực dân. Ngòi bút đả kích của Nguyễn Khuyến trở nên chua xót, cay đắng khi ông thấy chính nhân dân bị bọn thực dân lừa gạt đã tham gia một cách vô ý thức vào những trò chơi làm hạ phẩm giá của mình. Ông tả cảnh ngày "Hội Tây" lúc bấy giờ và kết luận: Khen ai khéo vẽ trò vui thế, Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêụ Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến ngoài bộ phận hướng vào cái xấu của cã hội để đả kích, ông còn dành một số bài để tự chế giễu cái bất lực, cái bạc nhược của bản thân mình. Trong những bài thơ này, cái cười của ông thường trở nên chua chát, tội nghiệp.. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 14.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. Thơ Nguyễn Khuyến không những có nội dung thâm thúy mà nghệ thuật cũng rất đặc đắc. Ông là người đã đưa chất trào phúng vào thờ chữ Hán, và dùng cả "điển cố" lấy từ ca daọ Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, ngôn ngữ dân tộc được nhà thơ sử dụng là thứ ngôn bgữ hằng ngày giải dị, nhưng rất sinh động, tinh tế, Nhà thơ khai thác được giá trị tạo hình của nhiều từ lấp láỵ Bút pháp của Nguyễn Khuyến trong thơ về cơ bản là hiện thực trữ tình, thỉnh thoảmg có điểm xuyết những yếu tố trào phúng. Cái cười trong thơ Nguyễn Khuyến không vang lên thành tiếng, mà thường là cái cười kín đáo, thâm trầm. Ông đã sử dụng hầu hết các thể loại thơ ca cổ mà thể loại nào cũng rất thành công.. 17- Nguyễn Trãi + TIỂU SỬ: Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần. Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợị Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 - 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442. Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan. Nhìn chung, ở cuộc đời Nguyễn Trãi nổi lên hai điêm cơ bản sau: Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. O8? Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà tho8 tầm cỡ kiệt xuất. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chụi những oan khiên thảm khốc, do xã hội củ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch sử. + SỰ NGHIỆP THƠ VĂN: - Nhà văn, nhà thơ lớn: là anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Ông còn. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 15.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. để lại nhiều tác phẩm có giá trị. "Quân trung từ mệnh tập" là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh, nhằm thực hiện kế "đánh vào lòng", ngày nay gọi là địch vận. "Bình Ngô đại cáo" lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về qúa trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước. "Lam Sơn thực lục" là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. "Dư địa chí" viết về địa lý lịch sử nước tạ "Chí Linh sơn phú" nói về cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn bằng chữ Hán. Về thơ, có hai tập: "Ức trai thi tập" bằng chữ Hán, "Quốc âm thi tập" bằng chữ Nôm, tức chữ Việt, đó là thơ cả một đời, từ lúc trẻ đến tuổi già, nhiều nhất là khoảng 10 năm tìm đường và thời gian về nghỉ ở Côn Sơn. Nội dung thấy rõ trong đó là tâm tình đối với quê hương, gia đình, với nước, với dân, với bao éo le trong cuộc đờị.. - Tình yêu quê hương gia đình: Nội dung thơ văn ông rất phong phú. Đây chỉ nói vắn tắt một vài khía cạnh. Nét đầu tiên là niềm tha thiết với thiên nhiên ở quê hương. Bắt đầu là những cái nhỏ nhặt, tưởng như không đâu, nhưng chan chứa thân thương. Rau muống, mồng tơi, râm bụt, cây chuối, cây đa, cây míạ.. đều thành vần điệụ Đào, liễu, tùng, trúc cao sang đứng liền bên cạnh rau muống, mồng tơi quê mùa một cách tự nhiên. Không chút gì phân biệt sang hèn. Tất cả đều được lòng ông trìu mến. Ông nói một cách trang trọng: "Hái cúc, ương lan, hương bén áo, Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn", mà cũng vừa vui tươi chân chất: "Ao cạn, vớt bèo cấy muống, Trì thanh, phát cỏ ương sen". Ông phát hiện ra cái đẹp bình dị rất bất ngờ: Đêm trăng gánh nước thì gánh luôn trăng đem về ("Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về"). Bầu trời không mây, trong suốt một màu xanh, ông thấy đó là một bầu ngọc đông lại ("Thế giới đông nên ngọc một bầu"). Thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi, ông nhìn thành một đám tằm lúc nhúc ("Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi"). Con rùa, con hạc, núi, chim, mây, trăng, ông coi là con cái, là láng giềng, là anh em: "Rùa nằm, hạc lẩn nên bầy bạn, U ấp cùng ta làm cái con...", "Núi láng giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam". Có lúc, ông như hòa tan mình vào thiên nhiên đến mức dòng suối, tảng đá phủ rêu, vòm thông tán trúc như hòa nhập với ông làm một: "Côn Sơn có suối rì rầm. Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai, Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm, Trong lèn thông mọc như nêm, Tha hồ muôn lọng ta xem chốn nằm, Trong rừng có bóng trúc râm, Giữa màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn"... (Côn Sơn ca - dịch). Tiếp theo là niềm tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà. Thời còn giặc Minh, nhiều năm ông phải lẫn tránh khắp nơi, xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầụ Đêm thu, xa nhà, bên ngọn đèn khuya, ông day dứt: :Gió thu đến, lá rụng rồị mình vẫn lận đận quê người, Đêm mưa, bên ngọn đèn leo lét, hồn mộng cứ vẫn vơ mãi nơi đất khách" (Đêm thu đất khách - dịch). Tiết Thanh minh đến, theo tục, con cháu phải về thăm mồ mã ông bà, sửa sang, bồi đắp, thắp nén hương tưởng nhớ, cho đúng đạo làm con cháu, thế mà đã bao năm ông không về được. Ông chỉ não lòng: "Thân mình xa ngàn dặm, mồ mã ông bà ở quê không sao giẫy cỏ thắp hương, Mười năm đã qua, những nguời ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai, Đành mượn chén rượu ép mình uống, không cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê" (Thanh minh - dịch). Ông mất mẹ lúc mới lên sáụ Lòng con thương mẹ càng nồng. Ông bà ngoại, cậu, dì đều ở Côn Sơn. Quê nội nhiều đời cũng ở đó. Một lần đi thuyền về thăm, ông ôn lại bao nỗi đắng cay trong những ngày lưu lạc. Nghe sao mà tha thiết: "Mười năm rồi mình trôi dạc như cánh bèo, Đêm ngày nổi nhớ quê cứ như giày vò trong lòng, Bao lần đã gửi hồn tìm về quê cũ, Nhưng rồi đành nhỏ nước mắt thấm máu mà gội rửa trong tưởng tượng nấm mồ mẹ, mồ mã ông bà, còn xóm làng, bà con, trong lúc giặc giày xéo thì tránh sao được những hành vi bạo tàn của chúng! mà mình thì cứ đang phải thương xót suông, Trời: biết làm sao đây! Một đêm trôi qua bên gối, không cách nào nhắm mắt được" (viết trên thuyền về Côn Sơn - dịch).. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 16.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. - Đời sống trong sạch, suốt đời một lòng vì nước vì dân: Trở về với nông thôn, ông yên lòng và tự hào: "Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao". Cấy cày là niềm vui: "Một cày một cuốc thú nhà quề, Áng chúc lan chen vãi đậu kê". Người dân bùn lấm đáng được biết ơn: "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày". Cuộc sống giản dị, nghèo mà thanh: "Bữa ăn dầu có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là", "Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bô quen cật vận xềnh xoàng", xa lánh chốn lợi danh nham hiểm: "Co qoe thay bấy ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi trái hòe". Ông ca ngợi chi tiết của tùng, trúc, mai, ba cây không chịu khuất phục trước giá lạnh mùa đông và ông luôn giữ một tấm lòng trong sạch, một tấm "lòng thơm". Lòng thơm ấy là lòng yêu nước thương dân. Có khi ông gọi đó là "lòng trung hiếu", "lòng ưu ái". Nó suốt đời sôi nổi: "Bui có một lòng trung liễn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen", "Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông". Nó dựa trên lý tưởng nhân nghĩạ Nhân nghĩa là một tư tưởng cao qúy xuyên thấm cuộc đời và thơ văn ông. Đối với ông, nhân nghĩa là "yên dân", "trừ bạo" hay "Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược". Được như vậy mới thực sự "Có nhân, có trí, có anh hùng". Nhân trí, anh hùng ấy thuộc lòng yêu nước cao cả của ông, yêu nước bằng tư tưởng, tình cảm, bằng hành động cứu nước lo dân tuyệt vờị Nói cụ thể như Phạm Văn Đồng: "cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân". Đất nước bị ngoại xâm, nó hiện thành lòng lòng căm thù giặc cao độ và ý chí kiên trì, gang thép tiêu diệt quân thù: "Căm giặc nước thề không cùng sống", "Nếm mật nằm gai, há phải một sớm hai tối, Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh". Quân giặc quét sạch rồi, nó là khát khao xây dựng một đất nước hưng thịnh, nhân dân đời đời ấm no hạnh phúc: "Xã tắc từ đây bền vững, Giang sơn từ đây đổi mớị.., Muôn thuở nền thái bình vững chắc".. 18- Phan Bội Châu Phan-Bội-Châu, hiệu Sào-Nam, người làng Ddan-Nhiễm, tỉnh Nghệ-An . Ông thi đậu thủ-khoa, nhưng không ra làm quan, chỉ lo tranh đấu giành độc lập cho xứ-sở . Ông học rộng, biết nhiều, và nhận rằng muốn giành độclập thì dân phải khôn, mạnh, giàu và cũng phải nhờ sự giúp đỡ của các nước bạn . Vì vậy, trước tiên, ông đi khắp Bắc, Trung, Nam, diễn thuyết hô-hào dân-chúng lập hội buôn bán, mở công nghệ, khuyến khích thanh-niên ra xuấtđương (ra hải ngoại) du học, nhất là ở Nhật. Sau đó, ông sang Nhật, Tàu và Xiêm (Thái Lan), tìm cách giao thiệp với cách chánh khách. Ông đưa Kỳ-Ngoại-Hầu Cường-Để sang nhật và giúp cho rất nhiều thanh-niên Việt Nam vào học các trường võ-bị ngoại-quốc . Ông thường gởi về nước sách báo, thư-từ để đánh thức lòng yêu nước của toàn dân. Ông còn tìm cách gởi cả võ-khí về giúp các khu kháng-chiến ở trong nước . Sau ông bị bắt ở Tàu và đưa về nước. Sinh viên, học-sinh hiệp cùng dân chúng nổi lên đòi chánh phủ Pháp tha ông. Pháp giam lỏng ông ở bến Ngự (Huế) . Ông qua đời năm 1940, hưởng thọ 74 tuổị Toàn dân mến tiếc ông.. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 17.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. Phan-Bội-Châu là một nhà đại ái-quốc, trọn đời bôn-ba vì nước .. 19- Quang Dũng (1921-1988). Quang Dũng tên thật Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội). Thuở nhỏ, ông theo học trung học tại trường Thăng Long, Hà Nộị Vào những năm kháng chiến chống Pháp, Quang Dũng hoạt động văn nghệ ở liên khu III, làm đại đội trưởng đoàn quân Tây Tiến (1947). Sau năm 1954, ông sống như một kẻ vô danh tại miền Bắc, từ trần ngày 13 tháng 10 năm 1988 tại Hà Nội sau một thời gian dài đau bệnh. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Bài Thơ Sông Hồng (1956), Rừng Biển Quê Hương (1957), Mây Đầu Ô (1986); truyện ngắn Mùa Hoa Gạo (1950); hồi ký Làng Đồi Đánh Giặc (1976)... Thơ Quang Dũng nằm giữa biên giới của thật và mơ, như khói như mây mờ mờ ảo ảo, như tiếng vọng từ chân trời nào xa vắng.... 20- Trần Tế Xương (1870-1907) Trần Tế Xương (1870-1907), hiệu Vị Thành, là người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông xuất thân từ một gia đình thanh bạch nhưng cũng có vai vế ở Vị Xuyên. Đường khoa cử của ông lận đận: đi thi từ năm 15 tuổi nhưng hỏng hoài, mãi tới năm 24 tuổi (1894) mới đổ Tú Tàị Sau đó ông lại trượt Cử Nhân 5 khoa liền. Nhà nghèo, con đông, nghề dạy học lại bấp bênh trong thời kỳ Nho Học suy tàn xuống dốc, ông chỉ còn biết trông cậy vào bà vợ đảm đang ``quanh năm buôn bán ở mom sông''. Trong lúc đang còn bị ám ảnh bởi cơn mộng khoa cử, ông đột ngột qua đời năm 1907 lúc mới 37 tuổị Tác phẩm ông để lại gồm nhiều thể loại -- thơ, phú, câu đối, hát nói ... -- phần lớn đều bằng chữ Nôm. Nếu như các cuộc nội chiến tàn khốc thời Lê mạt Nguyễn sơ đã sản sinh những Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiềụ.. thì vận mệnh đất nước long đong thời thuộc Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã khơi thông thi tứ cho Tú Xương. Thơ văn ông giản dị, bình dân, nhưng tự nhiên và linh hoạt. Nhiều sáng tác trình bày tâm sự đau đớn, xót xa; hoặc mỉa mai, ngạo đời. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 18.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. một cách chua chát, cay độc; hoặc gửi gấm tấm lòng yêu nước thương nòi một cách kín đáo và sâu sắc. 21- Vũ Trọng Phụng (1912-1939) Vũ Trọng Phụng sinh năm 1912 và mất năm 1939, quê ở lang Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất ở Hà Nộị Mồ côi cha từ thuở ấu thơ, gia đình nghèo, Vũ Trọng Phụng được bà mẹ tần tảo nuôi cho ăn học. Ông viết văn sớm, có truyện đăng báo từ 1930. Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng trên hai lĩnh vực phóng sự và tiểu thuyết. Vào những nắm 30 của thế kỷ này, cùng với sự phat triển mạnh mẽ của báo chí, một thể văn mới ra đời: thể phóng sự. Hàng loạt tên tuổi được chú ý nhờ gắn bó với thể văn này: Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Vũ Bằng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp, Phi Vân... (Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân cũng có viết phóng sự). Trong số những cây bút ấy, nổi trội hẳn lên là Vũ Trọng Phụng. Vì thế công chúng đương thời đã tặng ông danh hiệu: "ông vua phóng ự đất Bắc". Những tác phẩm chính: + Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), viết về nạn cờ bạc bịp ở Hà Nội; Kĩ nghệ lấy Tây (1934), viết về cái nghề lấy Tây để nuôi thân; Cơm thầy cơm cô (1936), viết về cảnh đời những người đi ở. + Tiểu thuyết: Giông Tố (1936), Vỡ Đê (1936), Trúng Số Độc Đắc (1938)... trong đó tiểu thuyết trào phúng Số Đỏ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và đặc sắc hơn cả. Vũ Trọng Phụng có lối thuật kể thật là hóm hỉnh và có duyên. Nhưng tiếng cười vừa dứt, dư vị để lại sao mà cay đắng, chua chát! Vì sao mà những người đàn bà vốn lương thiện, thậm chí từng có một thời thanh xuân đầy mộng ước kia lại đến nông nổi phải làm cái "nghề" mà chính họ cũng thấy là đáng khinh, là bỏ đi nàỷ Thực chất đây là một thứ mãi dâm mạt hạng: làm "điếm" kiêm đầy tớ có thời hạn cho những tên lính viễn chinh dâm ô, hung dữ, liều lĩnh và thường là nhưng con sâu rượu thô bỉ. Mà cái "nghề" này có thể làm mãi được saỏ Lại còn những đứa con lai đẻ ra mọt cách bất đắc dĩ? Cho nên đằng sau cái "kỹ nghệ" quái thai kia là biết bao cuộc đời lỡ dỡ, biết bao tâm trạng tủi nhục, biết bao số phận tối tăm của những người đàn bà một nước thuộc địa bị đẩy tới bước đường cùng. Trong "Cơm thầy cơm cô", Vũ Trọng Phụng viết: "người phu xe biết hết mọi sự độc ác của loài người hơn là một học giả", "một kẻ đi ở (...) biết rõ những tính tình của loài người hơn là một văn sĩ tả chân". Ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng chính là đã quan sát, đã thuật kể bằng con mắt và tấm lòng của những người phu xe ấy, của những người đi ở ấỵ Tuy nổi tiếng, nhưng ngòi bút của Vũ Trọng Phụng không đủ nuôi gia đình. Ngày 18 tháng 10. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 19.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> TỦ SÁCH HAI TỐT TRUNG HỌC CƠ SỞ. năm 1939, Vũ Trọng Phụng mất trong cảnh túng quẫn vì bệnh lao phổi quá nặng, lúc mới 27 tuổi. 22-Xuân Diệu (1916-1985). Xuân Diệu là bút danh, Họ tên nhà thơ là Ngô Xuân Diệụ Ông sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 (năm Bính Thìn). Cha ông là Ngô Xuân Thọ, vốn quê ở xã Trảo Nha (vì thế có khi Xuân Diệu ký dưới bài viết là Thảo Nha), nay là xã Đại Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tú tài kép Hán học, vào Bình Định dạy học, lấy vợ là Nguyễn Thị Hiệp, sinh ra Xuân Diệu tại van Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Xuân Diệu thửo nhỏ học chữ Nho và chữ quốc ngữ với cha, rồi đi học ở Quy Nhơn, trường Bưởi (Hà Nội), trường Khải Định (Huế). Năm 1940, Xuân Diệu đỗ tham tá nha Thương chính vào làm ở ty Thương chính Mỹ Tho (nay là Tiền Giang). Sau 4 năm làm công chức, Xuân Diệu thôi việc, ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ, Xuân Diệu thường nói đến tác động của thiên nhiên nơi đây (Quy Nhơn) đối với hồn thơ nồng nàn, sôi nổi của ông, đặc biệt là những ngọn gió nồm ("Quê mẹ gió nồm thổi lên tươi mát") và những con sóng biển ("Như hôn mãi ngàn năm không thỏa, Bởi yêu bở lắm lắm, em ơi!"). Người ta còn nghĩ tới một lý do khác: ông là con vợ lẽ, phải xa mẹ từ nhỏ và thường bị hắt hủị Hoàn cảnh ấy khiến ông luôn luôn khao khát tình thương và sự thông cảm của người đờị Xuân Diệu một mặt đã chịu ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa Pháp một cách có hệ thống trên ghế nhà trường, mặt khác, do xuất thân từ một gia đình nhà nho (con một ông ú kép, tức hai lần đỗ tú tài Hán học), lại tiếp thụ được một cách tự nhiên ảnh hưởng của nền văn hóa truyền thống. Vì thế có thể tìm thấy ở nhà thơ sự kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại, Đông và Tây trong tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ. Tất nhiên, Tây học vẫn có ảnh hưởng sâu đậm hơn. Ngày 18 tháng 12 năm 1985, Xuân Diệu từ trần sao một cơn đau tim đột ngột. Xuân Diệu là một tài năng nhiều mặt: làm thơ, viết văn, nghiên cứu phê bình văn học, dịch thuật. Tất nhiên, ông trước hết vẫn là một nhà thơ - một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. 23-. Xuân Quỳnh (1942-1988). Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày. Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua : DẠY TỐT - HỌC TỐT Lop6.net. 20.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×