Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Tổ chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.71 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………./…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VÕ THỊ DIỆU MAI

TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BHYT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2019


Cơng trình đƣợc hồn thành tại: PHÂN VIỆN HỌC VIỆN HÀNH
CHÍNH QUỐC GIA TẠI THÀNH PHỐ HUẾ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. VŨ ANH TUẤN

Phản biện 1: TS. Ngô Văn Trân

Phản biện 2: TS. Nguyễn Thái Sơn

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Phân


viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP Huế.
Địa điểm: Phịng B203, Nhà B - Hội trường bảo vệ luận văn
thạc sĩ, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP Huế.
Số 201 - Đường Phan Bội Châu - Phường Trường An - TP Huế
Thời gian: Ngày 20 tháng 10 năm 2019.
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Phân viện Học viện
Hành chính Quốc gia tại TP Huế hoặc trên trang Web Khoa Sau đại
học, Học viện Hành chính Quốc gia


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, Điều 34 quy
định: Công dân có quyền đảm bảo an sinh xã hội. Trong việc thực
hiện các chính sách an sinh xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng công tác bảo hiểm y tế và coi đây là trụ cột chính của hệ thống
an sinh xã hội. Chính sách bảo hiểm y tế có ảnh hưởng trực tiếp và
tác động sâu rộng đến tất cả các thành viên trong xã hội, mang ý
nghĩa nhân đạo và có tính chia sẻ cộng đồng sâu sắc góp phần quan
trọng để thực hiện mục tiêu cơng bằng xã hội trong lĩnh vực chăm
sóc y tế, là cơ chế tài chính y tế quan trọng và là cơ chế chi trả trước
được đa số các quốc gia trên thế giới áp dụng giúp người dân khi bị
ốm đau khơng bị rơi vào cảnh nghèo đói và là định hướng phát triển
trong chăm sóc sức khỏe người dân.
Nhận thức được giá trị và những ảnh hưởng tích cực đối với xã hội
do BHYT mang lại, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và chỉ đạo sâu
sát việc phát triển BHYT. Được triển khai ở Việt Nam từ năm 1992, chính
sách BHYT đã trải qua các mơ hình: quản lý BHYT theo cấp tỉnh (19921997), Bộ Y tế quản lý (1998-2003) và quản lý tập trung tại Bảo hiểm xã
hội Việt Nam từ năm 2003 đến nay. Giai đoạn 1992-2008, BHYT Việt

Nam được thực hiện theo các văn bản dưới luật của Chính phủ. Trên cơ sở
thực tiễn gần 20 năm triển khai thực hiện chính sách BHYT, năm 2008,
Quốc hội đã ban hành Luật BHYT và được sửa đổi, bổ sung ngày
13/6/2014, đánh dấu một bước quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để
nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách bảo hiểm y tế.
Sau 10 năm thi hành Luật BHYT, BHYT Việt Nam đã và đang
đạt được nhiều kết quả đáng kể. Đó là nhận thức của nhân dân và
trách nhiệm của các cấp, các ngành ngày càng được nâng cao; Công
tác tổ chức thực hiện chính sách BHYT đã có những chuyển biến rõ
nét; việc mở rộng các nhóm đối tượng tham gia BHYT, diện bao phủ
đối tượng tham gia BHYT, quyền lợi người tham gia đã được thực
hiện khá tốt, chất lượng khám chữa bệnh (KCB) từng bước được cải
thiện, người dân khi đi KCB hài lòng hơn khi được tiếp cận và chăm
sóc sức khỏe từ nguồn quỹ BHYT; nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao
với mức chi phí lớn đã được quỹ BHYT chi trả; BHYT trở thành
điểm tựa vững chắc cho người tham gia; đặc biệt, trong tình hình suy
thối kinh tế, viện phí liên tục tăng như hiện nay, việc tham gia
BHYT càng có ý nghĩa hết sức thiết thực.
Tuy nhiên, pháp luật BHYT ở nước ta là lĩnh vực khá mới, thực


2
tiễn tổ chức triển khai thực hiện Luật BHYT trong phạm vi cả nước
cũng như ở tỉnh Quảng Trị trong thời gian qua cịn gặp nhiều khó khăn,
hạn chế, đặt ra những vấn đề cần quan tâm giải quyết, đó là:
Hiện nay, nghĩa vụ tham gia BHYT đã xác định rõ ràng trong
Luật BHYT, quy định mọi đối tượng đều bắt buộc tham gia BHYT.
Tuy nhiên, thực tế trong quá trình triển khai thực hiện Luật BHYT cho
thấy, tính đến hết năm 2018, còn tới gần 11,5% dân số Việt Nam chưa
có thẻ BHYT. Trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, mặc dù tỷ lệ bao phủ đối

tượng tham gia BHYT đạt khá cao 93,4% dân số, tuy nhiên vẫn còn
nhiều đối tượng chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Công tác quản lý quỹ BHYT
cịn nhiều bất cập. Tình trạng mất cân đối quỹ BHYT ngày càng gia
tăng do tốc độ gia tăng chi phí KCB hàng năm, trong khi quỹ BHYT
tăng thấp. Vi phạm pháp luật về BHYT xảy ra ở nhiều chủ thể và ở tất
cả các khâu trong q trình thực hiện. Cơ quan BHXH chỉ có chức
năng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN, chưa có
chức năng thanh tra chi trả và hưởng chế độ BHXH, BHYT, BHTN
nên việc lạm dụng chính sách hưởng BHYT chưa được xử lý kịp thời,
nghiêm minh, dẫn đến tình trạng nợ đọng, trốn đóng và lạm dụng quỹ
BHYT ngày càng tràn lan, khó kiểm sốt và ln là vấn đề nhức nhối,
là nguyên nhân hàng đầu gây mất an toàn quỹ BHYT, làm giảm niềm
tin của người dân vào chính sách BHYT.
Để khắc phục, hạn chế, bất cập và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
trong tổ chức thực hiện Luật BHYT thì việc nghiên cứu đề tài “Tổ
chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị” là rất cần
thiết và có ý nghĩa cấp thiết để chính sách BHYT thực sự phát huy
hiệu quả, thực sự cần thiết cho người dân và đảm bảo mục tiêu an
sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài
Liên quan đến đề tài ở những phạm vi, mức độ khác nhau, có
thể nêu ra một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như:
2.1. Hồng Kiến Thiến, Tổ chức thực hiện chính sách BHYT ở
Việt Nam trong tình hình mới. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
năm 2012. Đề tài nhằm hệ thống hóa tồn bộ q trình hình thành và
phát triển chính sách BHYT ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng việc
thực hiện chính sách BHYT ở nước ta. Phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện lộ trình BHYT tồn dân. Đưa ra các giải
pháp nhằm hồn thiện chính sách BHYT ở Việt Nam và biện pháp để
thực hiện lộ trình BHYT tồn dân ở Việt Nam.

2.2. Nguyễn Minh Thảo, Đánh giá chính sách BHYT và các


3
giải pháp thực hiện lộ trình triển khai Luật BHYT. Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, năm 2010. Đề tài nhằm cung cấp các thông tin tổng
quát về thực trạng triển khai chính sách BHYT, đánh giá kết quả và
tồn tại trong tổ chức thực hiện chính sách BHYT ở Việt Nam. Phân
tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc mở rộng đối tượng, phát triển
BHYT ở nước ta. Đề xuất các giải pháp chủ yếu góp phần thực hiện
thành cơng BHYT tồn dân.
2.3. Nguyễn Thanh Hương, “Pháp luật BHYT - Thực trạng và
giải pháp”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm 2010. Đề tài đã
nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BHYT và pháp luật
BHYT. Phân tích thực trạng các quy định về pháp luật BHYT. Phân
tích, đánh giá thực trạng các quy định về pháp luật BHYT và thực tiễn
thực hiện. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế của pháp luật BHYT
hiện hành cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ. Đề xuất quan điểm và giải pháp
hoàn thiện pháp luật BHYT cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.
2.4. Phạm Lương Sơn, Thực trạng và giải pháp phòng chống
làm dụng quỹ BHYT. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm 2012.
Đề tài nhằm tổng kết một số hành vi lạm dụng chính thường thấy
trong q trình tổ chức thực hiện chính sách BHYT những năm qua
và đề xuất một số giải pháp cụ thể để từng bước khắc phục tình trạng
lạm dụng quỹ BHYT hiện nay.
2.5. Hồng Mạnh Trường, Thực hiện pháp luật về Bảo hiểm y
tế Việt Nam hiện nay. Luận văn thạc sĩ, năm 2016. Luận văn trên cơ
sở tiếp cận chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, mục
đích của đề tài là phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện
pháp luật bảo hiểm y tế, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp

nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế ở nước ta hiện nay.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã tập trung vào phân tích vị
trí, vai trị của BHYT ở cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn, đồng
thời đã đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hồn thiện chế
độ, chính sách về BHYT hiện nay.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này chưa có cơng trình nào tiếp cận
dưới góc độ tổ chức thực hiện Luật, mà mới chỉ đề cập tới từng lĩnh vực,
từng chế độ, chính sách BHYT, chưa phân tích đầy đủ những khó khăn,
vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện Luật BHYT.
Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, thực trạng
tổ chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị để thơng
qua đó đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm tính hiệu quả, hợp lý,
hợp tình của chính sách BHYT là việc làm cần thiết, có ý nghĩa thiết


4
thực về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện việc tổ chức
thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện Luật BHYT trên
địa bàn tỉnh.
- Đánh giá thực trạng, nguyên nhân, vấn đề đặt ra trong công
tác tổ chức thực hiện Luật BHYT của các chủ thể trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm tổ chức thực
hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những hoạt động về tổ
chức thực hiện Luật BHYT ở một địa phương cấp tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Số liệu
nghiên cứu được thu thập từ năm 2016-2018. Đề xuất các giải pháp
đến năm 2025.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên quan điểm duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lê nin đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước về tổ chức thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế.
- Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp.
+ Phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá.
+ Phương pháp thu thập thơng tin, quan sát, phỏng vấn chun
gia trong và ngồi ngành.
6. Dự kiến các đóng góp của Đề tài
Thơng qua nghiên cứu thực tiễn về tổ chức thực hiện Luật
BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị luận văn đề xuất một số giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHYT và tăng cường
hiệu quả thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Tài liệu tham khảo,
phần nội dung chính của luận văn có 3 chương, 10 tiểu mục.
Sau đây là nội dung chính


5
Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN CẤP TỈNH
1.1. Một số nội dung chủ yếu của Bảo hiểm y tế
1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm y tế
BHYT xã hội là một chính sách an sinh xã hội của Nhà nước mang
tính cộng đồng, chia sẻ rủi ro, trên cơ sở sự đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động và cộng đồng, có sự hỗ trợ của ngân sách nhà
nước nhằm mục đích khám, chữa bệnh khi thành viên ốm đau, bệnh tật và
khơng vì mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, khái niệm BHYT sẽ bao quát và
đảm bảo được cả 2 yếu tố, trong đó yếu tố xã hội được coi trọng. Tính xã
hội được thể hiện ở vai trò nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện dưới
hình thức hỗ trợ kinh phí đóng BHYT cho những đối tượng “yếu thế” và
vì mục tiêu an sinh xã hội, nhà nước đảm bảo trong trường hợp quỹ
BHYT mất cân đối thu chi trên phạm vi toàn quốc. Yếu tố kinh tế thể hiện
ở sự tham gia đóng góp của các thành viên.
1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm y tế
BHYT có vai trị đặc biệt, mang tính xã hội rộng rãi như sau:
Thứ nhất, BHYT chính là biện pháp để mọi người có bệnh đều
được điều trị với điều kiện họ có tham gia BHYT. Với BHYT, mọi
người sẽ được bình đẳng hơn, được điều trị theo bệnh. BHYT do Nhà
nước triển khai thực hiện mang tính xã hội và nhân đạo cao cả theo
nguyên tắc số đông bù số ít, người khỏe bù người ốm, người đóng
cao bù người đóng
Thứ hai, BHYT giúp cho người tham gia khắc phục khó khăn cũng
như ổn định về mặt tài chính khi không may gặp phải rủi ro ốm đau.
Thứ ba, BHYT ra đời cịn góp phần giáo dục cho mọi người dân
trong xã hội về tính nhân đạo theo phương châm “Lá lành đùm lá rách”.
Thứ tư, BHYT là tạo điều kiện nâng cao chất lượng KCB và
quản lý tài chính y tế thơng qua việc tạo được nguồn tài chính tập
trung cho cơng tác KCB BHYT.
Thứ năm, BHYT có tác dụng góp phần giảm nhẹ gánh nặng

cho ngân sách Nhà nước.
Thứ sáu, BHYT góp phần đề phịng và hạn chế những bệnh
hiểm nghèo theo phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.
1.2. Tổ chức thực hiện Luật Bảo hiểm y tế
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
1.2.1.1. Quan niệm về tổ chức thực hiện luật


6
Trong luận văn này, “tổ chức” được hiểu theo hai nghĩa (i) tổ
chức trên khía cạnh là các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện
luật và (ii) tổ chức được hiểu là các hoạt động nhằm triển khai, thực
hiện, đưa luật vào cuộc sống của nhân dân.
(i) Tổ chức là cơ quan tổ chức thực hiện luật
Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp pháp của Quốc hội, có nhiệm vụ
tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh,
nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ
tịch nước (Điều 96). Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành
viên Chính phủ, là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ chịu trách
nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi
hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực
trong phạm vi toàn quốc (Điều 99 [16]).
1.2.2. Yêu cầu, nguyên tắc tổ chức thực hiện Luật BHYT
1.2.3. Chủ thể tổ chức thực hiện Luật BHYT
1.2.4. Nội dung tổ chức thực hiện Luật BHYT
a) Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHYT
Trên cơ sở Luật đã được Quốc hội thông qua, Thủ tướng Chính
phủ chỉ đạo lập danh mục văn bản quy định chi tiết luật của Quốc hội

mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ được giao ban hành. Danh mục văn bản quy định chi tiết do
Thủ tướng Chính phủ ban hành gồm nghị định của Chính phủ, nghị
quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đồn Chủ tịch UB trung ương
MTTQ Việt Nam, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thơng tư của
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, trong đó nêu rõ tên văn bản,
cơ quan ban hành văn bản, căn cứ ban hành, nội dung chính của văn bản,
dự kiến thời gian ban hành (Điều 82, [19]).
b) Phổ biến, giáo dục về Luật BHYT nhằm truyền đạt tinh
thần, nội dung pháp luật giúp cho đối tượng tác động hiểu và hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi
hỏi của các quy định pháp luật hiện hành [14, tr. 4].
Phổ biến, giáo dục luật giữ vai trò quan trọng trong hầu hết các
hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phịng của đất nước. Mục
đích của PBGDPL là nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành
pháp luật của người dân, đơn vị, tổ chức trong toàn xã hội, góp phần
đưa pháp luật vào cuộc sống của người dân, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, mang lại


7
sự hạnh phúc cho người dân.
c) Thực hiện các hoạt động nghiệp vụ, kỹ thuật
Sau khi Quốc hội ban hành luật, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ có trách
nhiệm ban hành các Nghị định, Quyết định và Thông tư hướng dẫn
thi hành luật; UBND các cấp trực tiếp tổ chức thực hiện luật. Để
một bộ luật đi vào cuộc sống của người dân, các cơ quan chức năng
sẽ thực hiện nhiều hoạt động nghiệp vụ, kỹ thuật khác nhau, như chỉ
đạo, hướng dẫn thực hiện luật, lập kế hoạch, phân công thực hiện và

tổ chức triển khai thực hiện luật.
d) Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Luật BHYT
Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân 2015, Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị
cơ quan có thẩm quyền xử lý (khoản 1, Điều 2 [21]).
1.3. Một số nhân tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện Luật BHYT
1.3.1. Mức độ hồn thiện của pháp luật về BHYT nói riêng và của
cả hệ thống pháp luật nói chung
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối
quan hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế
định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do
nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất
định [31, tr. 199]. Để đánh giá về một hệ thống pháp luật, xác định
mức độ hoàn thiện của nó cần phải dựa vào những tiêu chuẩn được
xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh
thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một cách khách quan và
rút ra những kết luận, làm sáng rõ những ưu điểm và nhược điểm của
hệ thống pháp luật. Có nhiều tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn
thiện của một hệ thống pháp luật trong đó có bốn tiêu chuẩn cơ bản
là: Tính tồn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật
pháp lý của hệ thống pháp luật [31, tr. 201].
1.3.2. Tổ chức bộ máy và nguồn lực
Cơ quan tổ chức chính quyền của nhà nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được triển khai từ Trung ương xuống đến địa
phương. Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của Chính phủ. Cơ quan hành chính
trực thuộc Chính phủ là các tỉnh, thành phố trực thuộc TW (cấp tỉnh),



8
dưới tỉnh là cơ quan hành chính cấp huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh (cấp huyện), dưới huyện là cơ quan hành chính cấp
xã, phường, thị trấn.
1.3.3. Ý thức pháp luật của các bên tham gia
Ý thức pháp luật là nhân tố không thể thiếu trong đời sống
pháp luật của xã hội ở tất cả các giai đoạn phát triển của nó, nhất là từ
khi xuất hiện nhà nước pháp quyền. Ý thức pháp luật có vai trị quan
trọng trong q trình xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật;
đồng thời quyết định hiệu quả của việc thực hiện pháp luật, góp phần
đưa pháp luật vào cuộc sống ([12] tr.1).
1.3.4. Sự kiểm sốt q trình tổ chức thực hiện Luật
Kiểm sốt q trình tổ chức thực hiện luật là toàn bộ những
hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá, những biện pháp mà thơng
qua đó có thể ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai
trái của cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức thực hiện
luật, bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện luật là đúng mục đích và đạt
được hiệu quả cao nhất có thể.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Tại chương 1, luận văn đã trình bày khái niệm, vai trị BHYT,
khái niệm, đặc điểm tổ chức thực hiện luật, các mục đích, yêu cầu và
nguyên tắc tổ chức thực hiện luật; nghiên cứu này cũng đã giới thiệu
được các chủ thể bắt buộc và chủ thể tham tra trong tổ chức thực hiện
luật; nghiên cứu này cũng đã trình bày được quá trình ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành luật, công tác phổ biến giáo dục pháp luật, các
nghiệp vụ, hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện
luật. Đồng thời, nghiên cứu này cũng đã xác định được các yếu tố tác
động đến việc tổ chức thực hiện luật, cụ thể là mức độ hoàn thiện luật, tổ

chức bộ máy và nguồn lực, ý thức pháp luật của các bên liên quan, và sự
kiểm sốt q trình tổ chức thực hiện luật. Đây là cơ sở lý luận để khảo
sát, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện Luật BHYT trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị trong thời gian qua.


9
Chƣơng 2:
TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BHYT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG TRỊ: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Một số thuận lợi và khó khăn trong tổ chức thực hiện Luật
BHYT:
2.1.1. Thuận lợi (tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa)
Quảng Trị có lợi thế về địa lý - kinh tế, là đầu mối giao thông,
nằm ở trung điểm đất nước, ở vị trí quan trọng - điểm đầu trên tuyến
đường huyết mạch chính của hành lang kinh tế Đông - Tây nối với
Lào - Thái Lan - Mianmar qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến các
cảng biển Miền Trung như: Cửa Việt, Chân Mây, Đà Nẵng, Vũng
Áng... Đây là điều kiện rất thuận lợi để Quảng Trị mở rộng hợp tác
kinh tế trong khu vực, giao thương hàng hóa, vận tải quốc tế, phát
triển thương mại, dịch vụ và du lịch.
Những lợi thế về vị trí địa lý - kinh tế và tiềm lực kinh tế đã
đạt được đang tạo cho Quảng Trị một nền tảng rất cơ bản để có thể
tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác kinh tế trong nước và tăng
cường liên kết, hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, đẩy
nhanh hơn nữa phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới.
2.1.2. Khó khăn:
Nhìn chung với các điều kiện về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội thì Quảng Trị là một tỉnh rất khó khăn, tăng trưởng kinh tế cịn
chậm lại chưa gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tốc độ đơ thị

hóa, phát triển các ngành nghề, cơng nghiệp, dịch vụ cịn chậm đã
ảnh hưởng trực tiếp, khơng thuận lợi đến đời sống người dân nói
chung và việc thực hiện chính sách BHYT, chăm sóc sức khỏe cho
người dân trên địa bàn nói riêng.
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện Luật BHYT ở tỉnh Quảng Trị
hiện nay
Tính đến nay, cơ quan BHXH tỉnh Quảng Trị có 249 cơng chức,
viên chức và lao động (tính đến hết 31/12/2018). Trong đó công chức
gồm 3 người chiếm tỷ lệ 1,2%, viên chức 198 người chiếm tỷ lệ 79,5%,
lao động (bao gồm lao động hợp đồng 68 và lao động hợp đồng tạm
tuyển) 48 người chiếm tỷ lệ 19,3%. Về trình độ chuyên môn: Thạc sỹ:
07 người, chiếm tỷ lệ 3,1%; Đại học: 206 người, chiếm tỷ lệ 91,1%;
Cao đẳng: 03 người, chiếm tỷ lệ 1,3 %; Trung cấp: 08 người, chiếm tỷ lệ
3,6%; Khác: 02 người, chiếm tỷ lệ 0.9 %


10
Có thể khái quát và đánh giá hoạt động tổ chức thực hiện Luật
BHYT trong thời gian qua ở tỉnh Quảng Trị trên các phương diện chủ
yếu sau đây:
2.2.1. Ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện Luật BHYT
và các văn bản pháp luật có liên quan
a) Kết quả
- Việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHYT tương
đối kịp thời, có tính khả thi và đáp ứng yêu cầu của nhân dân.
Thời gian qua Bộ Chính trị đã ban hành các văn bản chỉ đạo về
công tác BHYT như: Chỉ thị 38-CT/TW về “Đẩy mạnh cơng tác bảo
hiểm y tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 2020. Các bộ, ngành đã phối hợp xây dựng và ban hành theo thẩm
quyền các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật BHYT, tổ chức chỉ đạo và

triển khai thực hiện các quy định đem lại những kết quả ban đầu rất quan
trọng. Các văn bản quy phạm pháp luật gồm Nghị định 146/2018/NĐCP hướng dẫn Luật BHYT; Nghị định số 92/2011/NĐ-CP ngày
17/10/2011 của Chính phủ về việc quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BHYT có hiệu lực kể từ ngày 01/12/2011; Quyết
định 538/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y
tế toàn dân giai đoạn 2012 - 2015 và 2020; Quyết định 1584/QĐ-TTg
năm 2015 về giao chỉ tiêu thực hiện BHYT giai đoạn 2015 - 2020 v.v...
Tại địa phương, Thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 2020”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số
70-CTHĐ/TU ngày 02/7/2013 về thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW.
Đồng thời, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 3491/KH-UBND ngày
21/10/2013 về việc triển khai thực hiện Chương trình hành động số 70CTHĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết 21NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020 với mục
tiêu đến năm 2015: Phấn đấu có 80% dân số tham gia BHYT và đến
năm 2020 phấn đấu có 90% dân số tham gia BHYT.
b) Hạn chế
- Luật BHYT còn một số quy định bất cập, hạn chế; các văn
bản hướng dẫn còn thiếu cụ thể, chưa theo kịp với thực tiễn:


11
- Pháp luật BHYT chưa có quy định chặt chẽ và địa phương
chưa có biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát quỹ khám chữa bệnh
BHYT chống lạm dụng, trục lợi, thất thốt lãng phí.
- Các văn bản do địa phương ban hành chưa quy định cụ thể
trách nhiệm của các Sở, ban, ngành và UBND huyện trong việc thực
hiện BHYT cho người dân.
2.2.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật BHYT
a) Kết quả

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật BHYT đã đa
dạng về hình thức, đặc biệt chú trọng tuyên tuyền trực tiếp về tận cơ
sở xã, phường, tới từng nhóm đối tượng:
Từ năm 2016 đến 2018, Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Trị đã tổ
chức, thực hiện được nhiều chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về BHXH, BHYT, (Theo Báo cáo kết quả 5 năm thực
hiện công tác tuyên truyền thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính Trị [9], cụ thể như: Tuyên truyền qua các
phương tiện thông tin đại chúng, Tuyên truyền qua tài liệu, Tuyên
truyền qua hội nghị, hội thảo, tập huấn, Tổ chức đối thoại với doanh
nghiệp, Tuyên truyền trực tiếp theo từng nhóm đối tượng.
- Các nội dung tuyên truyền đảm bảo đúng định hướng,
trọng tâm, trọng điểm:
Tuyên truyền để các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương,
các cơ quan, tổ chức, đồn thể và mọi người dân, doanh nghiệp hiểu
rõ về ý nghĩa, tầm quan trọng, quyền lợi của mỗi người tham gia
BHYT; những điểm mới của Luật BHYT và Luật sửa đổi, bổ sung
của Luật BHYT; vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác BHYT theo tinh thần Nghị quyết
21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính Trị về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 2020”; công tác triển khai BHYT học sinh, sinh viên; BHYT hộ gia
đình; vấn đề gia tăng giá dịch vụ y tế; thông tuyến khám chữa bệnh
BHYT; lạm dụng trục lợi quỹ BHYT...
b) Hạn chế
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về BHYT
hiệu quả chưa cao.
Mặc dù đã tổ chức tuyên truyền bằng nhiều hình thức, chuyển
tải các nội dung cơ bản của Luật BHYT đến mọi người dân, nhưng
người dân vẫn chưa hiểu đầy đủ những quy định của Luật BHYT.
Doanh nghiệp thì ln có xu hướng trốn đóng BHYT hoặc cố tình



12
đưa người thân mắc bệnh nặng nhưng không tham gia quan hệ lao
động với doanh nghiệp vào danh sách lao động đăng ký tham gia
BHYT; bệnh viện chỉ định quá mức cần thiết BHYT tràn lan; người
lao động thiếu kiến thức hiểu biết về pháp luật BHYT để bảo vệ
quyền hưởng BHYT khi người sử dụng lao động khơng đóng BHYT
cho mình; người dân do chưa nhận thức đầy đủ về giá trị và vai trị
của BHYT nên chưa tích cực tham gia BHYT mặc dù đã được ngân
sách nhà nước hỗ trợ kinh phí đóng BHYT từ 30% đến 70%.
2.2.3. Thực hiện các hoạt động nghiệp vụ, kỹ thuật
a) Kết quả
- Cấp ủy, chính quyền địa phương và BHXH tỉnh đã nghiêm
túc triển khai thực hiện các văn bản của Đảng, pháp luật về BHYT.
Ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, xây dựng kế hoạch, phân
công thực hiện và tổ chức triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời:
Để các chính sách BHYT được triển khai đồng bộ và có hiệu
quả trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo cho các sở, ban, ngành, đoàn thể tổ chức triển khai thực
hiện pháp luật BHYT. Tại Kế hoạch số 3491/KH-UBND ngày
21/10/2013, UBND tỉnh đã giao nhiệm vụ cho 18 Sở, ban, ngành cùng
phối hợp tổ chức thực hiện tốt Chương trình hành động số 70CTHĐ/TU ngày 02/7/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XV thực
hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ Chính Trị khóa XI về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT đến năm 2020,
Ngay từ khi Luật BHYT có hiệu lực thi hành, BHXH tỉnh đã tập
trung công tác phát triển đối tượng, tăng cường kiểm tra, phối hợp với
các cơ quan chức năng ở địa phương nhằm khai thác tối đa số người
trong diện tham gia BHYT theo quy định. Chính vì lẽ đó mà trong giai
đoạn này kết quả phát triển đối tượng tham gia BHYT của tỉnh có chiều

hướng phát triển tích cực. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế so với dân số tồn
tỉnh ln vượt chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số
1167/QĐ-TTg [28]. Năm 2016, số đối tượng tham gia BHYT là 540.795
người, đạt tỷ lệ bao phủ 86,3% dân số, chỉ tiêu Chính phủ giao là 81,2%
(dân số của tỉnh theo Niên giám thống kê năm 2016 là 626.563 người).
Năm 2017, số đối tượng tham gia BHYT là 580.797 người, đạt tỷ lệ bao
phủ 92,8% dân số, chỉ tiêu Chính phủ giao là 83,6% (dân số theo Niên
giám thống kê năm 2017 là 626.129 người). Năm 2018, số đối tượng
tham gia BHYT là 587.436 người, đạt tỷ lệ bao phủ 93,4% dân số, chỉ
tiêu Chính phủ giao là 85,8% dân số (dân số theo Niên giám thống kê
năm 2018 là 587.436 người).


13
b) Hạn chế
- Trong công tác chỉ đạo, điều hành một số cấp ủy, chính
quyền tại một số địa phương trong tỉnh chưa xác định rõ vai trò, trách
nhiệm, chưa thực sự quan tâm, sâu sát trong việc chỉ đạo thực hiện
Luật BHYT tại địa phương.
- Tỷ lệ các đối tượng tham gia BHYT chưa đầy đủ, tính tuân
thủ pháp luật BHYT chưa cao.
Với tỷ lệ bao phủ hiện nay là 93,5% dân số, như vậy vẫn còn
gần 6,5% dân số (tương đương 38.183 người) trên địa bàn chưa tham
gia BHYT. Đây là số theo quy định của Luật BHYT là phải tham gia
nhưng chưa tham gia. Theo quy định của Luật BHYT, kể từ ngày
01/01/2014 tất cả các đối tượng đều là đối tượng bắt buộc tham gia
BHYT, tuy nhiên đến tại thời điểm 31/12/2018 vẫn còn nhiều đối
tượng chưa đạt tỷ lệ tham gia 100%.
- Tỷ lệ tham gia BHYT ở tỉnh hiện nay tuy cao, nhưng chưa
bền vững vì đối tượng tham gia BHYT phần lớn do ngân sách nhà

nước đóng BHYT vẫn là chủ yếu.
- Bội chi quỹ BHYT ngày càng gia tăng và khó kiểm soát,
nguy cơ mất cân đối quỹ BHYT trong dài hạn.
- Quyền lợi của người tham gia BHYT chưa được đảm bảo
triệt để.
2.2.4. Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Luật BHYT
a) Kết quả
Công tác kiểm tra, giám sát ln được BHXH tỉnh Quảng Trị
chú trọng trong q trình tổ chức thực hiện pháp luật BHYT, ngoài
các đợt kiểm tra, giám sát chuyên ngành, BHXH tỉnh Quảng Trị còn
phối hợp với các sở, ban, ngành và đoàn thể của tỉnh tổ chức thực
hiện nhiều đợt kiểm tra, mang lại nhiều kết quả tích cực (Báo cáo
tổng hợp kết quả thanh tra, kiểm tra năm 2018, số 1722/BC-BHXH,
ngày 26/12/2018 của BHXH tỉnh Quảng Trị) [5].
Qua công tác kiểm tra, BHXH tỉnh đã xử lý thu hồi, nộp quỹ
BHXH, BHTN, BHYT số tiền nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT tại
22 đơn vị SDLĐ, với số tiền trên 3,79 tỷ/3,8 tỷ (đạt 99% so với
tổng số tiền nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT); Xử lý truy thu
BHXH, BHTN, BHYT đối với 154 người lao động tại 75 đơn vị
SDLĐ, với tổng số tiền trên 1.383 triệu đồng (Trong đó: số tiền
phải truy đóng là: 1.222 triệu đồng; số tiền lãi chậm đóng là: 160
triệu đồng). Yêu cầu 04 đơn vị SDLĐ điều chỉnh giảm đóng
BHXH, BHYT đối với 06 lao động đã nghỉ việc không hưởng


14
lương tại đơn vị với số tiền trên 30 triệu đồng. Xử lý thu hồi, nộp
quỹ BHXH, BHYT tại các đơn vị được kiểm tra do chi trả sai chế
độ quy định với tổng số tiền là 925 triệu đồng.
b) Hạn chế

Cơ quan BHXH gặp nhiều khó khăn trong cơng tác thanh tra,
xử l hành vi vi phạm và giải quyết tố cáo để đảm bảo nghiêm minh
pháp luật, đúng chế độ, chính sách và quyền lợi cho đối tượng, người
lao động về chế độ chính sách BHYT.
Theo pháp luật BHYT hiện hành, Bảo hiểm xã hội Việt Nam là
cơ quan tổ chức thực hiện BHYT nhưng chỉ có chức năng thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN, chưa có chức năng thanh
tra chi trả và hưởng chế độ BHXH, BHYT, BHTN nên việc lạm dụng
chính sách hưởng BHYT chưa được xử lý kịp thời, nghiêm minh, dẫn
đến tình trạng nợ đọng, trốn đóng và lạm dụng quỹ BHYT ngày càng
tràn lan, khó kiểm sốt và ln là vấn đề nhức nhối, là nguyên nhân
hàng đầu gây mất an toàn quỹ BHYT, làm giảm niềm tin của người
dân vào chính sách BHYT. Thanh tra Y tế thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành về BHYT [23, Điều 46]. Tuy nhiên, trong thực tế
do lực lượng thanh tra của Sở Y tế (cơ quan quản lý nhà nước về
BHYT ở tỉnh) còn hạn chế về số lượng thanh tra viên, các cơ sở KCB
BHYT trực thuộc Sở Y tế nên việc thực hiện chức năng thanh tra nhà
nước về BHYT còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
2.3. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra
2.3.1. Nguyên nhân của kết quả
- Chính sách BHYT ngày càng được Đảng và Nhà nước quan
tâm. Việc Bộ chính trị ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai
đoạn 2012 - 2020, đánh dấu mốc quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu an sinh xã hội. Đó là chủ trương lớn của Đảng, hợp lòng dân,
làm thay đổi và chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của cán bộ, đảng
viên, các cấp, các ngành cũng như người dân trong việc thực hiện
chính sách BHXH, BHYT.
- Lãnh đạo của BHXH Việt Nam, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân,
UBND tỉnh đã có sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt để triển khai thực hiện

Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ Chính trị. Các Sở, ban, ngành và các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã có sự phối hợp chặt chẽ với
cơ quan BHXH trong việc tổ chức thực hiện chế độ, chính sách
BHYT cho người lao động và nhân dân trên địa bàn.


15
- Nhận thức của các cấp ủy Đảng, cán bộ, người dân, người lao
động về chính sách BHYT được nâng lên rõ rệt. Nhiều cấp ủy, chính
quyền đã nâng cao trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, vận
động nhân dân; chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác
BHYT. Nhận thức của xã hội ngày càng đầy đủ hơn quyền lợi, nghĩa
vụ và trách nhiệm trong tham gia BHYT; vai trò ý nghĩa của việc
tham gia BHYT đối với sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân, hướng tới BHYT toàn dân.
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
2.3.2.1 Ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện Luật
BHYT và các văn bản pháp luật có liên quan
Về việc chưa thống nhất trong việc ban hành văn bản hướng
dẫn thực hiện 03 phương thức thanh toán theo quy định của Luật
BHYT: Với ba phương thức thanh tốn chi phí khám chữa bệnh
BHYT mà Luật quy định, mới chỉ đã và đang thực hiện phương thức
thanh tốn theo giá dịch vụ, cịn lại hai phương thức thanh toán là
khoán định suất và thanh toán theo ca bệnh mới thực hiện thí điểm và
đang trong quá trình nghiên cứu. Cơ quan bảo hiểm xã hội phải lựa
chọn một phương thức để thực hiện thanh toán chi phí KCB cho
người có thẻ BHYT với cơ sở KCB là nơi cung cấp các dịch vụ kỹ
thuật y tế, thuốc, hóa chất và vật tư thiết bị y tế cho người bệnh
BHYT. Ðể việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật
BHYT, nhất là văn bản hướng dẫn phương thức thanh tốn chi phí

KCB BHYT sát thực tế khách quan, nhằm bảo đảm quyền lợi cho
người có thẻ BHYT, quyền lợi của các cơ sở KCB và bảo đảm cân
đối quỹ BHYT, cần nghiên cứu kỹ về ý nghĩa, mục đích và các
phương thức thanh tốn của BHYT.
- Về việc các địa phương chưa có biện pháp hữu hiệu nhằm
kiểm soát quỹ khám chữa bệnh BHYT chống lạm dụng, trục lợi, thất
thốt lãng phí, chưa ban hành chưa quy định cụ thể trách nhiệm của
các Sở, ban, ngành và UBND huyện trong việc thực hiện BHYT cho
người dân do một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa thực
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Luật BHYT; nhận thức chưa
đầy đủ về BHYT, có lúc có nơi coi việc phát triển BHYT là trách
nhiệm của riêng ngành BHXH.
2.3.2.2 Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật BHYT
- Đội ngũ làm công tác tuyên truyền của BHXH tỉnh còn
mỏng, hầu hết là kiêm nhiệm, chưa có tính chun nghiệp và thường
xun thay đổi đã ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tuyên truyền.


16
- Trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách,
pháp luật về BHYT là của cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, Cấp ủy,
chính quyền địa phương chưa phát huy hết vai trị, trách nhiệm của
mình. Các sở, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự chủ
động, thiếu tích cực trong phối hợp với cơ quan BHXH để thực hiện
tuyên truyền.
- Còn nhiều người dân ở các vùng nơng thơn, miền núi chưa có
điều kiện tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng, các cộng tác
viên tuyên truyền để được tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính
sách BHYT.
2.3.2.3 Thực hiện các hoạt động nghiệp vụ, kỹ thuật

Tỷ lệ các đối tượng tham gia BHYT chưa đầy đủ do còn thiếu
những giải pháp mở rộng bao phủ BHYT cho các nhóm đối tượng.
Chủ sử dụng lao động không kê khai danh sách số lao động, với lý do
đơn vị mới thành lập, chưa tuyển dụng được lao động, nhân viên chỉ
làm việc theo chế độ thử việc, hợp đồng vụ việc... hoặc chủ sử dụng
lao động trì hỗn tham gia BHYT. Mức đóng BHYT học sinh, sinh
viên mặc dù đã được Nhà nước hỗ trợ 30%, tuy nhiên số tiền đóng
BHYT vẫn cịn cao trong lúc hoàn cảnh kinh tế của người dân trên
địa bàn cịn khó khăn, đặc biệt có 2 huyện miền núi là Đakrơng,
Hướng Hóa với 18 xã biên giới, trình độ dân trí cịn thấp, nhiều gia
đình đơng con khơng đủ điều kiện để tham gia. Do địa bàn tỉnh
Quảng Trị là tỉnh kinh tế - xã hội còn thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, chiếm
tới 24% dân số. Tỉ lệ các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 9% tổng dân
số. Đa số những hộ gia đình đều có thu nhập thấp, cuộc sống cịn
nhiều khó khăn; bên cạnh đó nhận thức của nhân dân ở các địa bàn
vùng miền núi về quyền, nghĩa vụ tham gia BHYT nói chung cịn
nhiều hạn chế, nên cơng tác vận động cịn gặp rất nhiều khó khăn. Do
đó, vẫn cịn có nhiều hộ gia đình chưa tham gia BHYT nhất là những
hộ gia đình dân tộc thiểu số vừa thốt khỏi vùng khó khăn theo Quyết
định số 1049/QĐ-TTg, ngày 26/6/2014 và Quyết định số
30/2012/QĐ-TTg ngày 18/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Với các
đối tượng được hỗ trợ một phần mức đóng BHYT như hộ gia đình
cận nghèo là 70%, học sinh, sinh viên là 30% được xem là còn thấp
so với điều kiện kinh tế của họ.
Việc chấp hành pháp luật BHYT chưa cao, cịn tình trạng nợ
đọng, trốn đóng BHYT cho người lao động. Do quy định lãi nộp phạt
chậm đóng thấp hơn lãi vay ngân hàng nên nhiều doanh nghiệp
chiếm dụng quỹ BHYT, chây ì, chờ đến cuối năm mới nộp.



17
Tỷ lệ tham gia BHYT ở tỉnh hiện nay tuy cao, nhưng chưa bền
vững vì đối tượng tham gia BHYT phần lớn do ngân sách nhà nước
đóng BHYT vẫn là chủ yếu. Với điều kiện kinh tế xã hội ngày tăng,
tiêu chuẩn hộ gia đình nghèo, cận nghèo ngày càng nâng lên, vì vậy
đối tượng được hỗ trợ đóng sẽ ngày càng giảm.
Việc bội chi quỹ BHYT do số lượng người tham gia BHYT tăng
dẫn đến số lượt KCB BHYT tăng; việc kiểm sốt chi phí KCB BHYT cịn
nhiều khoảng trống. Danh mục thuốc, vật tư y tế tiêu hao, vật tư thay thế
được mở rộng, giá viện phí được tính đúng, tính đủ, bệnh viện được giao
quyền tự chủ; quy định về thông tuyến trong khám chữa bệnh; đặc biệt là
tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ KCB BHYT dưới nhiều hình thức khác
nhau như chỉ định xét nghiệm, chẩn đốn hình ảnh rộng rãi, q mức cần
thiết, khơng phù hợp với chẩn đoán bệnh; đề nghị vật tư y tế cịn tình trạng
áp giá sai với giá thương thảo, giá trúng thầu; áp sai giá dịch vụ kỹ thuật,
thống kê tổng hợp sai quy định, chênh lệch giữa đề nghị thanh toán dịch
vụ kỹ thuật và báo cáo xuất nhập tồn vật tư - hóa chất...
2.3.2.4 Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Luật BHYT
Chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật về BHYT hiện nay chưa
hữu hiệu; Quy định của Luật BHYT về “trách nhiệm tham gia”chưa đủ
mạnh dẫn đến một số đối tượng như học sinh, sinh viên, người thuộc hộ gia
đình cận nghèo tham gia BHYT vẫn chủ yếu thông qua vận động. Cơ quan
BHXH khơng có chức năng thanh tra, xử lý những hành vi vi phạm pháp
luật mà phải thông qua các cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan chức
năng cho nên số vụ việc được thanh tra, xử lý cịn ít. Bên cạnh đó, lực lượng
thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước hiện đang có số lượng rất hạn
chế và phải đảm đương nhiều chức năng thanh tra khác nhau (thanh tra về
tuân thủ thực hiện luật BHYT do thanh tra Sở LĐTB - XH đảm nhiệm;
thanh tra về chuyên môn y dược do Sở Y tế thực hiện), nên thời gian xử lý
các vụ việc thanh tra thường kéo dài và kém hiệu lực.

2.3.3. Vấn đề đặt ra
Mặc dù mức đóng BHYT đã được nâng lên nhưng vẫn còn thấp
hơn so với nhu cầu KCB của người dân, trong khi khả năng tăng mức
đóng BHYT cịn rất hạn chế, thì mức độ gia tăng chi phí y tế do già hóa
dân số, do thay đổi cơ cấu bệnh tật, do nhu cầu KCB ngày càng lớn và
do ứng dụng các tiến bộ khoa học cơng nghệ trong chẩn đốn, điều trị
ngày càng nhanh hơn. Nếu không giải quyết được mâu thuẫn giữa mức
phí thấp và chi phí y tế bình qn đầu người cao thì việc bao phủ
BHYT tồn dân sẽ mới chỉ đạt được chiều rộng mà chưa đạt được chiều
sâu, hay nói cách khác, mới chỉ là trên danh nghĩa.


18
Cơ chế thanh tốn theo phí dịch vụ hiện nay đang tiềm ẩn những
nguy cơ bội chi chi phí khám chữa bệnh, đặc biệt khi chính sách BHYT
cịn xây dựng trên quan điểm nặng về bảo trợ xã hội (mức hưởng khơng
tương xứng với mức đóng và tốc độ phát triển kinh tế xã hội chung của
đất nước). Bên cạnh đó có thể nói cơ chế tự chủ của bệnh viện theo nghị
định 43 của Chính phủ cũng sẽ tác động không nhỏ đến việc phối hợp
thực hiện giữa cơ quan BHXH và cơ sở KCB.
Một thách thức nữa là khả năng đáp ứng của hệ thống cung
ứng dịch vụ y tế. Kinh nghiệm thế giới cho thấy bao phủ BHYT tồn
dân ln dẫn tới tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế. Mặc dù đã có những
nỗ lực rất lớn của Nhà nước, nhưng năng lực hiện nay của hệ thống cung
ứng dịch vụ y tế đang thấp hơn so với nhu cầu thực tế. Số cán bộ y tế và
số giường bệnh trên đầu dân còn thấp hơn so với các chỉ số tối thiểu cần
có của WHO, trang thiết bị tại y tế cơ sở còn nghèo nàn.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Trong chương 2, luận văn đã khái quát hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, đánh giá kết quả

đạt được, những hạn chế và các nguyên nhân của những kết quả, hạn
chế trong việc tổ chức thực hiện luật BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng
Trị. Kết quả của chương này sẽ là tiền đề cho chương 3: xác định các
quan điểm, mục tiêu, phương hướng và giải pháp bảo đảm tổ chức
thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Chƣơng 3:
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP
BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BHYT TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm, mục tiêu đến năm 2025
3.1.1 Quan điểm
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII của
Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển và nâng cao chất lượng bảo
hiểm y tế; xây dựng và thực hiện tốt lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế
tồn dân; phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện, bảo
hiểm y tế cộng đồng. Mở rộng diện các cơ sở y tế cơng lập và ngồi
cơng lập khám bệnh, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Hạn chế và giảm
dần hình thức thanh tốn viện phí trực tiếp từ người bệnh. Đổi mới
phương thức thanh tốn viện phí qua Quỹ bảo hiểm y tế”.
Như vậy, quan điểm của Đảng ta về BHYT khẳng định nhất
quán mục tiêu từng bước tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
3.1.2 Mục tiêu


19
- Mục tiêu chung
i) Tăng tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế: Tiếp tục duy trì các
nhóm đối tượng đã tham gia bảo hiểm y tế đạt tỷ lệ 100%; mở rộng các
nhóm đối tượng để đến năm 2015 đạt tỷ lệ trên 70% dân số tham gia bảo
hiểm y tế, đến năm 2020 có trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế, đến

năm 2025 có trên 95% dân số tham gia bảo hiểm y tế.
ii) Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, bảo đảm
quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật,
đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế.
iii) Từng bước đổi mới cơ chế tài chính theo hướng đầu tư trực
tiếp cho người thụ hưởng dịch vụ y tế thơng qua hình thức hỗ trợ tham
gia bảo hiểm y tế, bảo đảm cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm y tế, phấn đấu
giảm tỷ lệ chi trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho y tế cịn 35%[27].
- Mục tiêu cụ thể của tỉnh Quảng Trị:
Thực hiện BHYT toàn dân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai đoạn
2017-2025; trong đó, đặc biệt lưu ý đến đối tượng thuộc hộ gia đình cận
nghèo; hộ gia đình nơng lâm ngư, diêm nghiệp và hộ gia đình làm kinh
tế cá thể tham gia BHYT theo Luật. Xác định mức sống trung bình để có
phương án hỗ trợ người dân tham gia theo quy định.
Trong đó xây dựng mục tiêu cụ thể giai đoạn từ năm 2017 đến
năm 2025, duy trì các mục tiêu đã đạt của giai đoạn 2016, tiếp tục
phát triển Bảo hiểm Y tế các nhóm đối tượng đến năm 2025 có 100%
dân số tham gia BHYT [34].
3.2. Phƣơng hƣớng
3.2.1. Tăng tỷ lệ bao phủ BHYT, hoàn thành các chỉ tiêu của
Thủ tướng Chính phủ giao đến năm 2020 và hồn thành mục tiêu
BHYT toàn dân năm 2025.
3.2.2. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
BHYT.
3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật
BHYT tại các doanh nghiệp, cơ sở KCB BHYT.
3.2.5. Xây dựng các giải pháp nhằm đảm bảo cân đối và bảo
toàn quỹ BHYT.
3.3. Giải pháp chủ yếu

3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn
thi hành
- Sửa đổi Điều 46 Luật BHYT, trong đó giao thẩm quyền
thanh tra chuyên ngành cho cơ quan BHXH để phù hợp với tình hình


20
thực tế. Hiện nay, Chính phủ đã giao chức năng thanh tra chuyên
ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT cho cơ quan BHXH tại Nghị
định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016. Điều đó đã phát huy hiệu
quả và được coi là “công cụ” hữu hiệu giúp ngành BHXH thực hiện
tốt chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN.
- Sửa đổi Khoản 1, Điều 12 Luật BHYT về đối tượng tham gia
BHYT: Bổ sung đối tượng làm việc theo hợp đồng lao động có thời
hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng nhằm ngăn chặn việc trốn đóng
BHXH, BHYT của các doanh nghiệp.
- Sửa đổi Điều 8 về mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, trong đó,
quy định mức hỗ trợ cho đối tượng học sinh, sinh viên từ 30% lên 50%.
Bởi đây là đối tượng ít bệnh tật nhất, mức chi phí KCB cũng khơng cao
như đối tượng khác. Đối tượng hộ cận nghèo cũng nâng mức hỗ trợ từ
70% lên 100% vì thực tế có những hộ khơng có sổ hộ nghèo nhưng thực
sự rất khó khăn, khơng có điều kiện để mua thẻ BHYT.
- Sửa đổi Điều 16 về trách nhiệm của Bộ Y tế, trong đó chuyển
phần trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về
BHYT sang cho tổ chức bảo hiểm y tế. Để tổ chức bảo hiểm y tế chủ
động và phát huy được hiệu quả công tác tuyên truyền.
- Bổ sung quy định chế tài xử lý vi phạm trong Luật BHYT.
Luật BHYT cần được bổ sung các quy định làm rõ hành vi vi phạm
và chế tài áp dụng thật nghiêm khắc. Ngoài trách nhiệm bồi thường
thiệt hại gây ra cho quỹ BHYT, quyền và lợi ích chính đáng của

người thụ hưởng BHYT, cần quy định thêm các hình thức phạt
nghiêm khắc khác như: tước giấy phép hành nghề đối với các cơ sở
khám chữa bệnh, các bác sỹ, dược sỹ vi phạm pháp luật và quy tắc
đạo đức nghề nghiệp; tạm đình chỉ hoặc thậm chí chấm dứt hoạt động
đối với doanh nghiệp cố tình trốn đóng BHYT cho người lao động.
- Hoàn thiện Đề án thực hiện BHYT toàn dân: Theo đó, việc thực
hiện BHYT tồn dân cần phải thực hiện đồng bộ cả 3 nội dung cơ bản
là: (i) Phát triển đối tượng tham gia BHYT, tăng nhanh độ bao phủ
BHYT; (ii) nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ y tế đảm bảo sự cơng
bằng trong chăm sóc y tế và giảm khoảng cách về chất lượng DVYT
giữa các tuyến; (iii) Đổi mới và hoàn thiện cơ chế tài chính cho y tế nói
chung, phương thức thanh tốn chi trả chi phí KCB BHYT nói riêng.
- Bộ Y tế ban hành phác đồ điều trị chuẩn làm cơ sở để các cơ sở
KCB thực hiện, đồng thời cũng làm căn cứ để cơ quan BHXH giám
định, đánh giá tính hợp lý của chỉ định điều trị bệnh tại các cơ sở KCB.


21
- Bộ Y tế và BHXH Việt Nam cần thống nhất quy định về
phương thức thanh tốn chi phí KCB BHYT. Để việc quản lý quỹ
BHYT hiệu quả, cần giao cho BHXH tỉnh phối hợp với Sở Y tế lựa
chọn phương thức thanh toán phù hợp với điều kiện của địa phương.
3.3.2. Nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục Luật BHYT
- BHXH tỉnh chủ động tham mưu với Tỉnh ủy, HĐND, UBND
tỉnh chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, các hội, đồn thể có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan BHXH tổ chức tuyên truyền chính sách
pháp luật BHYT; tập trung vào các nội dung: Giao nhiệm vụ, chỉ tiêu
BHYT đến các cấp ủy, chính quyền địa phương; thơng tin những
điểm mới, lợi ích của việc tham gia BHYT theo hộ gia đình, giá
khám chữa bệnh BHYT tăng...

- Đa dạng hóa các hình thức thơng tin, truyền thơng:
+ Thơng tin, truyền thơng trực tiếp đến các nhóm đối tượng
Tiếp tục phát huy vai trị của cấp ủy, chính quyền các cấp, các
đơn vị, bộ, ban, ngành có liên quan, các tổ chức đoàn thể,... để tăng
cường tổ chức các hình thức truyền thơng trực tiếp như: hội thảo, hội
nghị, tập huấn, tọa đàm, đối thoại, tư vấn trực tiếp... đối với người sử
dụng lao động, người lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và các nhóm đối tượng
tại cơ sở, nhằm đảm bảo sự tăng trưởng bền vững trong mở rộng tỷ lệ
bao phủ BHYT và thúc đẩy đối tượng tham gia BHYT tự nguyện.
+ Thông tin, truyền thông gián tiếp
Hợp tác thông tin, truyền thông với các cơ quan thơng tấn, báo
chí: Kịp thời định hướng nội dung truyền thơng từng loại hình báo chí,
hướng tới từng nhóm cơng chúng của cơ quan báo chí đó. Xây dựng
chun trang, chuyên đề và các bài viết, phóng sự, tin tức, tổ chức các
tọa đàm, hội thảo, các chương trình phát thanh, truyền hình thực tế...
3.3.3. Kiện tồn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực tổ chức thực
hiện của các chủ thể.
- Đổi mới phương pháp giám định BHYT.
Trong tổ chức thực hiện chính sách BHYT, cơng tác giám định
có một vị trí rất quan trọng, kết quả giám định là căn cứ pháp lý để cơ
quan bảo hiểm xã hội thanh quyết tốn chi phí khám chữa bệnh
BHYT với các cơ sở khám chữa bệnh, đồng thời là cơ sở để đánh giá
chất lượng cung cấp dịch vụ y tế, bảo vệ quyền lợi của người thụ
hưởng BHYT. Thông qua công tác giám định, cơ quan bảo hiểm xã
hội sẽ phát hiện và ngăn ngừa các biểu hiện lạm dụng hoặc trục lợi


22
quỹ BHYT; đảm bảo việc thanh quyết tốn chi phí khám chữa bệnh

BHYT đúng theo các chế độ tài chính hiện hành.
- Nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác giám định BHYT.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ: thường xuyên bồi
dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
thông qua công tác tuyển dụng, đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ; sắp xếp đúng người đúng việc, tạo sự phấn
khởi yên tâm và phát huy khả năng của mỗi cá nhân trong thực hiện
nhiệm vụ được phân cơng.
- Có chơ chế đảm bảo cho ngành BHXH thực hiện việc bảo vệ
quyền lợi người tham gia BHYT
Quyền lợi BHYT là quyền không thể bị tước đoạt hoặc chiếm
đoạt, là một trong các quyền cơ bản của công dân. Theo pháp luật
hiện hành thì cơ quan BHXH là chủ thể có trách nhiệm bảo vệ quyền
lợi của người tham gia BHYT. Để thực hiện được trách nhiệm này
trên thực tế, Luật BHYT cần bổ sung quy định về cơ chế, cách thức
và trao thêm một số quyền hạn nhất định để ngành BHXH thực hiện
việc bảo vệ quyền lợi cho người tham gia BHYT.
- Ngành y tế cần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT
và khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế
Chất lượng khám chữa bệnh BHYT nhìn chung còn thấp. Để
tạo niềm tin và thu hút sự tham gia BHYT của người dân, cần nâng
cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT của các cơ sở y tế theo hướng
đầu tư phát triển hệ thống các cơ sở y tế, nhất là cơ sở y tế ban đầu,
các Trạm y tế xã, phường, thị trấn, y tế thôn bản để người dân tiếp
cận dịch vụ dễ dàng. Thực hiện cải cách về cung ứng dịch vụ y tế làm
cho hệ thống y tế hướng tới nhu cầu và mong đợi của người dân chứ
không phải của người cung ứng dịch vụ y tế.
3.3.4. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý nhà
nước về BHYT ở địa phương
Các sở, ban, ngành phải có trách nhiệm tham mưu với Tỉnh ủy,

HDND, UBND tỉnh để có cơ chế hỗ trợ mang tính bền vững đối với
thành viên hộ gia đình tham gia BHYT nhất là hộ gia đình cận nghèo,
hộ gia đình nơng, lâm, ngư nghiệp có mức sống trung bình.
Hằng năm, UBND tỉnh giao nhiệm vụ cho các sở, ban, ngành và
UBND huyện, thành phố, thị xã trong việc triển khai thực hiện; giao chỉ
tiêu tỷ lệ người dân tham gia BHYT là chỉ tiêu bắt buộc về phát triển kinh
tế - xã hội cho UBND huyện. Căn cứ tỷ lệ người dân tham gia BHYT trên
địa bàn huyện, xã để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ đối với người


23
đứng đầu UBND dân cấp huyện, xã; không xét các danh hiệu thi đua đối
với xã khơng hồn thành chỉ tiêu phát triển BHYT trên địa bàn.
3.3.5. Cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ
người tham gia BHYT.
Các cơ sở KCB cần tăng cường hoạt động ứng dụng cơng nghệ
thơng tin trong quy trình tiếp nhận, khám bệnh, quản lý bệnh nhân
điều trị nội trú, ngoại trú và quy trình giám định chi phí KCB
BHYT... để đơn giản hóa thủ tục hành chính. Đồng thời giảm thủ tục
giấy tờ, phiền hà khi bệnh nhân được ra viện.
BHXH tỉnh tăng cường hoạt động ứng dụng công nghệ thơng
tin trong cơng tác quản lý của Ngành có sự kết nối đồng bộ và liên
thơng. Sớm hồn thiện chương trình ứng dụng cơng nghệ thơng tin
trong các lĩnh vực thu, chi, chế độ BHXH, giám định, tài chính, cấp
thẻ...; đồng nhất và nối mạng liên thông các dữ liệu trong toàn hệ
thống ngành BHXH để việc cập nhật các số liệu đầu vào được chính
xác, giảm bớt các thao tác cập nhật trùng lắp, khắc phục được việc
một người có nhiều thẻ BHYT.
3.3.6. Tăng cường cơng tác kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý
vi phạm

- Cần phân định rõ trách nhiệm và tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra thực hiện chính sách BHYT của cơ quan quản lý nhà
nước các cấp; đặc biệt là vai trò của UBND các tỉnh, thành phố trong
việc chỉ đạo các Sở, ngành liên quan tổ chức thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện chính sách BHYT trên địa bàn tỉnh. Thực hiện nghiêm các
biện pháp xử phạt theo quy định, xử lý những cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật về BHYT theo Nghị định số 92/2011/NĐ-CP ngày
17/10/2011 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BHYT.
- Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra cho phép cơ quan tổ chức
thực hiện chính sách BHYT được quyền xử lý vi phạm về BHYT
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác tổ chức thực hiện Luật
BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, tại chương 3, nghiên cứu này đã
xác định được quan điểm, mục tiêu và phương hướng tổ chức thực
hiện Luật BHYT đến năm 2025, sau đó, nghiên cứu này đưa các giải
pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện Luật BHYT, cụ thể là (i)
Tiếp tục hoàn thiện Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn thi hành,
(ii) Nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục Luật BHYT, (iii) Kiện toàn


×