Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.36 KB, 50 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
BIỂN ĐẢO VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
MỤC LỤC
Trang
PHẦN
MỞ ĐẦU..........................................................................................................- 3 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ BIỂN ĐẢO NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM..............................................................................- 7 1.1. Vị trí địa lý và tiềm năng của Biển, Đảo Việt Nam..................................- 7 1.1.1. Vị trí địa lí Biển, Đảo Việt Nam......................................................- 7 1.1.2. Tầm quan trọng và tính chiến lược của Biển Đơng.......................- 11 1.1.3. Vị trí chiến lược của Biển Đơng trong phát triển kinh tế xã hội. .- 12 1.1.4. Biển đảo Việt Nam đối với quốc phòng, an ninh..........................- 16 1.1.5. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.....................................- 17 1.2. Một số khái niệm cơ bản về biển, đảo.....................................................- 20 1.2.1. Đường cơ sở..................................................................................- 20 1.2.2. Nội thủy.........................................................................................- 21 1.2.3. Lãnh hải.........................................................................................- 21 1.2.4. Vùng tiếp giáp lãnh hải.................................................................- 22 1.2.5. Vùng đặc quyền kinh tế.................................................................- 22 1.2.6. Thềm lục địa..................................................................................- 23 1.2.7. Đảo, quần đảo................................................................................- 25 Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÍ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
ĐẢO VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................................- 27 2.1. Thực trạng tranh chấp ở Biển Đông.........................................................- 27 2.1.1. Tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ.................................................- 27 2.1.2. Tranh chấp các vùng biển..............................................................- 28 2.2. Quan điểm quốc tế về tranh chấp Biển Đông.........................................- 28 2.2.1. Quan điểm cộng đồng quốc tế.......................................................- 28 1


2.2.2. Quan điểm các nước trong khu vực:.............................................- 29 2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết vấn đề biển đảo của tổ
quốc....................................................................................................................- 34 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ BIỂN ĐẢO
TRONG THỜI KỲ MỚI..............................................................................- 38 3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ quyền biển đảo......- 38 3.2. Tập trung xây dựng lực lượng quản lý bảo vệ biển, đảo vững mạnh. . .- 40 3.3. Tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh kết hợp với hoạt động đối ngoại
bảo vệ biển đảo..................................................................................................- 41 3.4. Ưu tiên phát triển kinh tế biển, đảo thực hiện có hiệu quả chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội trên các vùng ven biển và hải đảo................................- 42 3.5. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển tồn diện, có
trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế
biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế...
…………………………………………………………………………………..- 45 -

3.6. Xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền biển, đảo vững mạnh đáp ứng yêu
cầu quản lý, khai thác và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình
mới...................................................................................................................... - 46 3.7. Kiên trì đối thoại tìm kiếm giải pháp hồ bình, tham gia xây dựng Bộ
quy tắc ứng xử trên Biển Đơng, kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp
chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phịng trong quản lý vùng trời, bảo
vệ biển, đảo........................................................................................................- 47 3.8. Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển, nhất
là ở một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược kinh tế với xây dựng thế trận
quốc phòng-an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc
gia trên biển.......................................................................................................- 48 KẾT LUẬN....................................................................................................- 51 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................- 52 -

2



PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia nằm ở cực đông bán đảo đông dương, nằm ở trung
tâm khu vực Đơng Nam Á, có bờ biển dài 3260km, với khoảng 4000 đảo lớn
nhỏ, trong đó tập trung nhiều nhất tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt
Nam là quốc gia có vị trí địa lý, kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng, trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội không chỉ của các nước trong khu vực mà
còn của một số cường quốc trên thế giới. Bên cạnh đó, vùng biển Việt Nam với
nhiều nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng về chủng loại và số lượng
nhưng mới chỉ khai thác được một phần như: Dầu mỏ, khí đốt, nuôi trồng đánh
bắt thủy hải sản, tiềm năng về du lịch, hàng hải. Biển đảo Việt Nam cịn có tiềm
năng to lớn về quốc phịng an ninh. Chính vì vậy, một số nước phát triển ln
quan tâm, mong muốn có được một vị trí ở đây.
Thấm nhuần lời dạy của Bác “Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã
khẳng định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế,
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Trong điều kiện hiện nay, tình hình thế giới, khu vực cịn tiềm ẩn nhiều diễn
biến phức tạp, khó lường. Cách mạng nước ta đang đứng trước sự chống phá
quyết liệt của các thế lực thù địch với các âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm độc,
tinh vi như “diễn biến hịa bình, bạo loạn lật đổ”, can thiệp từ bên ngoài kết hợp
gây mất ổn định từ bên trong, lợi dụng, kích động vấn đề dân tộc, nhân quyền, tơn
3



giáo nhằm chống phá ta trên các lĩnh vực, tạo dựng lực lượng chống đối nhằm thủ
tiêu chế độ, hạ thấp vai trị lãnh đạo của Đảng. Để ứng phó với tình hình trên,
Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm đúng đắn về xây dựng nền quốc phịng
tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; chiến lược bảo vệ Tổ quốc có sự điều
chỉnh, bổ sung kịp thời, kinh tế kết hợp chặt chẽ với quốc phịng, an ninh; cơng
tác đối ngoại ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện cho củng cố quốc phòng;
chăm lo xây dựng quân đội, công an vững mạnh về mọi mặt.
Tuy nhiên, chúng ta còn tồn tại một số khuyết điểm là: Trước sự phát triển
của tình hình, nhận thức về quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân của một số
cán bộ, đảng viên trong các ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác
trước âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực
cịn thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi cịn bị
động, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội ở
một số địa bàn còn diễn biến phức tạp; việc gắn kết phát triển kinh tế với củng
cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh đặc biệt tại các vùng chiến lược
Biển, đảo cịn chưa chặt chẽ; cơng nghiệp quốc phịng an ninh chưa đáp ứng yêu
cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang.
Như vậy, việc nghiên cứu phân tích làm rõ hơn “Một số giải pháp tăng
cường bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong tình hình mới” có ý nghĩa thời
sự và thực tiển sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài và các giải
pháp tăng cường bảo vệ biển đảo trong giai đoạn hiện nay như: Cơng trình
nghiên cứu của Phạm Thị Nhung Trường Sĩ Quan Lục Quân 2 về bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển đảo Việt Nam, công trình nghiên cứu của Huyền Trang
(TPHCM) về bảo vệ chủ quyền biển đảo trong tình hình mới, cơng trỉnh nghiên
cứu của PGS.TS Trần Nam Chuân viện chiến lược quốc phòng Việt Nam về bảo

vệ chủ quyền an ninh biên giới biển đảo của quốc gia, cơng trình nghiên cứu của
Liên Trang ( TPHCM) về bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biển đảo. Tất cả
4


các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài chủ yếu là đường lối, quan
điểm của Đảng, các chuyên đề, bài viết về tăng cường bảo vệ biển đảo Việt Nam
trong tình hình mới. Đây là nội dung có cơ sở lý luận và thực tiễn rất cao, địi
hỏi phải nghiên cứu phân tích làm rõ hơn mới có thể đúng đắn về vấn đề “Một
số giải pháp tăng cường bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong tình hình
mới”. Vì vậy, tơi chọn vấn đề này làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Phân tích làm rõ hơn một số giải pháp tăng cường bảo vệ chủ quyền biển
đảo Việt Nam trong tình hình mới, làm cho mọi người hiểu rõ hơn chủ quyền, tiềm
năng của biển đảo; những thách thức lớn đang tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo
vệ biển đảo, từ đó nâng cao hiệu quả cơng tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu
nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về biển đảo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Thực trạng về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay.
- Luận giải một số giải pháp tăng cường bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt
Nam trong tình hình mới.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu:
Giải pháp bảo vệ chủ quyền Biển đảo thuộc nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp tăng cường bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong
tình hình mới.
6. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu phân tích làm rõ hơn một số giải pháp
tăng cường bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

7. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản
5


Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh để nghiên cứu và phân tích tổng hợp các tài liệu. Cụ thể là: Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ XII; các sách, báo, bài viết về biển đảo và các giải pháp
tăng cường bảo vệ chủ quyền biển đảo trong giai đoạn hiện nay.
8. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần luận giải cơ sở lý luận và thực
tiễn khẳng định chủ quyền biển đảo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; làm rõ một số giải pháp tăng cường bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam
trong tình hình mới. Đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,
trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo cho các đối tượng trong giai
đoạn hiện nay.
9. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 3 chương, kết luận và tài liệu tham khảo.

6


Chương 1.
TỔNG QUAN VỀ BIỂN ĐẢO
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Vị trí địa lý và tiềm năng của Biển, Đảo Việt Nam
1.1.1. Vị trí địa lí Biển, Đảo Việt Nam


Việt Nam là một quốc gia ven biển. Bờ biển Việt Nam dài 3.260km, từ
Quảng Ninh ở phía Đơng Bắc tới Kiên Giang ở phía Tây Nam. Vùng biển Việt
Nam có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường
Sa. Biển Đơng cịn gọi là biển Nam Trung Hoa (tên tiếng Anh The South China
Sea và tiếng Pháp Mer de Chine Méridionale) là một biển rìa Tây Thái Bình
Dương. Theo quy định của Ủy ban Quốc tế về biển, tên của các biển rìa thường
dựa vào địa danh của lục địa lớn gần nhất hoặc mang tên của một nhà khoa học
phát hiện ra chúng. Biển Đơng nằm ở phía Nam đại lục Trung Hoa nên có tên
gọi là biển Nam Trung Hoa.Tuy nhiên, địa danh biển khơng có ý nghĩa về mặt
chủ quyền như một số người ngộ nhận. Vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia trên biển được xác định và giải quyết theo luật pháp
quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển 1982. Biển Đông
được nhân dân Việt Nam gọi theo thói quen như một danh từ riêng. Biển Đơng
là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ vĩ độ 30 lên
đến vĩ độ 260 Bắc và từ kinh độ 1000 đến 1210 Đông. Các vùng biển và hải đảo
nước ta nằm trong vùng Biển Đơng có nhiều khu vực khác nhau nhưng nổi bật
và có đặc điểm cần chú ý hơn là vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan, quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và một số đảo và quần đảo khác.
a. Vịnh Bắc Bộ
Vịnh Bắc Bộ nằm ở tây bắc Biển Đơng, có diện tích khồng 125.000km 2
chu vi khoảng 1.950km2, chiều dài bắc- nam khoảng 496km, chiều rộng lớn nhất
Đông - Tây khoảng 414km.
Vịnh Bắc Bộ được bao bọc bởi bờ biển và hải đảo miền Bắc Việt Nam ở
phía tây lục địa Trung Quốc, ở phía bắc bán đảo Lơi Châu và đảo Hải Nam ở
phía đơng bờ vịnh khúc khuỷu và ven bờ có nhiều đảo, phần vịnh phía Nam có
7


khoảng 1.300 hịn đảo lớn nhỏ trong đó có đảo Bạch Long Vĩ với diện tích

khoảng 2,5km2 cách đất liền của Việt Nam khoảng 110km cách đảo Hải Nam
của Trung Quốc khoảng 130km.
Vịnh Bắc Bộ có hai cửa thơng với bên ngồi, cửa phía nam ra trumg tâm
Biển Đơng nơi hẹp nhất khoảng 204km, cửa phía đơng ra eo biển Quỳnh Châu
(nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam ra phía bắc Biển Đơng nơi hẹp
nhất khoảng 18km).
Vịnh Bắc Bộ tương đối rộng, độ sâu trung bình khoảng 40m đến 50m sâu
nhất cũng chỉ trên dưới 100m. Đáy biển tương đối bằng phẳng độ dốc nhỏ thềm
lục địa của Việt Nam ở vùng vịnh Bắc Bộ khá rộng, độ dốc thoải và có một lịng
máng sâu trên 70km gắn với đảo Hải Nam của Trung Quốc.
b. Vịnh Thái Lan
Vịnh Thái Lan nằm ở Tây Nam của Biển Đông được bao bọc bởi bờ biển
Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Malaysia.
Vịnh Thái Lan có diện tích 293.000km 2, chu vi khoảng 2300km, chiều dài
vịnh khoảng 628km, Vịnh Thái Lan là một vịnh nông, nơi sâu nhất chỉ 80m.
Các đảo lớn trong Vịnh có Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu, đảo Poulwai,
đảo Kotao, đảo Kophangan và đảo Kosamni.
c. Các đảo và quần đảo
Hệ thống đảo của nước ta đều có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Trên các đảo tiền tiêu có thể lập những căn cứ kiểm soát
vùng biển và vùng trời nước ta, kiểm tra hoạt động tàu, thuyền đảm bảo an ninh
quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền tồn vẹn lãnh thổ của đất nước,
đó là các đảo và quần đảo như: Hoàng Sa, Trường Sa, Chàng Tây, Bạch Long
Vĩ, Hòn Mát, Hòn Mê, Hòn Cỏ, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ
Chu,... Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội,
các đảo ven bờ gần đất liền có điều kiện phát triển nghề cá và cũng là căn cứ bảo
vệ trật tự an ninh vùng biển và bờ biển nước ta.
Tiềm năng: Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối
với các nước trong khu vực mà còn của cả châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.
8



Biển Đơng cịn là nơi chứa đựng nguồn tài ngun thiên nhiên biển quan trọng
cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn
tài nguyên sinh vật (thủy sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang
chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển. Trong khu vực, có các nước
đánh bắt và ni trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái
Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt
cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới
(với khoảng 1,5-2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7-8% tổng sản
lượng đánh bắt cá trên tồn thế giới. Biển Đơng được coi là một trong năm bồn
trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu
khí cao là các bồn trũng Brunei - Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn
Sơn, Mê Công, sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước
trong khu vực đều là những nước khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như
Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan… trong đó
Indonesia là thành viên của OPEC. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã
xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu
Long và Nam Cơn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện
khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của
tồn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác
khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ m3. Theo đánh
giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở biển Đông
là 07 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của
Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở biển Đơng khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ
lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này
và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong
vịng 15-20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí cịn lại chưa khai thác là
khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc bộ và bờ biển miền Trung, khu vực
thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt Namđứng vào

hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia. Ngồi ra,
theo các chun gia Nga thì khu vực vùng biển Hồng Sa và Trường Sa cịn
9


chứa đựng tài ngun khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế
giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng
thay thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai
thác được coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền
đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Đối với Việt Nam, biển Đơng đóng vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Bờ biển nước ta vừa là
cửa ngõ bang giao kinh tế vừa là tuyến phịng thủ hướng đơng của đất nước.
Hầu hết các ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta đều gắn kết với biển như du
lịch, dầu khí, thủy sản, giao thơng vận tải, công nghiệp tàu thủy… Năm 2003,
tổng GDP từ kinh tế biển và vùng ven biển ước tính đạt khoảng 197,3 nghìn tỷ
đồng, tương đương khoảng 1,54 tỷ USD, bằng khoảng 32,6% GDP của cả nước
(GDP của năm 2003 đạt gần 336 nghìn tỷ đồng) và khu vực ven biển nước ta
nuôi sống được khoảng 25 triệu người, bằng khoảng 31% dân số cả nước.
1.1.2. Tầm quan trọng và tính chiến lược của Biển Đơng
Biển Đơng nằm trên tuyến đường giao thơng biển huyết mạch nối liền
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông và Châu Á.
Nằm trong số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất thế giới liên quan
đến Biển Đông gồm: Tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào
Xuyê, Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Úc, Niudilân; tuyến Đông Á qua kênh
đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi Úc và Niudilan,
Nam Thái Bình Dương; tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đơng Á và Đông Nam Á đây
được coi là tuyến đường quốc tế nhộn nhịp thứ hai thế giới theo số liệu mới
nhất, mỗi ngày có nhiều tàu các loại qua lại Biển Đơng, trong đó có khoảng 50%
tàu có trọng tải trên 5000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải hơn 30000 tấn trở lên.

Trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng
biển lớn nhất và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương
mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực.
Nhiều nước ở khu vực Nam Á có nền kinh tế phụ thuộc vào con đường
biển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Trung Quốc. Đây là
10


tuyến đường thiết yếu vận chuyển dầu và nguồn tài nguyên thương mại từ Trung
Cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90%
lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và trong đó
phải vận chuyển qua vùng Biển Đơng.
Lượng dầu lửa và khí hóa lỏng được vận chuyển qua đường biển này gấp
15 vận chuyển qua kênh đào Panama, khu vực Biển Đơng có nhiều eo biển quan
trọng đối với nhiều nước với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm
trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt có eo biển Malaca là eo biển nhộn nhịp
thứ 2 thế giới (sau eo biển Hormuz).
Nạn cướp biển và khủng bố trên biển ở mức cao, đặc biệt sau vụ tấn công
khủng bố tự sát vào tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm 2002. Do đó vùng biển
này hết sức quan trọng đối với các nước trong khu vực về địa chiến lược an ninh,
giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với Mỹ và Nhật Bản. Biển Đơng cịn
có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đơng. Vì vậy, khi Biển
Đơng bị một số nước hoặc nhóm nước liên minh nào khống chế sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích an ninh chính trị kinh tế của các nước khu vực.
Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu, khoảng 45%
khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông,
Trung Quốc có 29 trên 39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa
xuất nhập cảnh, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường
biển qua Biển Đông.
1.1.3. Vị trí chiến lược của Biển Đơng trong phát triển kinh tế xã hội

Biển Đông là tuyến đường hàng hải quan trọng thơng thương giữa Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương, hầu hết các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình
Dương đều có các hoạt động thương mại hàng hải rất mạnh mẽ trên Biển Đông.
Biển Đông được coi là con đường huyết mạch giao thông quân sự, vận chuyển
thương mại quốc tế. Trong 10 tuyến đường quốc tế lớn nhất hiện nay, có 5 tuyến
đi qua Biển Đơng hoặc liên quan đến Biển Đông. Trong lịch sử, Biển Đông
nhiều lần là trọng điểm của những cuộc tranh chấp quốc tế gay go, quyết liệt.
Ngay từ thế kỉ 14 và 15 Tây Ban Nha đã tới đây, tranh dành những vùng đất màu
11


mỡ ở Philippin, Indonesia, đầu thế kỉ 17 đến cuối thế kỉ 18 là đế quốc Hà Lan,
thế kỉ 19 và 20 là Pháp, Nhật, Mỹ, lần lượt bành trướng xâm chiếm, gây chiến
tranh chống một số nước trong khu vực Biển Đơng. Do q trình lịch sử và tồn
tại hơn 100 năm nay, cùng với sự phát triển luật pháp quốc tế về Biển và đặc
điểm vị trí địa lí của Biển Đơng nên các nước trong khu vực vẫn còn tồn tại một
số vấn đề tranh chấp hoặc không thống nhất cần được giải quyết trên vùng Biển
và thềm lục địa đặc biệt từ nửa thế kỷ 20 đến nay. Cuộc chạy đua tìm kiếm khai
thác dầu hỏa, các nguồn tài nguyên ở Biển Đông làm cho vấn đề tranh chấp chủ
quyền thêm gay gắt và phức tạp.
Biển Đơng là biển lớn của Thái Bình Dương, một trong sáu biển lớn nhất
của thế giới, có vị trí quan trọng trong khu vực và thế giới. Biển Đông được bao
bọc bởi 10 nước và vùng lãnh thổ (Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Indonesia,
Philipin, Brunei, Thái Lan, Campuchia, Singapore và Đài Loan).
Theo qui định Công ước luật biển 1982, Việt Nam khơng chỉ có phần lục
địa mà cịn có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 chiếm khoảng 30% diện tích Biển
Đơng, gấp hơn 3 lần diện tích đất liền. Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm
vi chủ quyền thiêng liêng quốc gia, cùng với đất liền tạo ra môi trường không
gian, môi trường sinh tồn và phát triển của dân tộc ta.
Vị trí địa lý và hình dáng vùng biển nước ta có ảnh hưởng sâu sắc tới sự

hình thành các đặc điểm tự nhiên. Từ đó ảnh hưởng đến việc lực chọn phát triển,
phương thức khai thác tài nguyên. Nét độc đáo vị trí địa lí vùng biển nước ta là
sự gặp gỡ giao thoa của hệ thống tự nhiên, văn hóa lớn trên thế giới, thời kỳ
chiến tranh lạnh và chiến tranh nóng. Đây là nơi tập trung các mâu thuẫn của
thời đại, trong tình hình hiện nay, đây là nơi có sự phát triển hịa bình, hội nhập
và ổn định, khu vực hội tụ nhiều cơ hội phát triển, tạo ra thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế xã hội của nước ta. Tuy nhiên khu vực này vẫn còn tồn tại tranh
chấp về chủ quyền biển, đảo là nhân tố tạo ra nguy cơ mất ổn định khó lường
ln đặt ra những khó khăn thử thách cho đất nước ta.
Biển Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là
dầu mỏ, khí đốt, và các tài nguyên chiến lược khác, đảm bảo an ninh năng lượng
12


quốc gia, cho đất nước tự chủ hơn trong phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện
nay. Cùng với đất liền vùng biển nước ta tiếp giáp giữa Đông Nam Á lục địa và
Đông Nam Á hải đảo, một khu vực nhiều tài nguyên thiên nhiên, một thị trường
rộng lớn, một khu vực kinh tế nhiều thập kỉ qua đã phát triển năng động. Đây
cũng là nơi rất hấp dẫn cho các thế lực có nhiều tham vọng chiếm đoạt và cũng
rất nhạy cảm trước những chuyển biến trong đời sống chính trị thế giới.
Thềm lục địa Việt Nam có nhiều bể trầm tích chứa dầu khí và có nhiều
triển vọng khai thác nguồn khoáng sản này, tổng trữ lượng dầu khí ở Biển Việt
Nam khá lớn. Tuy mới ra đời nhưng ngành dầu khí nước ta đã thành một trong
những ngành kinh tế mủi nhọn, có tiềm lực kĩ thuật, vật chất lớn, và hiện đại
nhất trong các ngành khai thác Biển. Đồng thời một trong những ngành xuất
khẩu thu về ngoại tệ cho đất nước, ngành công nghiệp dầu khí phát triển kéo
theo sự phát triển một số ngành khác như cơng nghiệp hóa dầu, giao thơng vận
tải, thương mại trong nước và khu vực. Năm 2004 ngành dầu khí đóng góp 30%
ngân sách quốc gia, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và tăng sản phẩm xã
hội tăng đáng kể tổng sản phẩm quốc nội(GDP) trong cả nước. Chiến lược Biển

Việt Nam phấn đấu đến năm 2020 kinh tế Biển đóng góp trên 50% tổng GDP cả
nước ngồi dầu khí Việt Nam cịn có nhiều mỏ sa khống và các thủy tinh có trữ
lượng khai thác cơng nghiệp và làm vật liệu xây dựng có tiềm năng về khí, điện,
đạm, và năng lượng. Biển cũng có nguồn năng lượng lớn như: Năng lượng gió,
năng lượng mặt trời, thủy triều sóng và cả thủy nhiệt.
Biển Việt Nam nằm ở vị trí có nhiều tuyến đường biển quan trọng, trong
khu vực và thế giới, giữ vai trò rất lớn trong vận chuyển lưu thơng hàng hóa,
thương mại, phục vụ đắc lực cho xây dựng nền kinh tế nước ta cũng như các
nước xung quanh Biển Đông. Biển Việt Nam nối thông với nhiều hướng từ các
hải cảng ven Biển của Việt Nam thông qua eo biển Malacca để đi đến Ấn Độ
Dương, Trung Đông và Châu Âu, Châu Phi, qua eo Biển Basic có thể đi vào
Thái Bình Dương và các cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ, Bắc Mỹ, qua eo
biển giữa Philippin, Indonesia, Singapore đến Oxtrâylia và Niu Dilân. Đây là

13


đều kiện thuận lợi để ngành giao thông vận tải nước ta phát triển thúc đẩy giao
lưu kinh tế văn hóa giữa các nước khác trong khu vực và thế giới.
Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và cảng sông với khoảng 90
cảng lớn nhỏ, những cảng lớn chủ yếu nằm ở ranh giới châu thổ thủy triều và
châu thổ bồi tụ, nên tàu ra vào phải đi theo hướng luồng lạch và phụ thuộc vào
mực nước thủy triều. Ven biển miền trung có nhiều vũng, vịnh nước rất sâu có
điều kiện thuận lợi để phát triển cảng biển, trong đó có cảng trung chuyển cơngte-nơ tằm cỡ quốc tế, đồng thời rất thuận lợi để xây dựng các cơ sở đóng tàu quy
mơ lớn cũng như xây dựng đội thương thuyền đủ mạnh để buôn bán trên thế
giới. Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng với các tuyến đường bộ đường sắt
ven Biển vượt tới các vùng sâu trong nội địa, đến các tuyến đường xuyên Á cho
phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng truyền tải hàng hóa, xuất nhập
khẩu qua mọi miền của tổ quốc, ra nước ngồi, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
mới về kinh tế trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do các nước ASEAN và

Trung Quốc.
Dọc bờ biển trung bình khoảng 20km lại có một cửa sơng, phần lớn các
sơng ngịi chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra biển, đáng chú ý là
các hệ thống sông vùng duyên hải Quảng Ninh, hệ thống Sông Hồng, Sông Mã,
Sông Cả, Sông Trường Sơn Đông, Sông Đồng Nai, Sông Vàm Cỏ và hệ thống
sông Cửu Long. Hệ thống các sơng có nhiều của thơng ra biển thuận lợi cho
giao thông đường thủy, từ đất liền ra biển và ngược lại các cửa sông với lượng
lớn về phù sa đổ ra biển tạo điều kiện thuận lợi phát triển nguồn lợi thủy sản.
Biển nước ta chủ yếu là vùng biển nhiệt đới,mang tính chất địa phương, có
tính chất riêng về nhiều mặt như: Khí tượng, hải văn, chế độ thủy triều. Hiện
tượng nổi bật là sự xuất hiện vùng nước trồi, một vùng sinh thái đặc biệt phong
phú đa dạng, và là nơi tập trung nhiều loài sinh vật biển, nguồn lợi hải sản của
nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực, diện tích tiềm năng ni
trồng thủy hải sản nước ta khoảng 2 triệu hecta bao gồm ba loại hình mặt nước;
Đó là nước ngọt, nước lợ, vùng nước mặn ven bờ, có thể ni trồng các loại hải
sản như: Tơm, cua, ni cá lồng,… Ngồi ra vùng biển nước ta cịn có nhiều lồi
14


động vật quí hiếm như: Đồi mồi, rắn biển, chim biển, thú biển và hải sản.Vùng
biển nước ta là nguồn lợi hết sức quan trọng không chỉ cung cấp thực phẩm nguồn
dinh dưỡng hàng ngày cho nhân dân mà còn tạo ra nguồn xuất khẩu lớn.
Tiềm năng nguồn lợi hải sản nước ta rất lớn nhưng khả năng khai thác còn
hạn chế, chỉ mới tập trung khai thác ở ven bờ, gây nên sự mất cân đối cho nguồn
hải sản ven bờ nhanh chóng bị cạn kiệt. Để khai thác nguồn lợi hải sản xa bờ có
hiệu quả, nhà nước đã có chủ trương và hổ trợ vốn cho việc đóng tàu, mua sắm
trang thiết bị đánh cá xa bờ, đồng thời cũng ban hành cơ chế chính sách ưu đãi
nhằm đẩy mạnh chương trình khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ, và thực hiện
quá trình dân sự hóa trên biển.
Ngồi ra, nước ta cịn có lợi thế về du lịch biển.Với nhiều trung tâm du

lịch biển quan trọng, có vị trí địa lí thuận lợi, nằm trên tuyến du lịch quốc tế
Đông Nam Á như: Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phịng, Quảng
Ninh, có đủ điều kiện và khả năng trở thành những tụ điểm về du lịch. Vùng
biển nước ta có điều kiện tự nhiên thuận lợi và nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, thuận lợi cho phát triển nhiều loại hình du lịch. Phần lục địa với các
đồi, núi, đồng bằng, đa dạng làm tôn lên vẻ đẹp của hàng chục bãi tắm lớn.
Cùng với mặt nước, đáy biển và hải đảo tạo nên nhiều danh lam thắng cảnh,
hang động, kỳ thú, sơn thủy hữu tình, khí hậu nhiệt đới gió mùa, thn lợi cho
việc tổ chức du lịch biển quanh năm đặc biệt là các tỉnh ven biển từ Quảng Nam
đến Đà Nẵng trở vào. Các thảm thực vật phong phú, các nguồn nước khống,
các loại động vật q hiếm, tạo sức hấp dẫn thu hút khách du lịch nghĩ dưỡng,
thăm quan, thể thao, chữa bệnh, mỗi năm thu hút trên 10 triệu khách nội địa, và
khoảng 4 triệu khách quốc tế đến Việt Nam trong đó có khoảng 40% đến 60% là
khách du lịch biển.
Biển Việt Nam cịn có một địa bàn quan trọng để phát triển kinh tế đất
nước. Hiện nay có trên 30% dân số cả nước sinh sống ở 28 tỉnh thành phố ven
biển, đa số các thành phố, thị xã, đều nằm ở ven sông cách biển không xa, nhất
là các thành phố, thị xã ở Trung Bộ, nằm sát ven biển có quốc lộ 1 chạy qua khu
vực ven biển vẫn là nơi tập trung các trung tâm cơng nghiệp lớn, có nhiều Sân
15


Bay, Cảng Biển quan trọng căn cứ Hải Quân, kho tàng, các cơng trình phát triển
kinh tế quốc phịng khác. Các tỉnh, thành phố ven biển có các cảng cơ sở sữa
chữa, đóng tàu, đánh bắt, hoặc chế biến hải sản, làm muối thu hút hơn 13 triệu
lao động, giải quyết cơng ăn việc làm góp phần to lớn vào việc ổn định tình hình
kinh tế chính trị xã hội an ninh, quốc phòng.
1.1.4. Biển đảo Việt Nam đối với quốc phịng, an ninh
Biển, đảo nước ta có một khơng gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối
với quốc phòng an ninh của đất nước, với vùng biển rộng lớn, bờ biển dài, địa

hình bờ biển quanh co, khúc khuỷu với nhiều dãy núi chạy ra biển, chiều ngang
đất liền có nơi rộng hơn 50 km. Việc phịng thủ từ hướng biển ln mang tính
chiến lược, mạng lưới sơng ngịi chằng chịt, chảy qua các miền của đất nước,
chia cắt đất liền thành nhiều khúc, cắt ngang với các tuyến giao thông chiến lược
Bắc Nam. Ở nhiều nơi Núi chạy lang ra sát biển, tạo thành những địa hình hiểm
trở những vịnh kín, xen lẫn với những bờ biển bằng phẳng, thuận tiện cho việc
trú đậu tàu thuyền và chuyển quân bằng đường biển. Hệ thống các quần đảo và
đảo trên vùng biển nước ta, cùng với dãy đất liền ven biển, thuận lợi cho việc
xây dựng các căn cứ quân Sự, thuận lợi làm điểm tựu pháo đài, trạm gác tiền
tiêu, hình thành tuyến phịng thủ nhiều tầng, nhiều lớp với thế bố trí chiến lược,
hợp thế trên bờ, dưới nước, tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ kiểm soát và làm
chủ bờ biển nước ta. Đồng thời, đây là những lợi thế bố trí các lực lượng, vũ khí,
trang bị kỹ thuật của các lực lượng hoạt động trên biển, ven biển, phối hợp chặt
chẽ với các lực lượng khác trên bờ, tạo thành thế liên hoàn biển, đảo trong thế
trận phòng thủ khu vực.
Vùng biển nước ta nằm trong tuyến đường giao thông đường biển, đường
không, thuận lợi nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Sử dụng đường
biển sẽ có nhiều thuận lợi trong việc cơ động chuyển quân và tiếp tế hậu cần, sử
dụng vũ khí cơng nghệ từ xa, tận dụng được yếu tố bất ngờ, ngồi tiềm năng về
dầu khí, phát triển cảng biển, vận tải biển, tài nguyên du lịch, thủy sản, khống
sản, và nguồn lực lao động. Biển cịn là chiến trường rộng lớn để ta triển khai
thế trận quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trên biển, để phòng thủ bảo vệ
16


tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự từ xa đến gần, trong đó các khu vực biển trọng
điểm như: Vịnh Bắc Bộ, vùng biển của quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, khu dịch
vụ kinh tế và kỹ thuật dầu khí DK1,DK2 vùng Biển Tây Nam.
1.1.5. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
Chỉ thị 20–CT/TU của bộ chính trị ngày 22/9/1997 đã khẳng định: Cần

đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, đảo theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời tiếp tục nhấn mạnh chủ trương lớn về xây dựng Việt Nam trở thành
một nước mạnh về biển, phát triển kinh tế, xã hội vùng biển, hải đảo ven biển,
phải gắn với yêu cầu bảo vệ đất nước, cần đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế
đất nước, trong quan hệ tương tác với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, khu vực, và thế giới.
Để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỉ XXI. Hội nghị
lần thứ IV ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa X, thơng qua nghị quyêt 09–
NQ/TU ngày 9/2/2007 về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Trong đó
nhấn mạnh rằng thế kỉ XXI được xem là thế kỉ của đại dương. Nghị quyết đã
xác định các quan điểm chỉ đạo, và định hướng chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020 gồm các nội dung cơ bản như sau:
Một là: Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển,
trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành nghề
biển, với cơ cấu đa dạng, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu
quả cao với tằm nhìn dài hạn.
Hai là: Phải kết hợp chặt chẻ giữa phát triển kinh tế, xã hội với quốc
phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường, kết hợp phát triển vùng
biển, ven biển, các hải đảo với phát triển vùng nội địa, theo hướng cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa.
Ba là: Tập trung khai thác mọi nguồn lực phát triển kinh tế, xã hội, bảo
vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và
có hiệu quả các nguồn lực bên trong, tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các
nguồn lực bên ngồi, theo ngun tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc
độc lập chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc.
17


Để thực hiện mục tiêu tổng quát đến năm 2020 phấn đấu trở thành quốc
gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, đảm bảo vững chắc chủ quyền, quyền chủ

quyền quốc gia trên biển, đảo góp phần quan trọng vào sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa làm cho đất nước giàu mạnh. Đảng và Nhà Nước đã đề ra
những mục tiêu cụ thể như: Xây dựng và phát triển toàn diện các lỉnh vực kinh
tế, xã hội, khoa học cơng nghệ, tăng cường củng cố quốc phịng, an ninh. Phấn
đấu đến năm 2020 kinh tế biển và ven biển đóng góp trên 50% tổng GDP cả
nước, giải quyết tốt các vần đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân
dân vùng biền và ven biển, xây dựng các thương cảng quốc tế có tằm cỡ khu
vực và các khu kinh tế mạnh ở ven biển.
Để triển khai thực hiện nghị quyết 09–NQ/TU ngày 9 tháng 12 năm 2007
của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng, Chính Phủ đã ban hành nghị quyết số
27/2007-NQ/CP. Ngày 30 tháng 5 năm 2007 và chương trình hành động của
Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghị định số 137/2007/QĐTT
ngày 21 tháng 8 năm 2007 về phê duyệt đề án tổ chức thơng tin phục vụ cơng
tác phịng chống thiên tai trên biển. Quyết Định số 1041/QĐTT ngày 22 tháng 7
năm 2009 phê duyệt đề án đảm bảo thông tin trên Biển, đảo. Quyết định số
373/QĐ/TT ngày 23 tháng 3 năm 2010 phê duyệt đề án công tác tuyên truyền
quản lí bảo vệ và phát triển bền vũng biển và hải đảo Việt Nam các cơ quan ở
Trung Ương và địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch và trực tiếp triển
khai chương trình hành động cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và toàn
dân đã đạt được những kết quả quan trọng, kinh tế biển, ven biển được quan tâm
và đầu tư, phát triển theo hướng khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên biển kết
hợp với phát triển lâm nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp chế biến xuất khẩu thủy
sản, phát triển nuôi trồng, gắn liền với nâng cao hiệu quả khai thác đánh bắt.
Tăng nhanh các ngành dịch vụ, du lịch, kết hợp với phát triển kinh tế biển bền
vững. Đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng biển xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế
đứng chân ổn định, vững chắc, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống phức tạp
xãy ra trên biển. Xây dựng hệ thống nhà ở, tường kè, chống sói lở trên các đảo
thuộc quần đảo qui hoạch. Triển khai xây dựng cụm công nghiệp ven biển, đẩy
18



mạnh cơng tác quản lí về biển, cơng tác cải cách hành chính phục vụ phát triển
kinh tế cảng và du lịch, thiết lập các dự án cơng trình nâng cao chất lượng môi
trường ven biển, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội mang tính bền vững.
1.2. Một số khái niệm cơ bản về biển, đảo
1.2.1. Đường cơ sở
Đường cơ sở: là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngồi
của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để làm cơ sở xác định
phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Là
đường dùng làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác. Có 2
loại đường cơ sở:
- Đường cơ sở thông thường: Là đường sử dụng ngấn nước thủy triều thấp
nhất ven bờ biển hoặc hải đảo.
- Đường cơ sở thẳng: Là đường nối các điểm hoặc đảo nhô ra nhất của bờ
biển lục địa hoặc đảo. Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven biển
bị chia cắt hoặc có chuỗi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển.
Nước ta có chuỗi đảo chạy dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định
đường cơ sở thẳng. Năm 1982, Chính phủ nước ta ra tuyên bố xác định đường
cơ sở thẳng ven bờ lục địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm. Trừ điểm A8
nằm trên mũi Đại Lãnh, các điểm còn lại đều nằm trên các đảo. Điểm 0 nằm trên
ranh giới phía Tây Nam của vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia. Điểm
A1: Hòn Nhạn (Kiên Giang); A2: Hòn Đá Lẻ (Cà Mau); A3: Hòn Tài Lớn; A4:
Hịn Bơng Lan; A5: Hịn Bảy Cạnh (Bà Rịa - Vũng Tàu); A6: Hịn Hải (nhóm
đảo Phú Q - Bình Thuận); A7: Hịn Đơi (Khánh Hịa); A8: Mũi Đại Lãnh
(Khánh Hịa); A9: Hịn Ơng Căn (Bình Định); A10: Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi);
A11: Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị).
Luật quy định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là
đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ cơng bố. Hiện nay nước ta đã có đường cơ
sở từ đảo Cồn Cỏ, đến đảo Thổ Chu. Một số khu vực hiện nay chưa có đường cơ sở


19


như: Vịnh Bắc bộ và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì Chính phủ sẽ xác định
và cơng bố sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
1.2.2. Nội thủy
Là vùng nước nằm ở phía trong đường cơ sở của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, nội thủy được coi như lãnh thổ trên đất liền, đặt dưới chủ
quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia Việt Nam. Là vùng nước tiếp
giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy
như trên lãnh thổ đất liền. Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ
đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngồi của lãnh hải là biên giới quốc gia trên
biển của Việt Nam. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với
lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp
với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Tàu thuyền của tất cả
các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam.
Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong
lãnh hải Việt Nam, thơng báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên
cơ sở tơn trọng hịa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước
quốc tế mà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên các phương
tiện bay nước ngồi khơng được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ
trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nhà
nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt
Nam.
1.2.3. Lãnh hải
Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý

(01 hải lý tương đương 1.852m), ở phía ngồi đường cơ sở. Ranh giới ngoài của
lãnh hải là biên giới của quốc gia ven biển. Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và tồn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng
như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải. Theo
20


Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, chủ quyền đối với vùng lãnh
hải không phải là tuyệt đối như vùng nội thủy, tàu thuyền các nước khác được
“đi qua không gây hại” trong lãnh hải. Các quốc gia ven biển có quyền ấn định
các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng giao thông dành cho tàu
nước ngoài đi qua lãnh hải nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích
của mình.
1.2.4. Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
vùng biển tiếp liền phía ngồi lãnh hải Việt Nam có chiều rộng 12 hải lý, hợp
với lãnh hải thành một vùng rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải của Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình
nhằm bảo vệ quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tơn trọng các quy
định về y tế, di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.Vùng
tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có
chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngồi của lãnh hải. Nhà nước thực hiện
quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền khác quy định tại Điều
16 của Luật. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm
ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập
cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
1.2.5. Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tiếp liền vùng lãnh hải và hợp với vùng lãnh hải thành vùng biển rộng 200 hải lý

tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hồn tồn về việc thăm dò, khai
thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh
vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác
phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích
kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền
21


kinh tế của Việt Nam; có thẩm quyền trong bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.Vùng đặc quyền kinh tế là vùng
biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng
biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở Nhà nước thực hiện: quyền
chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng
nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động
khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này về mục đích kinh tế; quyền tài phán
quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và cơng trình trên biển;
nghiên cứu khoa học biển, bảo về và gìn giữ mơi trường biển; các quyền và
nghĩa vụ khác phú hợp với pháp luật quốc tế. Nhà nước tôn trọng quyền tự do
hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng
biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền,
quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia treen biển của Việt Nam.Việc lắp đặt
dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngồi được tham gia
thăm dị, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị
và cơng trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp

đồng được kí kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của
Chính phủ Việt Nam;
1.2.6. Thềm lục địa
Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa mở rộng
ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngồi của rìa lục địa; nơi nào bờ ngồi
của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam
khơng đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường
cơ sở đó. Theo Cơng ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, nước nào có
thềm lục địa tự nhiên quá rộng thì thềm lục địa có thể mở rộng ra không quá 350
22


hải lý kể từ đường cơ sở. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ
quyền hồn tồn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài
nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài
nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa
Việt Nam. Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đát dưỡi đáy biển, tiếp liền và
nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ
đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngồi của rìa lục địa.
Trong trường hợp mép ngồi của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200
hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong trường hợp mép ngồi của rìa lục địa này vượt q 200 hải lý tính từ
đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài khơng q 350 hải lý tính từ
đường cơ sở hoặc khơng q 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2500m. Nhà
nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dị, khai thác tài
ngun. Khơng ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai
thác tài ngun của thềm lúc địa nếu khơng có sự đồng ý của Chính phủ Việt
Nam. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy
định việc khoan nhằm bất kì mục đích nào ở thềm lục địa. Nhà nước tôn trọng

quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt đông sử dụng biển hợp pháp khác của
các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các
điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên,
không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích
quốc gia trên biển Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự
chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài
nguyên, nghiên cứu khoa hoc, lắp đặt thiết bị và cơng trình ở thềm lúc địa của
Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hịa xã hơi chủ nghĩa việt
Nam là thành viên, hợp đồng kí kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc
được phép của Chính phủ Việt Nam

23


1.2.7. Đảo, quần đảo
Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất
này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận
của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan
chặt chẽ với nhau. Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận
không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Đảo thích hợp cho đời sống con người
hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thể, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đảo đá khơng thích hợp cho đời
sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì khơng có vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa. Nhà nước thực hiện chủ quyền trên đảo, quần đảo
của Việt Nam.
Kết luận chương 1
Biển và đại dương được các nhà khoa học gọi là “Lục địa xanh”, phủ kín
70,8% bề mặt trái đất và đang “cất giấu” những kho nguyên liệu, khống vật
khổng lồ dưới dạng hịa tan trong nước, lắng đọng dưới đáy và vùi kín dưới lịng

đại dương. Do có đặc thù như vậy nên nhiều vùng biển, đại dương đang là nơi
tranh chấp trên thế giới, nhất là đối với những nước lớn ở gần biển và đại dương
có sức mạnh về kinh tế và quân sự. Biển Đơng là một biển nửa kín, nằm ở rìa
Tây Thái Bình Dương, với diện tích khoảng 3,5 triệu km 2 trải rộng từ vĩ độ 30 lên
đến vĩ độ 260 Bắc và từ kinh độ 100 0 đến 1210Đông. Biển Đông tiếp giáp với 9
nước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Bruney, Malayxia,
Singapore, Thái Lan, Camphuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đơng
có vị trí chiến lược đối với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương
nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới. Việt Nam là quốc gia ven biển nằm
bên bờ Tây của Biển Đơng, có địa chính trị và địa kinh tế rất quan trọng không
phải bất kỳ quốc gia nào cũng có. Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc
xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các
lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta
là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km 2 đất liền có 1km bờ biển). Trong 63 tỉnh,
thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh
24


sống tại các tỉnh, thành ven biển. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước của dân tộc, biển đảo ln gắn với q trình xây dựng và phát triển của
đất nước và con người Việt Nam. Vùng biển nước ta: bao gồm cả vùng lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Theo Công ước của Liên hợp quốc về
Luật Biển năm 1982, nước ta có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km 2, gấp 3 lần
diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đơng (cả Biển Đơng gần 3,5
triệu km2). Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 hịn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo
xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài của bờ
biển đất nước, với vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu
để bảo vệ sườn phía Đơng của đất nước. Một số đảo ven bờ cịn có vị trí quan
trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ
sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp

giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo
vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Theo quy định của Công ước Liên
hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các quốc gia ven biển có năm (05) vùng biển
gồm: Nội thủy nằm bên trong đường cơ sở; lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý;
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường
cơ sở; riêng thềm lục địa có thể kéo dài ra tới 350 hải lý. Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
quốc gia đối với các vùng biển nói trên.

25


×