Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97 KB, 19 trang )

1

Những t tởng triết học cơ bản của nho giáo và ảnh hởng của
nó ở nớc ta
Trung Hoa là một nớc lớn ở miền Đông châu á, thuộc vùng
khí hậu ôn đới, rất thuận lợi cho con ngời tồn tại và phát triển.
Lịch sử Trung Quốc cổ, trung đại có thĨ chia thµnh bèn thêi
kú chÝnh:
Thêi kú thø nhÊt: Thêi kỳ hình thành và tồn tại xà hội
nguyên thuỷ, khoảng thiên niên kỷ thứ V trớc công nguyên.
Về sản xuất vật chất: trình độ sản xuất còn lạc
hậu,công cụ sản xuất chủ yếu bằng gỗ, đá.
Về tổ chức xà hội: sống theo bầy ngời nguyên thuỷ bằng
các hình thức cộng đồng thị tộc, bộ lạc.
Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ hình thành và tồn tại xà hội nô
lệ. Thời kỳ này tồn tại khoảng hơn một ngàn năm, trải qua các
triều đại: Hạ, Ân, Thơng và Chu.
Về sản xuất vật chất: lực lợng sản xuất có bớc phát triẻn
mạnh. Con ngời biết dùng và chế tạo đồ sắt, biết dựa vào
điều kiện tự nhiên để gieo trồng, chăn nuôi. Đời sống ổn
định và phát triển.
Về chính trị xà hội: chế độ thiện nhợng bị bÃi bỏ, thay
vào đó là chế độ tập vơng vị, xà hội bắt đầu xuất hiện
giai cÊp.
Thêi kú thø ba: Sù tµn lơi cđa x· héi nô lệ và sự hình
thành xà hội phong kiến Trung Quốc (khoảng thế kỷ thứ V trớc
công nguyên đến thế kỷ thứ III trớc công nguyên), còn gọi là
thời kỳ Xu©n thu- ChiÕn quèc.


2



Về sản xuất vật chất: kinh tế phát triển mạnh, có sự
phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất, tạo ra một
loạt các ngành nghề mới nh: luyện kim, đúc, rèn sắt, nghề
mộc, nhuộm v.v..
Về chính trị xà hội: đây là thời kỳ phong kiến hoá xÃ
hội Trung Quốc, quyền lực nhà Chu ngày một suy giảm, chiến
tranh xảy ra liên tục và tàn khốc làm cho đời sống của nhân
dân vốn đà cùng cực lại càng khốn khó hơn, trật tự xà hội bị
đảo lộn. Từ đó làm xuất hiện nhiều quan điểm, t tởng
chính trị xà hội khác nhau, trong đó có t tởng triết học.
Thời kú thø t: tõ thÕ kû thø III tríc c«ng nguyên đến trớc
cách mạng Tân Hợi năm 1911.
Về kinh tế: đây là thời kỳ hoàn thiện quan hệ sản xuất
phong kiến.
Về chính trị xà hội: tơng đối ổn định và phát triển.
Với tính cách là một hình thái ý thức x· häi, sù ph¸t
sinh, ph¸t triĨn cđa t tëng triÕt học Trung Quốc gắn liền với
quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế, xà hội và sự phát
triển của khoa học. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại hình
thành từ cuối thiên niên kỷ thứ II, đầu thiên niên kỷ thứ I trớc
công nguyên và phát triển rực rỡ nhất ở thời kỳ Xuân thuChiến quốc. Đặc trng chủ u nhÊt cđa t tëng triÕt häc Trung
Qc cỉ, trung đại là đều có xu hớng giải quyết những vấn
đề thực tiễn chính trị- đạo đức xà hội. Tuy nhiên, họ cũng
đặt ra và giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của triết
học, tiêu biểu có các trờng phái: Thuyết âm dơng- ngũ hành,
nho gia(nho giáo), đạo gia, mặc gia, pháp gia. Trong đó, t t-


3


ởng triết học nho gia là một trong những t tởng ảnh hởng khá
sâu sắc và rộng rải ở nớc ta.
Nho giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VI trớc công
nguyên, do Khổng Tử, nhà t tỏng vĩ đại của Trung Quốc thời
cổ sáng lập. Đến thời Chiến quốc, nho giáo đợc Mạnh Tử và
Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai hớng khác nhau,
trong đó dòng nho Khổng Mạnh có ảnh hởng rộng rải và
lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và một số nớc lân cận.
Kinh điển của nho giáo gồm có Tứ th (Đại học, Trung
dung, Luận ngữ và Mạnh tử) và ngũ kinh( Lễ, Nhạc, Thi, Th và
Xuân). Hệ thống kinh điển của nho giáo hầu hết viết về xÃ
hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Quốc. Điều đó
chứng tỏ xu hớng biện luận về xà hội, về chính trị, đạo đức
là những t tởng cốt lõi của nho giáo.
T tởng triết học của nho giáo thể hiện trên những phơng diện: bản thể luận, chính trị xà hội và học thuyết về
giáo dục.
Về bản thể luận: nho giáo cho rằng, vạn vật trong vũ trụ
luôn sinh thành, biến hoá không ngừng theo đạo của nó. Sự
vận động và biến đổi của sự vật bắt nguồn từ mối tơng tác
của hai lực âm và dơng trong một thể thống nhất, đó là
thái cực. Tuy nhiên, bên cạnh đó nho giáo cũng thừa nhận có
trời và quỷ thần. Theo họ, trời là lực lợng có ý chí, làm chủ vũ
trụ, chi phối mọi sự biến hoá cho hợp lẽ điều hoà. Khổng Tử
nói: Đạo của ta thi hành ra đợc cũng do mệnh trời, mà bị bỏ
phế vong cũng do mệnh trời hay Than ôi! trời làm mất đạo
ta, Mắc tội với trời không thể cầu ở đâu mà thóat đợc.


4


Còn T MÃ Thiên viết: Phù thiên giả, nhân chi thủ d·”, nghÜa
lµ trêi lµ thủ tỉ cđa con ngêi, trời là cái bất biến, cùng mục
đích với con ngời, con ngời có thể hiểu đợc trời đất. ý của
trời là thiên mệnh, mỗi cá nhân, sự sống chết, phú quý hay
nghèo nàn đều là do thiên mệnh quy định. Mặt khác,
Khổng Tử lại cho rằng con ngời bằng nỗ lực chủ quan của
mình cũng có thể thay đổi đợc cái thiên tính ban đầu. Ông
nói, con ngời lúc sinh ra, cái tính trời phú cho là giống nhau
nhng trong quá trình tiếp xúc, học tậpnó làm cho họ khác
nhau, có kẻ trí, có ngời ngu Tính tơng cận, tập tơng viễn.
Đây là mặt tích cực, chỗ thêm vµo” cđa Khỉng Tư so víi
quan niƯm mƯnh trêi tríc đó. Nhng đôi khi các ông chỉ xem
trời nh là lực lợng tự nhiên, không có ý chí: Trời có nói gì
đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh trởng.
Khổng Tử cũng tin có quỷ thần và cho rằng, quỷ thần là do
khí thiên của trời đất tạo thành, tuy mắt ta không nhìn
thấy, tai ta không nghe thấynhng dờng nh lu động trong
đầu ta, ở bên phải ta, bên trái ta, đâu đâu cũng có. Song
ông lại cho rằng, quỷ thần không có tác dụng chi phối đời
sống con ngời. Vì vậy ông phê phán mê tín, sùng bái quỷ
thần, kêu gọi mọi ngời hÃy chú trọng vào việc làm của mình.
Nh vây, trong quan điểm về thế giới, t tởng nho giáo có
tính chất mâu thuÃn. Một mặt, giải thích thế giới đi từ
chính bản thân thế giới, đó là yếu tố duy vật chất phác và t
tởng biện chứng tự phát. Mặt khác lại thừa nhận có lực lợng
siêu tự nhiên chi phối, quyết định sự tồn tại, vận động và
phát triển của sự vật và con ngời, đó là yếu tố duy tâm.



5

Thực chất đây chính là mâu thuẫn của xà hội Trung Qc
lóc bÊy giê, nã thĨ hiƯn t tëng, t©m lý muốn gạt bỏ quan
niệm thần học nhng không gạt nổi.
Về chính trị xà hội: Từ quan niệm trời là cái bất biến,
cùng mục đích với con ngời, nho giáo chủ trơng xây dựng, tổ
chức đời sống xà hội theo đạo trời (thiên trị). T tởng thiên
trị thể hiện ở chỗ: lấy trời làm cứu cánh cho việc trị nớc
( vua thay trời hành đạo), trị nớc theo luật của tự nhiên (thiên
tạo), còn luật do con ngời đặt ra (nhân tạo) nên hết sức
tránh. XÃ hội không có hiến pháp mới là quan trọng, cái khoá
chắc nhất là không khoá, khoá ở lòng dân.
Nho giáo cho rằng: một xà hội thịnh trị khi xà hội đó có
tôn ti trật tự, dân chúng đợc giáo hoá, htuận trời đất, thuận
lòng ngờingợc lại xà hội sẽ loạn khi lòng ngời xa rời đạo lý,
khinh thị cơng thờng, vua không ra vua, tôi không ra tôi, xÃ
hội không còn tôn ti trật tự.
Để đa xà hội từ loạn thành trị, nho giáo chủ trơng là phải
chính danh. Khổng Tử giải thích: Chinh danh là làm mọi việc
cho ngay thẳng. Chính danh thì ngời nào có địa vị, bổn
phận chính đáng của ngời ấy, trên dới, vua tôi, cha con trật tự
phân minh. Muốn trị nớc điều trớc tiên phải sửa cho chính
danh, vì nếu danh không chính thì ngôn không thuận,
ngôn không thuận thì việc không thành, việc không thành
thì lễ nhạc không hng thịnh, lẽ nhạc không hng thịnh thì
hình phạt không đúng, hình phạt không đúng thì dân
không biết đặt tay làm, đặt chân đứng vào đâu. Đây là
một chủ trơng, một giải pháp, một t tởng trị nớc của nho gi¸o



6

khá tiến bộ, tuy nhiên đằng sau đó là một quy định khắc
khe, thủ tiêu nhân tài, không có ngời làm cách mạng.
Để thực hiện chính danh, nho giáo chủ trơng phải tu
thân theo ngũ luân và ngũ thờng.
Ngũ luân là năm mối quan hệ: vua tôi, cha con,
chồng vợ, anh em, bè bạn. Các luân này nói rất rõ danh
phận của từng ngời. Nừu mỗi ngời thực hiện đúng danh phận
đó sao cho vua ë hÕt phËn vua, t«i ë hÕt phËn t«i, cha ë
hÕt phËn cha, con ë hÕt phËn con…” th× cã chÝnh danh. Mét
x· héi cã chÝnh danh lµ mét x· hội có trậ tự kỷ cơng, thái
bình thịnh trị. Trong năm mối quan hệ đó có ba mối quan
hệ cơ bản là vua tôi, cha con và chồng vợ gọi là tam c ơng.
Ngũ thờng là năm phÈm chÊt cđa con ngêi: nh©n, lƠ,
nghÜa, trÝ, tÝn. Trong việc trị nớc và tu thân, Không Tử đặc
biệt quan tâm đến đức nhân và lễ.
Nhân là đức tính toàn diện, là cái gốc đạo đức của
con ngời. Chữ nhân theo nho giáo bao hàm nội dung hết sức
rộng rÃi. Nhân là thơng ngời, giúp ngời, tôn trọng ngờiÔng
nói: nhân là thơng yêu ngời, nhân là tôn trong ngời hiền,
nhân là lòng ngời, tình ngời, là quan hệ giữa ngời với ngời
v.vnhân còn bao hàm cả đức tính trung, hiếu, cần mẫn,
thật thà, khiêm tốn, dũng cảmthậm chí giết một ngời để
cứu muôn ngời cũng là nhân. Nh vậy, đức nhân trong nho
giáo không chỉ là thơng ngời mà thực chất là đạo làm ngời.
Nhân bao quát nhiều tiêu chuẩn đạo đức nh vậy nên một ng-



7

ời chỉ có một số tiêu chuẩn thì cha có thể đợc coi là ngời có
nhân.
Còn lễ là những phong tục, tập quán, cách thức thờ
cúng, những quy tắc quy định trật tự xà hội và cả thể chế
pháp luật nhà nớc, nh: sinh, tang, tử, hôn, tế lễ, triều sinh,
luật lệ, hình pháp
Lễ quan hệ chặt chẽ với nhân. Nhân là chất, là nội
dung, lễ là lợng, là hình thức biểu hiện của nhân. Vì thế
để đạt đợc nhân, Khổng tử khuyên con ngời ta: chớ xem
điều trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái lễ và chớ
làm điều trái lễ.
Để xây dựng một xà hội yên bình, nho giáo đặt ra yêu
cầu rất cao đối với việc tu thân của mọi ngời, mọi tầng lớp
trong xà hội. Chẳng hạn, đối với bề tôi thì phải trung với vua,
đối với ngời phụ nữ thì phải tam tòng, tứ đức, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử, một lòng thuỷ chúng son sắt, giữ gìn
tiết hạnhquy định rất nghiêm ngặt, hà khắc. Đặc biệt,
nho giáo đặt ra yêu cầu rất cao đối với việc tu thân của các
bậc đế vơng, hiền thần. Quan niệm của nho giáo, Đế vơng
là ngời quán tam tài, ngời kết nối giữa trời đất và con ngời,
ảnh hởng của các Đế vơng sẽ qua các trung gian hiền thần
mà thấu đến bách tính. Bách tính hấp thụ đợc ảnh hởng ấy
sẽ đợc giáo hoá, sẽ đợc hoàn cải. Quan niệm này của nho giáo
rất đề cao vai trò của ngời cán bộ, điều naỳ hoàn toàn phù
hợp với lý luận về con ngời của chủ nghĩa Mác Lênin và của
Đảng ta hiện nay. Cán bộ đảng viên là gốc của mọi công việc,
công việc tốt hay xấu đều do ngời cán bé ®ã tèt hay xÊu,



8

cán bộ là cầu nối giữa đảng với dân, mọi đờng lối, chủ trơng
của Đảng muốn trở thành hiện thực trong cuộc sống đều cốt
yếu quan trọng nhất là qua sự hấp thụ và truyền bá của ngời
cán bộ vào trong dân nh thế nào, nong hay sâu, ít hay
nhiều.
Nh vậy, quan niệm về luân lý, đạo đức, chính trị xÃ
hội của nho giáo nói chung, Khổng Tử nói riêng cã néi dung
hÕt søc phong phó, thèng nhÊt víi nhau và luôn thâm nhập
vào mọi lĩnh vực của đời sống xà hội, nó luôn cố gắng giải
đáp những vấn đề đặt ra của lịch sử. Song do hạn chế bởi
điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp, học thuyết của ông luôn
chứa đựng những mâu thuẫn, giằng co, đan xen giữa
những yếu tố duy vật, vô thần và những yếu tố duy tâm,
giữa những t tởng tiến bộ với những quan điểm bảo thủ,
phản ánh đúng tâm trạng của ông trớc biến chuyển của thời
cuộc.
Về giáo dục: Để đạt tới đạo nhân, nho giáo rất quan
tâm tới giáo dục, nhng do không coi trọng cơ sở kinh tế kỹ
thuật của xà hội, cho nên giáo dục của nho giáo chủ yếu hớng
vào rèn luyện đạo đức của con ngời. Họ cho rằng vua (nhà nớc) phải biết dỡng dân, giáo dân và chính mình.
Dỡng dân là lo cho dân có cuộc sống no đủ. Mạnh Tử
còn tiến bộ hơn ở t tuởng dân vi quý, quân vi khinh, xà tắc
thứ chi. Ông chủ trơng chia ruộng cho dân theo chế độ
tỉnh điền.
Giáo dân là giáo dục cho dân đạo lý là ngời. T tởng
trăm năm trồng ngời của Khổng Tử là nhằm đào tạo lớp ngời



9

quân tử lấy đức làm chính. Hay t tởng Tiên học lễ, hậu học
văn, học phải đi đôi với hành. Trong giáo dục, Khổng Tử rất
coi trọng sự nêu gơng của các tầng lớp vua quan và đặc biệt
là chủ trơng mở trờng lớp cho tất cả mọi ngòi Hữu giáo vô
loại dạy học cho mọi ngời, không phân biệt đẳng cấp là t
tởng rất tiến bộ của Khổng Tử. Nó không chỉ có giá trị đối
với đất nớc Trung Hoa mà còn có ý nghĩa giáo dục đối với
nhiều nớc trên thế giới, nó không chỉ có giá trị trong thời kỳ
cổ đại mà còn có ý nghĩa và giá trị thực tiễn thời đại rất
cao.
Giáo dục trong nho giáo chú ý cả ngời dạy và ngời học,
đặc biệt đối với ngời dạy họ rất đề cao và tôn vinh thành
s phụ. Do vậy, yêu cầu rèn luyện, tu dỡng trình độ năng lực
và đạo đức đối với ngời thầy rất nghiêm khắc. Ngời thầy
phải là ngời thực sự có đức và tài, cái tâm phải trong sáng,
khách quan, trung thực, phơng pháp phải mềm dẻo, linh
hoạtngời trò, học phải nghiêm túc, ý chí quyết tâm cao,
thật thà khiêm tốn, biết tôn kính nhất tự vi s, bán tự vi smột chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy, thậm chí cả ngời làm sai cũng xem là thầy để từ đó rút kinh nghiệm cho
bản thân.
Nguyên tắc đối với ngời học là phải tích cực, tự giác;
học mới kết hợp với ôn cũ; học phải hỏi, trao đổi, tranh luận;
vào lớp phải gạt bỏ những u t, phiền toái, thực sự khoan thai,
ung dung tơi tĩnh; học phải lấy cái hành làm đầu
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, tiến bộ về giáo dục
của nho giáo cũng có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn,



10

Khổng Tử quan niệm đối với dân việc gì cần làm thì cứ
sai khiến ngời ta làm, không nen giảng giải vì dân không có
khả năng hiểu đợc nghĩa lý sâu xa hay ngời quân tử có
khi phạm điều bất nhân, chứ cha từng thấy kẻ tiểu nhân mà
làm đợc điều nhânRõ ràng, đằng sau hạt nhân hợp lý
của Khổng Tử lại ẩn chứa sự phân biệt thứ bậc, đẳng cấp xÃ
hội mà ông hầu nh không thể thoát ra khỏi thiên kiến và sự
ràng buộc khắc khe đó. Đây cũng chính là một trong những
nét dặc trng trong t tởng đạo đức của nho giáo.
Triết học Trung Quốc là một nền triết học có truyền
thống lịch sử lâu đồi, hình thành từ cuối thiên niên kỷ thứ II
trớc công nguyên và nó phat triển rực rỡ nhất vào thời kỳ quá
độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên xà hội phong kiến . Đây là
thời kỳ loạn lạc, chiến tranh xảy ra liên miên và tàn khốc.
Chính điều đó là một trong những nguyên nhân quan trọng
và trực tiếp làm nảy sinh những nhà t tuởng vĩ đại, hình
thành những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh và là cơ sở
xuất phát điểm cho toàn bộ các quan điểm, các trờng phái
triết học sau này.
Trong tất cả những lĩnh vực đa dạng mà triết học Trung
Quốc đề cập tới thì vấn đề chính trị xà hội, đạo đức, luân
lý đợc các nhà t tởng chú ý quan tâm nhiều nhất. Họ lý giải
những vấn đề đó bằng nhiều cách khác nhau nhng chung
quy là để tìm ra câu trả lời lớn của thời đại đặt ra là làm
thế nào để đa xà hội từ loạn thành trị. Trong đó t tởng triết
học của nho giáo là một trong những trờng phái có ảnh hởng



11

khá rộng rÃi, sâu sắc và lâu dài nhất không chỉ ở Trung
Quốc mà cả các nớc lân cận.
Việt Nam là một nớc có lịch sử văn hoá lâu đời và phát
triển khá rực rỡ thể hiện qua các dụng cụ, đồ trang sức, trống
dồng, thành quách v.vbên cạnh những truyền thuyết, thần
thoại, tín ngỡng, tôn giáo cũng khá phát triển. Tuy nhiên, do
điều kiện địa lý thuận lợi trong quan hệ giao lu buôn bán với
các nớc trong khu vực; do bị phong kiến phơng Bắc xâm lợc
hàng ngàn năm, cho nên sự phát triển của nền văn hoá nớc ta
chịu ảnh hởng khá lớn của văn hoá nớc ngoài, trong đó có
Trung Quốc.
Sự ảnh hởng của t tởng triết học Trung Quốc vào Việt
Nam diễn ra khá phức tạp: có thể là sự ảnh hởng trực tiếp
của một trờng phái cụ thể, có thể là sự ảnh hởng ®an xen
cđa nhiỊu trêng ph¸i, b»ng nhiỊu con ®êng kh¸c nhau, trong
đó t tởng triết học nho giáo là một trong những trờng phái có
ảnh hởng rtộng lớn và lâu dài nhất.
Nho giáo vào nớc ta khá sớm từ những năm cuối trớc công
nguyên, chủ yếu bằng con đờng xâm lợc, với mục tiêu dùng
nho giáo nh một vũ khí nhằm đồng hoá dân tộc ta, biến nớc
ta thành một bộ phận của Trung Quốc. Bằng thủ đoạn dạy học
mhmg thực chất là truyền nho giáo vào nớc ta, ép dân ta
phải theo phong tục của chúng. Do lợi ích của kẻ xâm lợc, nho
giáo vào nớc ta bằng con đờng này đà bị xuyên tạc đi nhiều,
những yếu tố tích cực mang tính nhân loại hầu nh bị loại
bỏ.



12

Bên cạnh con đờng xâm lợc, nho giáo còn đợc truyền bá
vào nớc ta bởi các nhân sỹ, danh nho từ Trung Quốc do lánh
nạn, di c hoặc đối lập với quan điểm chính trị của nhà nớc
nên chạy sang Việt Nam mở trờng học kiếm sống. Hơn nữa,
bằng con đờng này, nho giáo còn ít nhiều giữ đợc giá trị
tích cực, phổ biến, mang tính nhân loại của nó.
Lịch sử nớc ta cho thấy, mặc dù thời kỳ đầu cho đến
Tiền Lê, nho giáo ở nớc ta có sự phát triển nhất định, song nó
cha chiếm u thế trong đời sống tinh thần của nhân dân ta,
kể cả trong các tầng lớp trên của xà hội. Sở dĩ nh vậy là vì:
nho giáo là hệ t tởng của giai cấp phong kiến, nó bảo vệ cho
lợi ícg của giai cấp phong kiến, vì vậy chỉ có tầng lớp trên
mới cần đến nho giáo, còn nhân dân với đời sống lam lũ,
giản dị của mình nên không cần thiết đến nhu cầu nho
giáo. Vả lại, muốn thu nhận nho giáo thì phải dày công học
tập, trong khi đó theo đạo Phật, Đạo giáo và tín ngỡng bản
địa sẽ dể dàng hơn.
Với tính cách là hệ thống lý luận chính trị xà hội ngoại
nhập, nên nho giáo đà bị nhân dân ta xem nh một của kẻ
xâm lợc nhằm đồng hoá dân tộc ta. Vì thế, một mặt họ
bảo vệ những t tởng, tín ngỡng, phong tục, tập quán của
mình, đồng thời đấu tranh quyết liệt để loại bỏ nó ra khỏi
đời sống của nhân dân ta.
Đối với các tầng lớp trên, trong buổi đầu nhà nớc phong
kiến dân tộc vừa mới đợc xây dựng nên còn phải chống cả
thù trong và giặc ngoài, triều đình cha có điều kiện để
phát triĨn viƯc häc. ViƯc häc lóc ®ã chđ u do nhµ chïa



13

đảm nhiệm, vì vậy nhà nớc phong kiến sử dụng nhân tài
đa phần là từ nguồn Phật giáo, Đạo giáo, còn nho giáo cha đợc
chú ý.
Khi nhà Lý đợc thành lập, đời sống kinh tế xà hội phát
triển, triều dình có điều kiện mở mang học vấn, nho giáo
theo đó mà có bớc phát triển đáng kể, dần dần nhà Lý thấy
đợc lợi ích của nho giáo cho sự thống trị của mình, do vậy
họ đà tích cực truyền bá và đề cao nho giáo. Đến nhà Trần,
nho giáo tiếp tục phat triển mạnh mẽ, nhiều trờng lớp đợc mở.
Từ nhà Lê trở đi, nho giáo trở thành quốc giáo của nớc ta. Từ
đây, nho giáo đợc xem nh một học thuyết triết học và
chính trị xà hội không thể thay thế đợc ở nớc ta. Đến thế kỷ
thứ XX, chính quyền thực dân Pháp và nhà nớc phong kiến ở
nớc ta đà huỷ bỏ chế độ học tạp và thi cử nho giáo. Tuy nhiên,
nho giáo vẫn còn ảnh hởng lâu dài đến xà hội và con ngời
Việt Nam.
Là một học thuyết triết học và chính trị xà hội tồn tại
hàng nghìn năm, nho giáo có những điều đáp ứng đợc nhu
cầu phát triển của xà hội và con ngời, do vậy nó có giá trị
phổ biến toàn nhân loại. Điều đó đợc thể hiện trên các nội
dung cơ bản sau:
Một là: Nho giáo đòi hỏi con ngời trong cuộc sống phải
giải quyết các mối quan hệ theo bản tính ngời của mình. Họ
đề cao con ngời với tính cách là sản phẩm cao nhất của sự
phát triển, vì vậy đối xử với con ngời phải khác về chất víi
con vËt.



14

Hai là: Nho giáo yêu cầu phải biết tôn trọng sự sống và
giá trị sự sống của con ngời.
Ba là: Nho giáo chấp nhận khát vọng hạnh phúc của con
ngời và cố hết sức tìm cách đáp ứng khát vọng đó, dù rằng
đây chỉ là con ngời trong hệ quy chiếu cổ đại (Nô lệ hoặc
Phong kiến). Khát vọng về hạnh phúc của con ngời theo nho
giáo nó gắn liền với khát vọng hoàn thiện nhân cách và hoàn
thiện nghĩa vụ làm ngời mà nho giáo gọi là thành nhân.
Khát vọng đó luôn gắn liền với đời sống hiện thực của họ,
thông qua các quan hệ của họ với cộng đồng làng, xÃ.
Những giá trị phổ biến toàn nhân loại đó đà ảnh hởngmột cách cực kỳ sâu xa và mạnh mẽ đến tâm thức con
ngời Việt nam nói chung và tạo thành một nét đẹp văn hoá
đợc bảo tồn cho đến ngày nay.
Điều liên quan mật thiết với việc xác định và nhận diện
ảnh hởng của nho giáo đối víi con ngêi ViƯt Nam hiƯn nay tríc hÕt ®ã là ảnh hởng của nho giáo trong quan niệm về hạnh
phúc của con ngời và về phơng thức đạt tới hạnh phúc đó.
Bởi vì, xét toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại thì từ xa tới
nay quan niệm về hạnh phúc và về phơng thức đạt tới hạnh
phúc đó cđa con ngêi vèn ®· chi phèi cc ®êi cđa con ngời
từ lối sống đến tâm linh, từ hành vi mu sinh đến văn hoá
ứng xử với đồng loại và cả với chính bản thân mình. Có thể
nói, lối sống của ngời phơng Đông khác ngời phơng Tây,
thậm chí ngay trong một quốc gia lối sống của ngời này cũng
khác lối sống của ngời kia. Điều đó xét đến cùng là do có
quan niệm khác nhau về hạnh phúc và về phơng thức đạt tới



15

hạnh phúc của mỗi ngời và mỗi quốc gia dân tộc trong từng
điều kiện lịch sử cụ thể.
Nho giáo cho rằng, con ngời phải tự phân biệt với thế
giới động vật. Con ngời càng tiến hoá thì khoảng cách giữa
con ngời với động vật càng xa. Giới hạn trong phạm vi gia
đình, thái độ con ngời đối xử với nhau phải khác thái độ con
ngời đối xử với động vật. Khổng Tử kịch liệt chống lại việc
coi nuôi con vật giống nh nuôi con ngời. Ông khẳng định
Đời nay, hễ tháy ai nuôi đợc cha mẹ thì ngời ta khen là ngời
có hiếu. Thế nhng, những loài thú nh chó, nh ngựa còn có
thể đợc ngời ta nuôi nữa huống chi là cha mẹ. Cho nên nuôi
cha mẹ mà chẳng có lòng kính trọng thế thì lấy gì để
phân biệt việc loài chó, loài ngựa vẫn đợc ngời ta nuôi và
việc cha mẹ đợc con cái nuôi nào?. ý của Khổng Tử và nho
giáo là chuẩn mực của hiếu không phải là ở chỗ nuôi cha mẹ
mà chính là ở chỗ việc nuôi đó phai có giá trị ngời giá trị
nhân văn mà nho giáo gọi là kính để phân biệt với việc
nuôi thú vật. Tức con ngời phải biết nhớ, biết suy nghĩ về
quá khứ và tơng lai. Quan hệ trong một loài, chỉ có con ngòi
mới có ý thức về dòng dõi, về bố mẹ, ông bà, tổ tiên, cũng
nh về con cái cháu chắt của mình. Gia đình là sợi dây
huyết thống đợc duy trì lâu bền trong không gian và thời
gian. Đó cũng chính là tính ngời, một đặc trng nhân văn mà
nho giáo rất coi trọng. Hơn nữa, từ tính ngời ấy sẽ dẫn tới
tình ngời, tới quan hệ nhân loại,bắt đầu từ trong gia đình.
Thiếu điểm xuất phát này con ngời sẽ không trở thành ngời
đợc. Gia đình cũng chính là hình thái căn bản nhất để tạo



16

thành mọi hình thái xà hội. Tình yêu gia đình là mầm mống
duy nhất phát triển thành tình yêu quê hơng và các đức
tính nhân ái xà hội khác.
Con ngời trong nho giáo là con ngời có và phải có ý thức
về gia đình, về cộng đồng,về quốc gia, về sự tiến hóa văn
minh do các thế hệ kế tiếp nhau tạo nên. Giá trị nhân văn
này mang ý nghĩa toàn nhân loại. Tuy hàng ngàn năm bị bó
chặt trong hệ quy chiếu của thời nô lệ và phong kiến nhng ý
nghĩa toàn nhân loại ấy vẫn không hề mai một. Nhờ đó mà
hàng bao nhieeu thế kỷ trôi qua, với biết bao biến loạn, chién
tranh và chết chóc, đói khát và ốm đau, tật nguyền nhng vợt
lên trên tất cả những thứ đó, con ngời vẫn tiếp tục tồn tại sao
cho thế hệ sau kế thừa và phát triển hơn thế hệ trớc.
ảnh hởng của yếu tố này rất sâu xa và mạnh mẽ trong
tâm thức ngời Việt Nam và tạo thành một nếp văn hoá cho
đến ngày nay, vô luận trật tự kỷ cơng xà hội và gia đình có
khủng hoảng trầm trọng đến thế nào, nhng bất cứ một sự
hỗn hào, bạc đÃi của bất cứ ai, ở thứ bậc xà hội nào, đối với
cha mẹ và ông bà đều bị phản đối và coi khinh.
Một t tởng triết học nho giáo đợc con ngời Việt Nam hấp
thụ và phát triển khá rõ nét là tinh thần yêu nớc, tinh thần
đấu tranh bảo vệ sự sống, bảo vệ sinh mạng của con ngời.
Đọc kỹ Bài thơ thần của Lý Thờng Kiệt hay Bình ngô đại
cáo của Nguyễn TrÃi ta thấy toát lên đức hiếu sinh tuyệt
vời trong t tởng của ngời Việt Nam ta.
Vấn đề đáng chú ý là nho giáo yêu cầu phải tôn trọng
sự sống của con ngời nhng đồng thời cubgx đòi hỏi con ngêi



17

đà sinh ra là ngời mà muốn sống cho ra ngời thì ít nhất
không thể sống lời biếng. Điều này nói lên con ngòi sống phải
mang tính xà hội, tách khỏi xà hội thì có nghĩa là tụ phủ
nhận ý nghĩa và giá trị làm ngời của mình để chung bầy
với loài cầm thú. Dođó, con ngời trớc hết là con ngòi của
bổn phận, của nghĩa vụ, vừa không thể sống cẩu thả cầu
may, vừa không thể sống lấy một mình đợc
Vận dụng ý nghĩa và giá trị này của nho gi¸o, cïng víi lý
ln cđa chđ nghÜa M¸c – Lênin, Đảng và Nhà nớc ta xác định
con ngồi là vèn q nhÊt, lÊy viƯc phơc vơ con gnêi lµ mục
đích cao nhất của mọi hoạt động, lấy sự quan tâm đến con
ngời và thái độ tôn trọng lẫn nhau là tiêu chuẩn đạo đức
trong mọi hoạt động kinh tế, vn hoá, xà hội.
Một giá trị toàn nhân loại khác của nho giáo có ảnh hởng
sâu đậm trong ý thức và tâm thức ngời Việt Nam đến tận
ngày nay, đó là khát vọng hạnh phúc của con ngời Việt Nam.
Mặc dù trong nho giáo, khát vọng hạnh phúc của con
ngời bị chế ớc nặng nề trong lễ giáo, nhng ở thời đại hiện
nay chúng ta khó có thể phủ nhận tính nhân văn mang giá
trị nhân loại của nó. T tởng vơn tới hạnh phúc và khát vọng
hạnh phúc của nho giáo, đặc biệt là t tởng của Mạnh Tử. T tởng của ông đà tác động mạnh mẽ tới sự hình thành t tởng
của các sỹ phu Việt Nam từ cuối thời Trần. Điều cần quan
tâm là khát vọng hạnh phúc ấy còn đi sâu vào đời sống các
làng mạc xa nay của ngời nông dân Việt Nam. Khát vọng ấy
đợc chế định thành những quy phạm tâm lý và chuyển
thành những hình ảnh rất quen thuộc với tâm thøc n«ng



18

dân, nh : luỹ tre, giếng nớc, mái đình, cây đa, bàn thờ tổ
tiên, nhà thờ họ, nén nhang ngày giỗ, ngày tết cho đến bát
canh cho ngời già, tấm áo mới cho con trẻ v. vtất cả những
cái đó tạo thành bức tranh văn hoá đậm đà bản sắc dân
tộc, nó không chỉ thể hiện khát vọng hạnh phúc của ngời
nông dân cổ xa, mà còn nói lên t tởng, quan niệm hạnh phúc
của ngời nông dân Việt Nam hiện nay.
Nho giáo còn có vai trò hết sức to lín trong kiÕn t¹o, tỉ
chøc thiÕt chÕ x· héi phong kiến Việt Nam, nó góp phần xây
dựng các triều đại phong kiến vững mạnh, bảo vệ chủ quyền
độc lập dân tộc.
Tuy nhiên, do là hệ t tuởng của giai cấp thống trị phơng
Đông, là lý luận nhằm duy trì, bảo vệ chế độ phong kiến,
nho giáo đà không thừa nhận bất cứ một t duy và hành động
cách mạng nào của con ngời. Đây là mặt tiêu cực, là hạn chế
cố hữu của nho giáo. Nó góp phần không nhỏ trong việc duy
trì quá lâu chế độ phong kiến, kìm hÃm quan hệ kinh tế t
bản phát triển ở nớc ta. Dới ảnh hởng của nho giáo, truyền
thống tập thể đà biến thành chủ nghĩa gia trởng, độc đoán,
chuyên quyền. Nho giáo thủ tiêu đấu tranh, làm cản trở cách
mạng, không phát huy đợc tính năng động sáng tạo của con
ngời, không khuyến khích thúc đẩy sự phát triển của cac
ngành khoa học tự nhiênnho giáo thực sự là trở lực kìm nén
sự phát triển của xà hội và con ngời Việt Nam. Vấn đề này
Chủ tịch Hồ Chí Minh kgẳng định : Lý luận của Khổng Tử
là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và về sự trang

nhÃ. Về căn bả chủ nghĩa Khổng Tử chỉ là sự bình yên trong


19

xà hội không bao giờ thay đổi. Những mặt tiêu cực đó
phản ánh đúng tính chất bảo thủ và lạc hậu của nho giáo ở nớc ta.
Tóm lại: Để trở thành hệ t tởng của các vơng triều
phong kiến Trung Quốc, nho giáo đà có một quá trình phát
triển liên tục với những nội dung rất phong phú và phức tạp.
Từ một học thuyết chính trị - đạo đức, nho giáo trở thành,
trong đó triết học, chính trị - đạo đức và tôn giáo kết hợp
chặt chẽ với nhau. Với t cách là một hiện tợng tinh thần, đặc
điểm của nho giáo phản ánh đúng đặc điểm của lịch sử xÃ
hội Trung Quốc. Nghiên cứu nội dung của ho giáo, bên cạnh
khẳng định mặt hạn chế là căn bản, chúng ta cũng thấy đợc nhân tố tích cực, thể hiện khả năng quan sát tinh tế,
trình độ t duy khái quát cao và những giá trị nhân văn sâu
sắc của nhân dân Trung Quốc thời cổ, trung đại. So với cac
trờng phái khác, nho giáo có ảnh hởng rõ rệt nhất trong mọi
mặt của đời sống xà hội không chỉ của Trung Quốc mà cả
những nớc ảnh hởng văn hoá Trung Quèc.



×