Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của nho gia tiên tần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.32 KB, 10 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------o0o------

NGUYỄN PHƢƠNG THẢO

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẾ
CỦA NHO GIA TIÊN TẦN
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS. TS. Nguyễn Tài Thƣ

HÀ NỘI - 2008


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho gia là một hệ thống tư tưởng lớn, có vị trí quan trọng trong văn hoá truyền thống của Trung
Quốc và các nước Đơng Á, trong đó có Việt Nam. Tuy phải trải qua nhiều thăm trầm nhưng về cơ bản,
Nho gia đã chiếm vị trí thống trị trong xã hội phong kiến trước đây, là công cụ để giai cấp thống trị quản
lý quốc gia. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chúng ta cũng không thể phủ định sự tồn tại và ảnh hưởng
sâu sắc của hệ thống tư tưởng này đối với mọi mặt của đời sống. Do đó, việc nhận thức, nghiên cứu và
chọn lọc tiếp thu những tinh hoa tư tưởng để phục vụ cho con người, xã hội hiện đại là một vấn đề rất cần
thiết và có tính chiến lược lâu dài.
Về mặt lý luận, tư tưởng của Nho gia, đặc biệt là tư tưởng của Khổng Tử đã và đang được quan
tâm nghiên cứu rất sơi nổi. Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều những cơng trình nghiên cứu về mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại này như: Nho gia và kết cấu nhân cách lý tưởng, Nho gia và hình


tượng người trí thức, Nho gia và vấn đề tu dưỡng cá nhân, Nho gia và luân lý gia đình và Nho gia với
quản lý hiện đại,... Mục đích của những nghiên cứu này là góp phần khai thác tinh hoa truyền thống, làm
cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn và phát triển bền vững.

Hiện nay nhiều nước chịu ảnh hưởng của Nho gia đã nghiên cứu kết hợp giữa
tư tưởng kinh tế của Nho gia nói chung và Khổng Tử nói riêng với kinh tế hiện đại,
nhằm tạo ra phương cách quản lý phù hợp với hoàn cảnh văn hố, xã hội đặc thù của
nước mình. Và Việt Nam hiện nay cũng đã bước đầu quan tâm, đề cập đến đề tài này
ở một số góc độ, trong đó có góc độ kinh tế.
Tư tưởng Nho gia Tiên Tần chứa đựng những lý luận kinh tế và nguyên tắc
quản lý kinh tế rất có giá trị, mặc dù họ chỉ xem kinh tế là một thuộc tính của tư tưởng
chính trị - đạo đức, là điều kiện để đạt đến mục tiêu chính trị. Nhà Nho rất coi trọng
đạo đức con người và xã hội. Tinh thần này ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng kinh tế của
họ. Họ cho rằng tăng trưởng kinh tế ngoài biện pháp kinh tế còn phải cần đến các biện
pháp khác như chính trị, đạo đức.
Về mặt thực tiễn, sản xuất hàng hoá và cơ thế thị trường là động lực làm cho dân giàu nước mạnh,
nhưng đồng thời cũng có thể là nguyên nhân cho con người bị tha hoá, bị biến chất, chỉ biết quyền lợi ích
kỷ của bản thân. Hơn một thập kỷ trở lại đây, trước những biến động hết sức phức tạp của đời sống xã


hội, khơng chỉ ở nước ngồi, trong giới nghiên cứu Việt Nam đã có xu hướng đặt lại, nghiên cứu trở lại
vấn đề Nho gia trên tinh thần phê phán nhằm gạn lọc, tiếp thu những nhân tố hợp lý, những giá trị chung
của Nho gia.
Trong thời đại hiện nay, kinh doanh không chỉ đơn thuần là hoạt động để sinh ra lợi nhuận mà còn
để nâng cao đời sống cho con người cả về vật chất và tinh thần, hướng tới yếu tố văn hoá. Thực tế cho
thấy chỉ có con đường phát
triển nền kinh tế gắn liền với văn hoá, đạo đức mới đảm bảo sự phát triển bền vững cho mỗi quốc gia.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tầm quan trọng của văn hoá, đạo đức ngày càng được khẳng
định vững chắc hơn. Ngày nay, chính phủ các quốc gia trên thế giới đều ý thức được rằng chỉ có thể đạt
được sự phát triển bền vững trên nền tảng một xã hội có văn hố, đạo đức. Nếu muốn đứng vững trước sự

cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thì nhà kinh doanh không chỉ phải trang bị kiến thức, cơng
nghệ mà cịn cần trang bị một nền tảng văn hố, đạo đức vững chắc cho chính mình. Đó chính là vấn đề
xây dựng đạo đức trong kinh tế thị trường, mà tư tưởng Nho gia là một hướng được quan tâm.
Vì vậy, lựa chọn đề tài “Một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của Nho gia tiên Tần”, tác giả hy
vọng sẽ khai thác được những yếu tố tích cực của kho tàng tri thức Nho gia vơ giá, từ đó giúp cho chúng
ta có được một nguồn vốn nhân văn đa tầng, đa diện có ý nghĩa đối với q trình phát triển, hồn thiện
các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam ngày nay, trong đó có lĩnh vực kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu
Các đề tài về sự chuyển biến mới của Nho gia trong xã hội hiện đại, sự kết hợp giữa tư tưởng Nho
gia với các lĩnh vực trong thực tiễn cuộc sống đã được giới học thuật nghiên cứu, bàn luận rất sôi nổi
trong một thời gian dài gần đây. Tư tưởng Nho gia với kinh tế hiện đại cũng là một trong số những vấn đề
thu hút được nhiều sự quan tâm, chú ý.
Ở Trung Quốc quê hương của Khổng Tử và Nho gia, vấn đề cũng đã được tích cực nghiên cứu
với mục tiêu kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, trên cơ sở đó tìm ra phương hướng cho lý luận và
phương thức quản lý kinh tế mang đặc sắc Trung Quốc. Cho tới nay, các học giả Trung Quốc đã cho ra
đời rất nhiều tác phẩm, cơng trình nghiên cứu về tư tưởng Nho gia và kinh tế hiện đại có giá trị.
Nho gia và sự phát triển kinh tế là vấn đề được rất nhiều người quan tâm, chú ý đặc biệt là từ sau
khi Nhật Bản, một nước có truyền thống Nho giáo, có sự phát triển thần kỳ về kinh tế và nhất là từ khi
xuất hiện bốn con rồng kinh tế mới ở châu Á. Thực tế cho thấy Nhật Bản và bốn nước công nghiệp phát
triển trên - vốn là những nước tôn sùng Nho gia trong quá khứ và hiện nay - có sự phát triển kinh tế nhanh
chóng, trong khi các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á - phê phán Nho gia - lại có nền kinh tế phát triển
chậm. Chính hiện tượng này đã dẫn đến hai quan điểm trái ngược nhau:


* Quan điểm thứ nhất phủ nhận vai trị tích cực của Nho gia đối với sự phát triển kinh tế. Phần
nhiều các học giả của Việt Nam nghiêng theo quan điểm này. Nhiều cơng trình nghiên cứu gần đây cho
rằng Nho gia từ Khổng Tử trở đi ít bàn, ít quan tâm đến vấn đề kinh tế, đến lợi ích vật chất mà chỉ tập
trung vào vấn đề chính trị, đạo đức. Trong "Nho giáo xưa và nay", tác giả Trần Đình Hượu cho rằng:
"Những vấn đề kinh tế khơng được đặt ra theo góc độ kinh tế mà theo góc độ chính trị xã hội, được giải

quyết khơng theo cách kinh tế mà theo cách đạo đức, hành chính. Nếu khơng làm được cho mọi người no
ấm hơn thì cũng làm cho mọi người vui với cảnh nghèo khổ trong trật tự phận vị" [18, 100].
Giáo sư Hoàng Việt cũng có tư tưởng tương tự, ơng cho Nho gia khơng thể đóng vai trị gì trong
sự phát triển kinh tế ở Việt Nam [18, 206 - 216].
Tác giả Tương Lai, trong bài viết "Đạo đức và vấn đề thực hiện ba lợi ích", tạp chí Văn hố Nghệ
thuật số 5, 1982 nói rằng: "Nho giáo đối lập đạo đức với lợi ích, đặc biệt là lợi ích vật chất".
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng: "Nho giáo với tính chất giáo điều duy tâm và bảo thủ như trên, vốn
là sản phẩm của trì trệ đất nước, lại trở thành nhân tố củng cố thêm sự trì trệ ấy. Tóm lại, nó cùng với chế
độ quan liêu và nền kinh tế xã hội Việt Nam tạo nên cái kiềng ba chân của tình trạng lạc hậu lâu dài trên
đất nước Việt Nam" [18, 336].
Giáo sư Trần Văn Giàu, trong bài viết "Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam",
Tạp chí Triết học số 1, 1987 cho rằng Nho gia cản trở tiến trình hiện đại hố. Có tác giả cho rằng Nho gia
về cơ bản mâu thuẫn với văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam và chữ Hán, Nho gia không thuộc
truyền thống dân tộc.
Tác giả Hà Thúc Minh thì khẳng định: "Khơng thể cho Nho giáo là động lực phát triển kinh tế
của Việt Nam hiện nay được" và "đối với các nước đang trong tình trạng kinh tế chậm phát triển, thực ra
khơng cần kỳ vọng gì vào động lực Nho giáo" [28, 24]. Ông cho rằng Nho gia vào thời kỳ của nó cũng
chưa là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, thì ngày nay, đối với nền kinh tế thị trường thì càng khó có
thể coi Nho gia là một động lực phát triển kinh tế. Nho gia đối lập đạo đức với kinh tế "Vi nhân bất phú,
vi phú bất nhân", Nho gia đã cho rằng có cái nọ thì khơng có cái kia.
Như vậy, nhìn chung các học giả của Việt Nam phủ nhận vai trị tích cực của Nho gia đối với sự
phát triển kinh tế.
* Quan điểm thứ hai: Một số nhà nghiên cứu thế giới thì lại có quan điểm khác. Nhà Đơng
phương học người Pháp, L.Vandermensch cho rằng Nho gia đã làm cho kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc
phát triển nhanh, còn Việt Nam sở dĩ kinh tế phát triển chậm vì Nho gia ở Việt Nam không phát triển
bằng hai nước trên [18, 84].
Một giáo sư trường Đại học Kim Sơn, Hàn Quốc, ơng Kim Nhật Tân nói: "Nho giáo là nền văn
hoá quan trọng nhằm thúc đẩy kinh tế các nước Đông Á phát triển" [18, 303].



Một giáo sư Viện Dân tộc Trung ương của Đài Loan, ơng Ngưu Kim Chung, cho rằng: "Nho giáo
ít nhất khơng gây trở ngại cho việc hiện đại hố và thậm chí nó cịn có tác dụng tích cực" [18, 304].
Nhà nghiên cứu Nhật Bản Michi Morishima, trong cuốn "Chủ nghĩa tư bản và Nho giáo", cho
rằng Nho gia nằm trong di sản văn hố, nếu khinh rẻ nó thì sẽ khơng có sự phát triển [18, 300].
Song nhiều người cho rằng Nho gia không phải là động lực trực tiếp đối với kinh tế, nhưng theo
họ, nó tác động một cách gián tiếp đến sự phát triển kinh tế thơng qua con người. Điều đó thể hiện ở chỗ
nó góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của con người, nó góp phần xác lập mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội. Nho gia không đề cao chủ nghĩa cá nhân mà đề cao tính cộng đồng, Nho gia không đề cao cuộc
sống hưởng thụ mà đề cao tinh thần tự lực, tự cường, ý chí cống hiến (Nghĩa) cho xã hội, chứ khơng phải
ý thức địi hỏi hưởng thụ (Lợi). Thực tế phát triển kinh tế của Nhật Bản và bốn con rồng châu Á, hoặc
nhiều, hoặc ít đã chứng minh điều đó, và cho thấy đặc điểm của hoạt động kinh tế theo kiểu phương Đông
là kết hợp kinh tế thị trường với đạo đức Nho gia.
Tóm lại, hai quan điểm trên mâu thuẫn với nhau và mỗi loại đều có lý riêng của nó. Tuy nhiên hai
khuynh hướng tư tưởng này có điểm chung là chưa được trình bày một cách có hệ thống và có luận điểm
cịn khiên cưỡng. Tất cả đều đang địi hỏi được phân tích sâu và hệ thống lại có cơ sở hơn.
Ở Việt Nam, mặc dù vấn đề Nho gia vẫn rất được quan tâm nhưng đề tài Nho gia với phát triển
kinh tế còn khá mới mẻ và chưa được đi sâu nghiên cứu nhiều. Hiện mới chỉ có một số tác phẩm dịch có
liên quan đến đề tài như cuốn: “Khổng Tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh hiện đại” của tác giả Trung
Quốc Phan Nải Việt, “Đạo của quản lý” của tác giả Trung Quốc Lê Hồng Lơi,... Những tác phẩm này tuy
có đề cập đến tư tưởng Khổng Tử và quản lý kinh tế hiện đại nhưng chưa được đầy đủ và còn thiếu tính
hệ thống. Trong luận văn này, người viết sẽ đi sâu phân tích các quan niệm đạo đức trong tư tưởng kinh tế
của Nho gia Tiên Tần, trên cơ sở đó vận dụng vào lĩnh vực quản lý kinh tế ở Việt Nam, góp phần vào
cơng cuộc xây dựng đất nước. Mặc dù đây mới chỉ là những nghiên cứu hoàn toàn trên phương diện nhận
thức, nhưng người viết hy vọng luận văn của mình sẽ là đóng góp có ý nghĩa cho những nghiên cứu về
khoa học kinh tế của chúng ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích nghiên cứu: Xuất phát từ Lý do chọn đề tài và Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài, trên cơ sở phân tích một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần, luận văn chỉ ra
những khía cạnh hữu dụng, có ý nghĩa của tư tưởng kinh tế Nho gia Tiên Tần đối với quản lý kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ các vấn đề chủ yếu
sau:


- Cơ sở lý luận của Nho gia Tiên Tần trong giải quyết vấn đề kinh tế.
- Các quan niệm đạo đức trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần và vai trò của chúng trong
quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Triết học Mác - Lênin về xã hội và con người.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của Triết
học Mác - Lênin kết hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học,
phương pháp lơgíc và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp đối chiếu và so sánh,
phương pháp liên ngành khoa học xã hội.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu : một số quan niệm đạo đức trong tư tưởng kinh tế
của Nho gia Tiên Tần có ý nghĩa đối với sự vận hành kinh tế hiện đại.
Phạm vi nghiên cứu :
- Tài liệu nghiên cứu về các nhà Nho Tiên Tần, trong đó chủ yếu là Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân
Tử.
- Tài liệu gốc có liên quan như sách Tứ thư, sách Tuân Tử.
- Luận văn chủ yếu tập trung khai thác một số phương diện đạo đức tích cực, phù hợp với thời đại
và có giá trị của tư tưởng kinh tế Nho gia Tiên Tần, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn khẳng định và làm rõ một số phương diện đạo đức có giá trị trong tư tưởng kinh tế của
các nhà Nho Tiên Tần đối với quản lý kinh tế hiện đại. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm nghiên cứu về quản lý kinh tế và sự chuyển biến mới của Nho gia trong xã hội
hiện đại.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NHO GIA TIÊN TẦN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ KINH TẾ

Tư tưởng quản lý xã hội của Nho gia ra đời từ rất sớm và theo các nhà Nho, tư tưởng ấy có vai
trị quan trọng và hiển hiện trong việc quản lý quốc gia, xã hội cổ đại. Trong tư tưởng quản lý của mỗi
nhà Nho tuy có những điểm khác nhau, song đều mang đậm màu sắc nhân văn, đó là những lý luận quản
lý mang tính chất phổ quát với đặc điểm xuyên suốt là “dĩ nhân vi bản” – lấy con người làm gốc. Ở Nho
gia, vấn đề kinh tế vẫn chưa tách khỏi chính trị - đạo đức, nói cách khác, kinh tế chỉ được nhìn nhận trên
cơ sở chính trị - đạo đức. Do vậy, các nhà Nho Tiên Tần quan niệm rằng, động lực chủ yếu, đòn bẩy để
tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội là ý thức, tư tưởng chính trị - đạo đức. Các nhà Nho Tiên Tần xem
kinh tế là một lĩnh vực của tư tưởng chính trị - đạo đức. Vì vậy, người viết sẽ đi sâu phân tích các vấn đề
mang tính lý luận trong tư tưởng chính trị - đạo đức của các nhà Nho Tiên Tần làm cơ sở cho tư tưởng
kinh tế của họ. Bên cạnh đó, người viết cũng chú ý đến các quan điểm, phương pháp quản lý cụ thể rất đa
dạng và rất có giá trị với quản lý kinh tế hiện đại.
Trước tiên, xét nền tảng nhân tính luận trong tư tưởng của Khổng Tử. Trong nhân tính luận, ơng cho rằng,
tính của con người vốn lành, ngây thơ, mộc mạc nhưng khơng phải là nhất thành bất biến mà có thể thay
đổi, uốn nắn được và khuynh hướng của nó là hướng về tính thiện và con người thơng qua giáo dục, tu
dưỡng để đạt được những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Trên cơ sở đó, Khổng Tử đề ra tư tưởng chung cho
quản lý xã hội với tinh thần nhân đạo


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1938). Khổng giáo phê bình tiểu luận. Nxb Quan hải Tùng thư. Huế.
2. Minh Anh (2000). “Hồ Chí Minh với Nho giáo”. Tạp chí Triết học (số 6), tr 16 - 18.
3. Nguyễn Thanh Bình (2000). “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hồn thiện con người”.

Tạp chí Giáo dục lý luận (số 5), tr 35 - 38.
4. Nguyễn Thanh Bình (2000). “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình đi
lên chủ nghĩa xã hội”. Đăng trong: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2000). Hội
thảo khoa học Kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr 340 -347.
5. Nguyễn Văn Bình (2002). “Quan niệm về Lễ của Nho giáo và những bài học cho chúng ta ngày
nay”. Tạp chí Triết học (số 4), tr 46 - 49.
6. Phan Văn Các (1991). ‘’Việc nghiên cứu Khổng Tử và Nho giáo ở Trung Quốc trong thập kỷ 80”.
Tạp chí Triết học (số 1), tr 61- 65.
7. Dỗn Chính (2001). ‘’Góp phần tìm hiểu tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử”. Tạp chí Triết
học (số 7), tr 24 - 28.
8. Hồng Tăng Cường (2002). “Quan niệm của Nho giáo về nghĩa và lợi“. Tạp chí Triết học (số 4),
tr 50 - 52.
9. Nguyễn Thị Doan chủ biên (1996). Các học thuyết quản lý. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
10. Phan Đại Doãn chủ biên (1998). Một số vấn đề về Nho gia Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà
Nội.
11. Nguyễn Đăng Duy (1998). Nho giáo với Văn hoá Việt Nam. Nxb Hà Nội.
12. Quang Đạm (1994). Nho giáo xưa và nay. Nxb Văn hoá. Hà Nội.
13. Cao Xuân Huy (1995). Tư tưởng triết học phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu. Nxb
Văn học. Hà Nội.
14. Trần Đình Hượu (1997). Đến hiện đại từ truyền thống. Nxb Văn hoá. Hà Nội.
15. Trần Đình Hượu (2001). Các bài giảng về tư tưởng phương Đông. Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội. Hà Nội.
16. Đặng Cảnh Khang (1999). Các nhân tố phi kinh tế xã hội học về sự phát triển. Nxb Khoa học Xã
hội. Hà Nội.
17. Vũ Khiêu (1995). Đức trị và pháp trị trong Nho giáo. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
18. Vũ Khiêu (1990). Nho giáo xưa và nay. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
19. Vũ Khiêu (1990). Nho giáo và đạo đức. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.



20. Vũ Khiêu (1997). Nho giáo và phát triển ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
21. Vũ Khiêu chủ biên (2000). Văn hoá Việt Nam xã hội và con người. Nxb Khoa học xã hội. Hà
Nội.
22. Trần Trọng Kim (2001). Đại cương triết học Trung Hoa. Nxb Văn hố thơng tin. Hà Nội.
23. Trần Trọng Kim (2001). Nho giáo. Nxb Văn hố thơng tin. Hà Nội.
24. Phạm Văn Khoái (2004). Khổng Phu Tử và Luận ngữ. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
25. Nguyễn Hiến Lê (2006). Khổng Tử. Nxb Văn hoá. Hà Nội.
26. Nguyễn Hiến Lê (1996). Mạnh Tử. Nxb Văn hoá. Hà Nội.
27. Lê Hồng Lôi (2004). Đạo của quản lý. (Lại Quốc Khánh, Trần Thị Thuý Ngọc dịch), Nxb Đại
học Quốc gia. Hà Nội.
28. Hà Thúc Minh (1996). “Phải chăng Nho giáo là động lực phát triển kinh tế”. Tạp chí Triết học
(số 6), tr 21 - 24.
29. Phan Ngọc (2004). Bản sắc văn hố Việt Nam. Nxb Văn hố Thơng tin. Hà Nội.
30. Ngữ văn Hán nôm, tập 1, Tứ thư (2002). Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
31. Lê Văn Quán (1997). Lịch sử triết học Trung Quốc. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
32. Bùi Thanh Quất chủ biên (1999). Lịch sử triết học. Nxb Giáo dục. Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Vũ Minh Tâm chủ biên (1996). Tư tưởng triết học về con người. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
34. Lê Sỹ Thắng (1993). Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập II). Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
35. Lưu Vĩnh Thuỵ (2000). Kinh điển quản lý và kinh doanh - thành công của các doanh nghiệp
Châu Á. Nxb Thống kê. Hà Nội.
36. Nguyễn Tài Thư (1999). “Đơi điều về vai trị của Nho giáo trong thế giới hiện đại”. Tập san
Khoa học Xã hội và Nhân văn (số 8), tr 4 - 10.
37. Nguyễn Tài Thư. “Nho giáo - Những tranh luận và và vấn đề đặt ra”. Tạp chí Triết học (số ), tr .
38. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1993). Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Tập I). Nxb Khoa học Xã hội. Hà
Nội.
39. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1997). Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng tôn giáo vào con người Việt
Nam hiện nay. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
40. Nguyễn Tài Thư (1997). Nho học và Nho học ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
41. Nguyễn Tài Thư (1998). “Truyền thống Nho học và việc xây dựng con người trong giai đoạn
mới”. Tạp chí Cộng sản (số 2), tr .

42. Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đơn Phục dịch (1990). Mạnh Tử Quốc văn giải thích. Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.


43. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
(1999). “Vai trò của Nho giáo ở Việt Nam và các nước châu Á trong thế giới hiện đại”. Khoa học
Xã hội và Nhân văn (số 8), tr 1 - 102.
44. Trương Lập Văn chủ biên (1998). Triết học phương Đông (quyển Đạo). Nxb Khoa học Xã hội.
Hà Nội.
45. Trương Lập Văn chủ biên (1998). Triết học phương Đông (quyển Lý). Nxb Khoa học Xã hội. Hà
Nội.
46. Trương Lập Văn chủ biên (1998). Triết học phương Đông (quyển Tâm). Nxb Khoa học Xã hội.
Hà Nội.
47. Nguyễn Khắc Viện (2000). Bàn về Đạo Nho. Nxb Thế giới. Hà Nội.
48. Phan Nải Việt (2003). Khổng Tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh hiện đại. Nxb Văn hố
Thơng tin. Hà Nội.
49. Bùi Thanh Quất, Phan Chí Thành (2002). “Một số quan điểm chính trị Khổng học với sự phát
triển ở Việt Nam”. Tạp chí Triết học (số 1), tr 20 - 30.
50. Dan Waters (1998). Thế kỷ 21 - Phương thức quản lý vượt trên cả người Nhật và người Trung
Quốc. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
51. Harold, Koontzm Cyril O’donnell, Heinz Weihrich (1992). Những vấn đề cốt yếu của quản lý.
(Vũ Thiêu dịch). Nxb Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội.
52. Konosuke Matsushita (1994). Bản lĩnh trong kinh doanh và cuộc sống. (Thanh Bình dịch). Nxb
Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
53. Konosuke Matsushita (1997). Quyết đoán trong kinh doanh. (Trần Quang Tuệ dịch) . Nxb Chính
trị Quốc gia. Hà Nội.

54. Marcus Buckingham, Curt Cuffman (2001). Phương cách quản lý của các nhà
quản trị hàng đầu thế giới. (Hà Thiện Thuyên dịch). Nxb Thanh niên. Hà Nội.




×