Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết nguyễn bắc sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.34 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------

HÀ THỊ SÁNG

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội, 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HÀ THỊ SÁNG

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số:60220121

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS Hà Văn Đức

Hà Nội, 2014


2


LỜI CẢM ƠN!
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới các thầy cô giáo ở Khoa Văn học,
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Đặc biệt là PGS.TS
Hà Văn Đức, người đã hết sức tận tình với em trong suốt thời gian qua. Thầy đã cho em nhiều
kiến thức và phương pháp nghiên cứu khoa học, thầy cũng là tấm gương sáng về nhân cách
của một nhà giáo mà em nguyện noi theo.
Xin được cảm ơn sự quan tâm, động viên chia sẻ khó khăn của những người thân trong gia
đình.
Cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ của một số anh chị em đồng nghiệp và anh chị em học viên
cùng lớp.
Hi vọng rằng với công trình nghiên cứu này, tơi đã khơng phụ tấm lịng mong mỏi của thầy
cô, người thân và bạn bè, đồng nghiệp.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Học viên:

Hà Thị Sáng

3


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học do chính bản thân tơi thực
hiện trong thời gian qua. Những kết quả và số liệu nghiên cứu đều được tiến hành một cách
khoa học và trung thực.
Học viên:


Hà Thị Sáng

4


0


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 3
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: .............................................................................................................. 3
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: ................................................................................................................... 4
3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: .................................................. 10
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:........................................................................................... 10
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN: ....................................................................................................... 11
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN. ................................................................................................. 12
1.1 Một số vấn đề lí thuyết. ...................................................................................................... 12
1.2 Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn......................................................... 15
1.2.1 Ngôi kể thứ ba ............................................................................................................. 15
1.2.2 Ngôi kể thứ nhất .......................................................................................................... 20
1.3 Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn. .................................................. 21
1.3.1 Điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật .................................................... 21
1.3.2 Điểm nhìn tác giả ........................................................................................................ 25
CHƯƠNG 2: KẾT CẤU TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN. ............................... 31
2.1 Một số vấn đề lí thuyết. ...................................................................................................... 31
2.2 Cách tổ chức cốt truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn. ............................................. 33
2.2.1 Kết cấu đa tuyến sự kiện ............................................................................................. 33

2.1.3 Kết cấu mở. ................................................................................................................. 44
2.3 Cách tổ chức thời gian trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn. ............................................... 50
2.2.2 Kết cấu đảo lộn trình tự thời gian sự kiện ................................................................... 51
2.2.3 Kết cấu theo mạch thời gian tuyến tính....................................................................... 55
CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN BẮC SƠN....................................................................................................................... 60
3.1 Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn..................................... 60
3.1.1 Một số vấn đề lí thuyết ................................................................................................ 60

1


3.1.2 Sử dụng vốn từ ngữ đa dạng, phong phú: ................................................................... 61
3.1.3 Sử dụng đắc địa các kiểu cấu trúc cú pháp.................................................................. 67
3.1.4 Sự pha trộn ngôn ngữ. ................................................................................................. 70
3.1.5 Ngơn ngữ giàu hình ảnh. ............................................................................................. 73
3.2 Đặc trưng giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn .................................. 76
3.2.1 Một số vấn đề lí thuyết ................................................................................................ 76
3.2.2 Giọng điệu giàu lí lẽ, lập luận. .................................................................................... 77
3.2.3 Giọng điệu bỗ bã, hài hước, trào phúng, giễu nhại ..................................................... 81
3.2.4 Giọng nhẹ nhàng, tinh tế, trữ tình, sâu lắng. ............................................................... 86
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 94

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Mặc dù về già mới bén duyên với văn chương nhưng với năm tập

truyện ngắn, bảy tập ký - tùy bút và đặc biệt là ba cuốn tiểu thuyết, Nguyễn
Bắc Sơn đã ghi dấu ấn trong đời sống văn học Việt Nam hiện nay. Với những
sáng tác đầy tâm huyết, “nhà văn trẻ tóc bạc” này đã liên tục giành được
nhiều giải thưởng văn học nghệ thuật. Ngoài hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về
đề tài chính trị là Luật đời & cha con, Lửa đắng, mới đây người đọc lại đón
nhận trong sự kính nể cuốn tiểu thuyết thứ ba – cuốn tiểu thuyết tâm lí xã hội
Gã tép riu cũng đặc sắc không kém.
Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn khai phá một mảng đề tài mới. Những gì
ơng viết dù quen thuộc trong đời sống nhưng lại lạ lẫm trong văn chương:
tình hình chính trị - xã hội hiện nay với những mặt phải - trái, tiêu cực - tích
cực của nó. Hơn nữa, những vấn đề nóng, những vấn đề gai góc ấy của cuộc
sống xã hội đương đại lại được nhà văn khai phá bằng ngòi bút hết sức sắc
sảo, tinh vi. Ông viết về những vấn đề nhạy cảm nhất của xã hội với tâm
nguyện: “Với tôi, viết văn là sự giải tỏa những bức xúc cuộc đời, là góp một
tiếng đời cho đời”; “Tơi viết với tất cả đau đớn, vật vã, khổ sở và với ý thức
xây dựng, tháo gỡ”, “là người trong cuộc tôi mổ xẻ chứ khơng đứng ngồi
dẩu mỏ chửi vào, cũng khơng chửi đổng” (Lời nhà văn trả lời phỏng vấn báo
chí). Chính tâm huyết đó đã làm nên giá trị độc đáo của tiểu thuyết Nguyễn
Bắc Sơn. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã nhận xét: “Nguyễn Bắc Sơn là một
trong những nhà văn sung sức nhất hiện nay. Hầu như năm nào cũng có sách
mới. Mà tồn là tiểu thuyết. Có tiểu thuyết trường thiên dài đến mấy tập.
Muốn thưởng thức những áng văn hay, những con chữ óng nuột, hay tài thao
tác cấu trúc tác phẩm với những tình tiết bất ngờ, éo le sẽ khó tìm thấy ở

3


Nguyễn Bắc Sơn. Sức mạnh của ông là ở khả năng tinh nhạy, nắm bắt những
vấn đề thời sự nóng hổi, đang diễn ra trong đời sống hàng ngày. Người đọc
có thể dễ dàng nhận ra trong đội ngũ nhân vật của ơng bóng dáng, số phận

của những con người có thật ở ngồi đời. Cuộc sống và trang sách nhiều khi
khơng cịn là khoảng cách. Bởi thế, tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn thường rất
hấp dẫn. Hấp dẫn cũng bởi vì nó rất thật. Mê hoặc được người đọc mà khơng
dùng đến phấn son đâu có dễ. Đấy là cái tài của Nguyễn Bắc Sơn, cũng là sự
đóng góp rất cần được ghi nhận của ông trong văn học đương đại” [32,
tr.bìa 4].
Tuy khai thác đề tài chính trị - xã hội, viết về những vấn đề mang tính
tư tưởng và trí tuệ nhưng với sự khéo léo của mình, Nguyễn Bắc Sơn đã
chuyển tải những thơng điệp khó nói thành hình tượng nghệ thuật đầy sinh
động trên trang sách. Sức hấp dẫn của ba cuốn tiểu thuyết không chỉ nằm ở đề
tài khai thác mà còn nằm ở nghệ thuật kể chuyện đầy sắc sảo, tỉnh táo, hóm
hỉnh của nhà giáo, nhà báo, nhà văn này. Chất chính luận hịa cùng tính hài
hước tạo nên những trang viết khơng hề khô khan mà ngược lại rất sống động,
rất nghệ thuật, dễ dàng thuyết phục ngay cả những người đọc khó tính.
Sau khi đọc ba cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn cùng với một thời
gian tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn, bản thân tôi thấy có
nhiều vấn đề cần đi sâu nghiên cứu. Với việc chọn đề tài “Nghệ thuật trần
thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn” để viết luận văn thạc sĩ, tôi mong
muốn góp một phần nhỏ vào việc khẳng định giá trị tiểu thuyết cũng như vai
trị của ơng trong đời sống văn học Việt Nam đương đại.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Theo tìm hiểu của bản thân tơi, cho đến nay, có khơng ít bài phê bình
xung quanh ba cuốn tiểu thuyết đã xuất bản của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn.

4


Đặc biệt là khi tiểu thuyết Luật đời &cha con ra đời rồi được hai đạo diễn Mai
Hồng Phong và Hồng Nhung chuyển thể thành phim truyền hình “Luật đời”
và đạt giải nhất thể loại phim truyền hình nhiều tập năm 2006, do khán giả

bình chọn. Những bài nghiên cứu đánh giá về tiểu thuyết này nói riêng và cả
ba cuốn tiểu thuyết của ơng nói chung đều đề cập và phân tích nhiều góc cạnh
khác nhau của tác phẩm nhưng với đề tài “Nghệ thuật trần thuật trong tiểu
thuyết Nguyễn bắc Sơn” nên người viết xin lược trích lịch sử nghiên cứu vấn
đề trên cơ sở chú trọng những bài viết và những ý kiến liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
Khi tiểu thuyết Luật đời & cha con của Nguyễn Bắc Sơn ra đời đến nay
có rất nhiều ý kiến khen ngợi. Đạo diễn điện ảnh Đỗ Minh Tuấn đánh giá cao
Luật đời & cha con vì đó là một tác phẩm “ngồn ngộn vốn sống chính trị”,
“là cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên mổ xẻ sự vận động của tồn xã hội
trong q trình đổi thay cơ chế”. (Văn nghệ trẻ số 40, ngày 02.10.2005). Còn
PGS. TS Nguyễn Bích Thu cho rằng ưu thế và sức hấp dẫn của tác phẩm
chính là ở “Sự kết hợp nhiều thể loại trong cuốn tiểu thuyết cùng với giọng
điệu trần thuật giàu sắc thái biểu cảm”. Bà cũng đánh giá cao nghệ thuật trần
thuật trong tác phẩm Luật đời & cha con. Đặc biệt, cách tổ chức kết cấu và
điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết đã được bà phân tích khá kỹ lưỡng.
Trên báo văn nghệ ra ngày 1/4/2006 với bài viết “Đi qua ranh giới để tồn tại”
nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cũng đã đánh giá cao nghệ thuật kể
chuyện của tác giả Nguyễn Bắc Sơn. Ông nhận xét: “ Luật đời & cha con là
một tiểu thuyết luận đề nhưng nó có khả năng cuốn hút người đọc bởi chất
hiện thực nóng hổi và cách kể chuyện tự nhiên, linh hoat của người viết”,
“Luật đời & cha con chưa phải là một tiểu thuyết có nhiều cách tân về
phương thức tổ chức tự sự… Nhưng chính việc tạo nên nhiều sắc thái giọng
điệu khác nhau đã khiến cho tác phẩm không rơi vào đơn điệu. Ngôn ngữ

5


Nguyễn Bắc Sơn là thứ ngôn ngữ gần gũi với ngơn ngữ cuộc sống. Ơng sử
dụng khá nhiều khẩu ngữ, xây dựng nhiều tình tiết mang tính kịch và biết gia

tăng chất giọng hài hước, để kích thích hứng thú của người đọc”. Cịn nhà
phê bình Nguyễn Chí Hoan trong bài viết “Một cuốn tiểu thuyết về đổi mới”
in trên báo Người Hà Nội ngày 31/03/2006 đã nhận định rằng: “Luật đời &
cha con được triển khai theo hình mẫu ngôn ngữ tiểu thuyết hiện thực truyền
thống”, “sự vận động triển khai các tuyến truyện đã đạt được nhịp điệu khá
tự nhiên, với nhịp độ nhanh ở các chương cuối khi tấn bi kịch hấp dẫn về hối
lộ tham nhũng có vẻ sắp hé mở…”
Cịn trong cuộc họp báo ngày 26.12.2005 do báo Văn nghệ tổ chức,
cũng có nhiều ý kiến phát biểu đánh giá cao những thành công của tiểu thuyết
Luật đời & cha con. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận định “Nguyễn Bắc Sơn đã
thành công về mặt thể loại”. Cịn nhà phê bình Lê Quang Trang cũng đã kết
luận “Thành công đáng chú ý nhất của cuốn tiểu thuyết là tác giả dũng cảm
và sắc sảo trong việc phô bày những vấn đề của xã hội với giọng văn sơi nổi,
nhiệt tình, lơi cuốn, nhịp điệu nhanh, hóm hỉnh pha chút dân gian”.
Trên các báo cũng có nhiều bài giới thiệu về tiểu thuyết đầu tay này của
nhà văn Nguyễn Bắc Sơn. Nhìn chung, các bài viết cũng như các ý kiến đều
đánh giá cao những thành công của tác phẩm trên phương diện: đề tài, nghệ
thuật tổ chức kết cấu, giọng điệu tác phẩm cũng như điểm nhìn trần thuật.
Bên cạnh những lời khen đó cũng có những ý kiến chỉ ra một số hạn
chế, nhược điểm của tiểu thuyết. Đỗ Minh Tuấn tiếc vì “một số chương đoạn
cịn lan man xơ bồ dễ giãi chạy theo sự vụ, mượn mồm nhân vật kể chuyện
đời… làm mờ đi dịng chảy chính là số phận éo le của những nạn nhân kiêm
thủ phạm ...” Hoàng Minh Tường lại đồng tình với việc “Nhiều người cho
rằng ngịi bút của ông trong tiểu thuyết này nặng về chất báo chí, trọng văn

6


mà nhẹ về khắc họa tâm lí, nội tâm các nhân vật”. PGS.TS Bích Thu lại cũng
nhận thấy “có những trang tác giả nói hộ nhân vật, văn viết có lúc thô chưa

thật sự uyển chuyển”. Tuy nhiên, về cơ bản những ý kiến khen chê vẫn cịn
mang tính chất khái quát, chung chung chưa có điều kiện đi sâu phân tích làm
rõ.
Về cuốn tiểu thuyết Lửa đắng, đã có buổi tọa đàm văn học của Hội nhà
văn Việt Nam với sự tham gia ý kiến của nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Đặng
Văn Sinh, Nhà văn Lê Lựu, GS Hà Minh Đức, PGS.TS Nguyễn Đăng
Điệp…Nếu như Hữu Thỉnh đánh giá cao đề tài độc đáo mới lạ và giá trị hiện
thực của tác phẩm: “Mảng văn học tham gia trực tiếp vào tiến trình cơng
nghiệp hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập… Tác giả lấy bối
cảnh trực tiếp về cuộc sống thủ đô trong đổi mới… Đây là tiểu thuyết về văn
hóa quản lí, một vấn đề mới mẻ và cấp bách đối với chúng ta hiện nay” thì Lê
Lựu cịn nâng cao giá trị tác phẩm bởi những ý kiến sắc sảo xung quanh ngơn
ngữ tác phẩm: “Câu chữ cho thấy nhà văn có tìm tịi chứ khơng đều đều, trơn
truội. Văn Nguyễn Bắc Sơn có đặc điểm riêng, như cây sậy, cây tre, có dóng,
có mấu, có đốt…” Cùng nhận xét về nghệ thuật tác phẩm, PGS.TS nhà văn
Nguyễn Đăng Điệp cũng cho rằng: “Tiểu thuyết luận đề thường khô khan
nhưng Nguyễn Bắc Sơn đã mềm mại hóa nó, làm cho nó có sức chinh phục
người đọc. Do khéo léo biết tổ chức các tuyến sự kiện, các tuyến nhân vật
cũng như vốn ngôn ngữ gần gũi với đời sống, nhờ thế tiểu thuyết của anh có
cái tươi mới.” Đặng Văn Sinh trong tham luận “Lửa đắng, sự lệch pha trong
thế cờ cải cách hành chính…” cũng phân tích khá kĩ giá trị hiện thực nóng
hổi của tác phẩm. Trên các báo có khơng ít bài giới thiệu, bài viết về tác
phẩm, có thể kể đến bài viết “Từ Lửa đắng ngẫm về bệnh ăn bẩn của cơng
chức có quyền” của Thu Thanh trên báo Vietnamnet.vn với những kết luận
sắc sảo: “Gai góc nhưng không sắc lẻm làm người ta sợ hãi, luận đề nhưng

7


khơng nặng nề lí luận làm người ta mệt chán vì tác giả biết cách khéo léo

đứng sang bên làm người kể chuyện, khơng bình luận, khơng tự lí luận khơ
khan mà biết lồng các vấn đề khó nói nhất, nhức nhối nhất vào lời các nhân
vật, thông qua những cuộc chuyện trị tranh luận, những cuộc họp… Đơi lúc
đã biết làm mềm đi các vấn đề tư tưởng chính trị, thế sự bằng cách nói dân
gian khẩu ngữ, những câu thành ngữ mới xuất hiện để diễn đạt sinh động
những tệ nạn của xã hội mới. Đôi lúc lại xen vào những đoạn trữ tình ngoại
đề, những khắc họa nhân vật có phần lãng mạn và lí tưởng. Đến độ làm cho
người ta đau nhưng không bi lụy. Người ta buồn nhưng vẫn nhận thấy mơt
thái độ sống tích cực. Thái độ sống tích cực vì cái người ta tin là đẹp, là
đúng, là lí tưởng”. Tác giả Ma Văn Kháng với bài “Lửa đắng, bức tranh tồn
cảnh hơm nay” trên trang web - cơ quan ngôn luận của Hội
nhà văn Việt nam đã chia sẻ “Đọc Lửa đắng có cái thú vị là gặp gỡ ở đây một
cuộc sống thật phong phú trên nhiều bình diện”, tác giả cũng đã đánh giá về
nghệ thuật tổ chức tự sự của Nguyễn Bắc Sơn: “cây bút tiểu thuyết này còn tỏ
ra khá dày dặn và khéo léo trong cách dẫn dụ, triển khai các tuyến truyện, mở
rộng biên độ tình tiết, thâm nhập vào gần như hầu hết các lĩnh vực của đời
sống, khêu gợi trí tị mị, thu hút sự say mê của độc giả bằng các kiến thức,
các chi tiết kì lạ lấy ra từ cái vốn hiểu biết rất đầy đặn của mình.”
Cịn cuốn tiểu thuyết Gã tép riu dù mới xuất bản cuối năm 2013 nhưng
cũng đã có khơng ít bài giới thiệu trên các báo, một số bài nghiên cứu, phê
bình của các nhà chun mơn. Trên trang có bài phê bình của
nhà văn Tô Đức Chiêu. Tác giả bài viết đã đánh giá cao tác phẩm này bởi:
“Nguyễn Bắc Sơn vẫn bộc lộ những mặt mạnh vốn có mà ít người ở tuổi đầu
bạc răng long, trong đó có cái thằng nhà văn qn tơi đây, khó có thể bắt
nhịp được: Đó là phản ánh những gì đang xảy ra hơm nay, đang nhảy múa
trước mặt ta kia”. Cùng bàn về tác phẩm này, Đặng Văn Sinh (Trên trang

8



tapchinhavan.vn) lại chú ý nhiều vào vấn đề “Văn hóa tình dục và tình u”
trong tiểu thuyết. Ơng cho rằng: “Vấn đề Gã tép riu đặt ra nằm trong lĩnh vực
tinh thần, phi vật thể nhưng lại được các nhà quản lí coi là nhạy cảm, thậm
chí cấm kị”. Đồng thời ơng cũng có những nhận xét xác đáng về nghệ thuật
tác phẩm: “Gã tép riu là một cuốn tiểu thuyết hiện đại có tính hệ thống cao,
trong đó hệ thống tổng quát chi phối chặt chẽ hệ thống chi tiết được tác giả
vận dụng khá chuyên nghiệp để gài những thơng điệp nghệ thuật dưới hình
thức phản biện xã hội”, “phần truyện là một đại tự sự bao quát các mối quan
hệ đa chiều của hệ thống nhân vật”. Đặng Văn Sinh cũng cho rằng nghệ thuật
tác phẩm còn cũ, chưa có nhiều đổi mới: “Nguyễn Bắc Sơn ln có lối viết
dựa trên những nguyên tắc truyền thống của tiểu thuyết cổ điển”, “Toàn bộ
tác phẩm được phát triển theo trình tự thời gian tuyến tính qua 51 mục…”
Trên báo văn nghệ quân đội số 775 (cuối tháng 6 năm 2013), Bùi Việt Thắng
cũng cho rằng đây là một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, trong đó nhà nghiên cứu
này phân tích : “khơng khí truyện chính là yếu tố hàng đầu” và“nhân vật sắc
nét là một yếu tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của Gã tép riu”.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao đóng góp của
Nguyễn Bắc Sơn trên lĩnh vực tiểu thuyết ở các phương diện cơ bản như: đề
tài, nhân vật, và ngôn ngữ đồng thời cũng đã chỉ ra một số hạn chế nhỏ của
nhà văn ở một vài phương diện. Song do dung lượng của bài báo và mục đích
nghiên cứu nên chỉ mới dừng lại ở mức khái quát chung chung chứ chưa thật
sự tỉ mỉ, chi tiết.
Bên cạnh đó, tơi cũng đã tìm thấy ở thư viện Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội và trên mạng intenet, có 2 luận văn
thạc sĩ và một vài tiểu luận nghiên cứu về Nguyễn Bắc Sơn như: Tiểu thuyết
Nguyễn Bắc Sơn dưới góc nhìn thể loại của Lương Dương Ly trường

9



ĐHKHXH&NV Hà Nội. Luận văn này đã nghiên cứu khá kĩ cốt truyện, nhân
vật và ngôn ngữ giọng điệu trong hai tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Bắc
Sơn. Còn luận văn của Lục Thị Thảo – Đại học Vinh với đề tài Thế giới nhân
vật trong tiểu thuyết Luật đời & cha con của Nguyễn Bắc Sơn lại chỉ tập trung
vào các kiểu nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn trong tiểu
thuyết này. Cịn có một số bài nghiên cứu của một vài sinh viên đại học về
tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn nhưng còn mang tính khái quát và sơ lược.
Những bài báo, bài phê bình và cơng trình nghiên cứu đó đã gợi mở
cho tôi nhiều vấn đề xung quanh nội dung và những giá trị nghệ thuật đặc sắc
của tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn. Tuy nhiên, tơi nhận thấy chưa có cơng trình
khoa học nào đi sâu vào việc nghiên cứu cụ thể nghệ thuật trần thuật trong ba
tiểu thuyết của nhà văn này. Bản thân tơi muốn đi sâu tìm hiểu và có một
cơng trình nghiên cứu sâu hơn về những thành cơng và một số mặt cịn hạn
chế trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Bắc Sơn qua ba tiểu thuyết ông đã
xuất bản. Hi vọng, hướng đi này của tơi ít nhiều sẽ có những đóng vào việc
khẳng định giá trị sáng tác của nhà văn nói riêng và tiểu thuyết đương đại nói
chung.
3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Mục đích của luận văn này nhằm phân tích làm rõ những thành cơng và
một số mặt còn hạn chế trong nghệ thuật trần thuật ở tiểu thuyết của Nguyễn
Bắc Sơn. Lấy cả ba tiểu thuyết ông đã xuất bản Luật đời & cha con, Lửa
đắng, Gã tép riu để khảo sát, nghiên cứu. Trong đó, tập trung nghiên cứu
Nghệ thuật trần thuật trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn trên các
phương diện: Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật, cách tổ chức kết cấu
tác phẩm, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

10



- Phương pháp tiếp cận loại hình học.
- Phương pháp tiếp cận tự sự học.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học.
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp.
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm ba chươg
như sau:
Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn
Bắc Sơn.
Chương 2: Kết cấu trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.

11


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN.
1.1 Một số vấn đề lí thuyết.
Người kể chuyện là một phạm trù quan trọng của trần thuật học, và cũng là
một thuật ngữ công cụ của tự sự học. Trong tác phẩm trữ tình hoặc kịch
khơng có phạm trù người kể chuyện, nhưng trong tác phẩm tự sự đây lại là
một phạm trù tất yếu và đóng vai trị quan trọng trong việc tổ chức tác phẩm.
Người kể chuyện chính là người dẫn dắt, tổ chức mạch truyện. Theo Từ điển
thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên),
“người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật”. Còn khái niệm
người trần thuật lại được định nghĩa là“một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà
văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành. Trong các tác
phẩm trần thuật mang tính chất văn học thì người trần thuật…bị trừu tượng
hóa đi, trở thành một nhân vật hoặc ẩn, hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [35,

tr.221-222].
Trước đây nhiều người thường đồng nhất người kể chuyện và tác giả, tuy
nhiên đây là một quan niệm khơng hồn tồn chính xác. Trong tác phẩm trần
thuật mang tính chất văn học, người kể chuyện có thể là hiện thân của tác giả
nhưng đa phần không đồng nhất với tác giả ngay cả khi người kể chuyện
xưng tơi. Nhà văn có thể nhập vai người kể chuyện để biểu hiện những tư
tưởng cảm xúc của mình nhưng người kể chuyện ấy khơng hồn tồn là chính
tác giả nữa. Có thể nói, về bản chất thì người kể chuyện chính là một hình
tượng do nhà văn sáng tạo ra, có nhiệm vụ trần thuật lại câu chuyện một cách
trung thực.

12


Nếu căn cứ vào vị trí của người kể chuyện trong tác phẩm, chúng ta có
người kể chuyện ở ngơi thứ nhất và người kể chuyện ở ngôi thứ ba.
Nếu là ngôi thứ nhất – người kể lộ diện là người kể chuyện đang kể lại câu
chuyện mà mình chứng kiến, tham gia hay câu chuyện về chính bản thân anh
ta. Nếu là nhân vật chính thì người kể chuyện là cái “tơi” – vai chính, cịn nếu
là nhân vật phụ thì anh ta sẽ là cái tơi – chứng nhân, khi đó khoảng cách giữ
câu chuyện và người kể chuyện bị triệt tiêu. Người kể chuyện tham gia vào
câu chuyện và đứng ở vị trí bên trong câu chuyện nên có điều kiện nhìn sâu,
đi sát vấn đề mà mình đang kể. Tất nhiên, lời kể trong trường hợp này sẽ thể
hiện tính chất chủ quan cao độ, thể hiện sắc thái cảm xúc của chính nhân vật
kể - người kể. Nó có thể mang tư tưởng quan điểm của tác giả nhưng khơng
phải lúc nào cũng trùng khít với tác giả.
Cịn khi câu chuyện được kể ở ngơi thứ ba – người kể chuyện hàm ẩn, là
hình thức kể mà ở đó người kể hoặc chưa được ý thức hoặc đã được ý thức
nhưng cố giấu mình đi. Trong trường hợp này, ngơn ngữ kể thường mang tính
khách quan và dường như người kể chuyện có cái nhìn “tồn tri” thơng tỏ hết

mọi nhẽ. Khơng xuất hiện trực tiếp nhưng người kể chuyện có thể xâm nhập
vào tâm lí, ngơn ngữ nhân vật. Do đó, trong một số trường hợp đơi khi rất khó
phân biệt giọng của người kể chuyện với nhân vật. Kiểu trần thuật ngôi thứ ba
này gồm có trần thuật theo tác giả và trần thuật theo tâm lí nhân vật. Trần
thuật theo tác giả là câu chuyện được kể theo điểm nhìn của người kể chuyện
- tác giả, không phải là nhân vật trong câu chuyện mà là người ngồi cuộc với
khả năng nhìn nhận “thấu triệt” mọi vấn đề. Đây là kiểu trần thuật truyền
thống thường thấy trong truyện cổ tích, truyền thuyết. Ngược lại có khi người
kể chuyện vẫn là tác giả nhưng câu chuyện, sự kiện được kể lại đặt vào điểm
nhìn của nhân vật, hay nói chính xác hơn là tác giả đặt cái nhìn của mình vào

13


tâm trạng của nhân vật để trần thuật lại. Kiểu trần thuật này được các nhà văn
hiện đại thường sử dụng.
Vậy là gắn với phạm trù người kể chuyện chúng ta có phạm trù điểm
nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật là chỗ đứng, là vị trí quan sát mà người
kể chuyện dùng để tái hiện lại câu chuyện của mình. Theo lí thuyết tự sự học,
có ba kiểu nhìn (gắn với ba kiểu điểm nhìn) phổ biến ở người kể chuyện:
Nhìn “từ đằng sau” (gắn với điểm nhìn tồn tri) khi người kể chuyện có vai
trị tồn năng với cái nhìn thơng suốt tất cả mọi vấn đề trong câu chuyện anh
ta kể. Nhìn “từ bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi người kể chuyện
là nhân vật tham dự vào câu chuyện đó có thể với tư cách là nhân chứng, cũng
có thể với tư cách là nhân vật chính trong truyện. Nhìn “từ bên ngồi” (gắn
với điểm nhìn bên ngồi): Đây là điểm nhìn của người kể chuyện khi anh
ta đứng ngoài, chỉ kể “chuyện” chứ khơng hiểu rõ tâm lí nhân vật.
Cịn theo giáo trình Dẫn luận thi pháp học của GS.Trần Đình Sử, điểm
nhìn trần thuật còn được xét ở phạm vi rộng hơn. Điểm nhìn trần thuật cịn
bao gồm cả vốn tri thức, vốn văn hóa, khơng gian, thời gian, địa vị, giai cấp,

nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính… của người kể chuyện (người kể chuyện ở
đây lại được xem như là tác giả). Ví dụ cùng nhìn về cuộc chiến tranh bảo vệ
tổ quốc nhưng cái nhìn của các nhà văn thời chiến có những nét khác biệt cơ
bản đối với nhà văn thời hậu chiến. Cùng đánh giá về nhân vật Trương Chi
(Trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp) nhưng mỗi
người một ý kiến… Bên cạnh đó, khi xét điểm nhìn trần thuật, các nhà nghiên
cứu cịn đề cập đến điểm nhìn trực tiếp hay gián tiếp, điểm nhìn cá nhân hay
cộng đồng…
Trong nghệ thuật kể chuyện có những tác phẩm chỉ có một kiểu điểm nhìn
từ đầu đến cuối, có những tác phẩm phối ghép nhiều kiểu điểm nhìn hoặc luân

14


phiên trượt điểm nhìn. Những tác phẩm tự sự đương đại có nhiều sáng tạo và
đổi mới trong việc sử dụng điểm nhìn trần thuật. Điều này đem lại những cách
cảm nhận mới đầy thú vị đa chiều về cuộc sống và con người. Có nhiều tác
phẩm phối kết hợp nhiều điểm nhìn khác nhau làm cho câu chuyện được kể
hiện lên chân thực và sinh động vô cùng, đem đến cho con người những cảm
nhận toàn diện về đối tượng.
Điểm nhìn trần thuật biểu hiện qua các phương tiện nghệ thuật, ngôi kể, lời
văn, giọng điệu, cách gọi tên sự vật… Nó cung cấp một phương diện để người
đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật của tác phẩm, nhận ra phong cách đặc
trưng của nhà văn. Trong tác phẩm, việc tổ chức điểm nhìn trần thuật bao giờ
cũng mang tính sáng tạo cao độ của nhà văn. Thơng qua điểm nhìn trần thuật,
người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và nhận ra đặc điểm phong
cách của nhà văn.
Việc nghiên cứu điểm nhìn trần thuật phải linh hoạt và nhạy bén trong
từng tác phẩm và ở mỗi tác giả. Không đơn giản chỉ xét điểm nhìn với mối
quan hệ người kể chuyện đứng bên trong hay bên ngồi câu chuyện mà cịn

phải xem xét, người kể chuyện trong mối quan hệ về không gian, thời gian,
văn hóa, giai cấp, học vấn, trình độ chun mơn nghề nghiệp, thái độ chính
trị, địa vị xã hội, điểm nhìn cá nhân hay điểm nhìn theo chuẩn văn hóa tập
thể… Với cái nhìn khách quan tồn diện và sâu sắc như thế khi nghiên cứu
nghệ thuật trần thuật chắc chắn chúng ta sẽ có những phát hiện sâu sắc về
phong cách tác giả, những đặc sắc và hạn chế của tác phẩm.
1.2 Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
1.2.1 Ngơi kể thứ ba
Nếu như nhìn trên tầm khái qt tồn bộ tác phẩm thì cả ba tiểu thuyết của

15


Nguyễn Bắc Sơn, từ Luật đời & cha con, Lửa đắng cho tới Gã tép riu, đều
được trần thuật ở ngôi thứ ba – người kể ẩn dấu. Người kể chuyện ở đây,
không xuất hiện, không tham dự trực tiếp mà “ẩn nấp” đằng sau câu chuyện
và những sự kiện được kể lại. Đây là ngôi kể quen thuộc trong văn học dân
gian cũng như văn xuôi trung đại. Với ngơi thứ ba truyền thống này, thường
thì người kể chuyện là tồn tri, biết tuốt, có cái nhìn thấu suốt, thông tỏ mọi
chuyện, mọi sự kiện, vấn đề cũng như thế giới nội tâm suy nghĩ các nhân vật.
Theo lí thuyết tự sự học, ngôi kể thứ ba này sẽ gắn với điểm nhìn đằng sau,
người kể chuyện có vai trị tồn năng với cái nhìn thấu tỏ tất cả mọi vấn đề
trong câu chuyện anh ta kể, thấu tỏ tất cả những gì mà người kể chuyện tái
hiện.
Có thể khẳng định rằng: ngơi kể thứ ba với cái nhìn khách quan toàn cảnh,
đầy khái quát và tinh tường là một lựa chọn phù hợp với đề tài mà ba cuốn
tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn phản ánh. Chuyện chính trị, xã hội, chuyện
cơ chế, tổ chức là những vấn đề chung của cuộc sống xã hội. Nếu chọn ngôi
kể thứ nhất có lẽ sẽ khơng phù hợp. Ngơi kể thứ ba chính là phương án tối ưu.
Đọc cả ba tiểu thuyết Luật đời & cha con, Lửa đắng, Gã tép riu chúng ta đều

không thấy sự hiện diện của người kể chuyện. Người kể chuyện không xưng
danh, không xuất hiện trong tác phẩm. Chúng ta chỉ “nghe thấy” câu chuyện,
“nhìn thấy” sự kiện xuất hiện thơng qua lời kể của một người dấu mặt, ẩn
danh, không biết tên tuổi, giới tính, nghề nghiệp…
Người kể chuyện trong hai tiểu thuyết đầu của Nguyễn Bắc Sơn như là
một nhân chứng đứng trên mọi câu chuyện, mọi sự kiện diễn ra xung quanh
gia đình ơng Lê Hịe và thành phố Thanh Hoa, nơi họ sống. Đó cũng có thể
xem là bức tranh xã hội Việt Nam trong khoảng thời gian gần 100 năm trở lại
đây. Người kể chuyện nhìn thấy thấu đáo những biến động lớn nhỏ, những ưu

16


nhược điểm những mặt phải - trái tiêu cực và cả tích cực của cá nhân, của xã
hội như nó vốn có.
Nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Luật đời & cha con là Lê Hòe được
tái hiện một cách khách quan, toàn diện. Từ những nét đẹp phẩm chất tính
cách của một cán bộ cấp cao đến những suy nghĩ tính tốn rất “con người”
trong thời buổi khó khăn, đói kém. Có những buổi giảng nghị quyết đầy niềm
tin và hứng khởi nhưng cũng có những phút giây tính toán cân đong từng chai
mỡ, những ham muốn xác thịt nhất thời khơng thể chế ngự bằng lí trí. Việc
ơng lấy bà Phụng – người vợ chui làm ở của hàng mậu dịch, việc ông nhờ cô
gái nhà quê tên Dự tẩm quất hay việc ông qua đêm cùng một cơ gái bán hoa ở
khách sạn… là những ví dụ về phần người trong nhân vật cán bộ cấp cao này.
Cịn nhân vật Lê Đại con trai ơng thức thời và “kinh tế” hơn nhiều. Cũng vì
quá thức thời và “kinh tế” mà Đại dù thắng lợi trong chuyện làm ăn nhưng lại
gặp những bi kịch trong cuộc sống gia đình. Người vợ tưởng như hết mực
thủy chung cuối cùng lại chết trong chuyến đi chơi cùng tình nhân. Người con
trai của họ cũng sa đà hư hỏng đến mức khó cứu vãn. Và bi kịch nhất chính là
việc Đại lại lấy Kiều Linh – người tình cũ của chính con trai mình làm vợ…

Đại được biết đến như một doanh nhân thành đạt, có nhiều đóng góp cho xã
hội, và Đại cũng được tái hiện ở cả góc độ cuộc sống đời thường như sự kém
cỏi trên “mặt trận hàng chiếu”.
Những chuyện lớn, chuyện nhỏ, chuyện hay chuyện dở của đời sống xã
hội cũng được tác giả tái hiện không ngần ngại. Nỗi đau của một số người
trong thời kì đấu tố, cải cách đã được nhà văn dựng lại qua một vụ đấu tố địa
chủ ở quê ông Hòe. Những mậu dịch viên ở cửa hàng thời bao cấp đầy “uy
quyền” được điển hình hóa qua nhân vật bà Phụng. Đến những buổi họp chi
bộ vơ nghĩa, hình thức đều được tái hiện vô cùng chân thật sinh động qua lời

17


người kể chuyện không lộ diện. Với việc chọn người kể chuyện ẩn dấu này,
nhà văn đã đem lại cho người đọc một cái nhìn khách quan, trung thực và táo
bạo về bức “tranh toàn cảnh” của đời sống xã hội chúng ta.
Đến cuốn tiểu thuyết thứ hai, Lửa đắng, người kể chuyện vẫn giấu mặt và
câu chuyện về cuộc sống và con người nơi thành phố có tên là Thanh Hoa vẫn
được kể lại qua cái nhìn thơng tỏ mọi nhẽ. Từ những câu chuyện về buổi sinh
hoạt chi bộ đầy kịch biến đến những buổi làm việc, buổi họp đầy căng thẳng
của lãnh đạo thành phố, buổi làm việc của Tổng bí thư và lãnh đạo nơi đây
đều được soi chiếu từ cái nhìn thấu suốt của người kể. Cuộc sống gia đình
từng nhân vật, tính cách phẩm chất từng con người, việc làm, suy nghĩ của
từng cá nhân đều nằm dưới tầm kiểm soát của người kể chuyện. Người kể
chuyện như “đức chúa trời” nhìn thấy tất cả những gì đang diễn ra và tái hiện
nó lại trên từng trang viết. Chúng ta không chỉ thấy nhân vật Tổng bí thư với
tư cách là một người lãnh đạo qua những buổi họp, những cuộc gặp mặt vì
mục đích chính trị - xã hội mà cịn được thấy ông trong cuộc sống sinh hoạt
đời thường. Việc đưa nhân vật Tổng bí thư – một nhân vật chính trị cấp cao
vào tiểu thuyết đã là một điểm mới, chưa từng có trong văn học Việt Nam.

Hơn nữa, nhân vật này lại còn được tái hiện ở phương diện một người chồng,
một người ơng, một người bạn thì thật tồn diện.
Cũng như tiểu thuyết đầu tay, ở Lửa đắng nhà văn vẫn không ngần ngại
đụng chạm vào nhiều vấn đề lớn nhỏ của đời sống xã hội đương đại. Từ
chuyện trên trung ương đến chuyện dưới địa phương, từ chuyện chính trị xã
hội đến chuyện gia đình cá nhân. Từ chuyện công khai hàng ngày đến chuyện
tắc trách “ngầm ẩn” của cơ chế xã hội hiện nay. Những con người nhân cách
bản lĩnh như Kiên, Diệu, Triển đến cả những con người vụ lợi, vô sỉ như Sán,
Đương, Bắc đều được nhà văn điển hình hóa từ đời sống xã hội chúng ta. Mỗi

18


con người, mỗi nhân vật đều được người kể tái hiện lại với những phẩm chất,
tính cách như đời sống vốn có. Ví dụ nhân vật Thanh Diệu được nhìn từ cả
góc độ xã hội đến đời sống tình cảm riêng tư. Trong quan hệ xã hội, chị là
được biết đến như một người lãnh đạo đầy tài năng trách nhiệm. Cịn trong
quan hệ gia đình, chị cũng là người phụ nữ đầy bất hạnh vì phải sống với một
người chồng khơng cùng chí hướng, khơng có lí tưởng. Người kể chuyện cho
ta thấy vẻ bên ngoài đầy quyền uy, đĩnh đạc của chị nhưng cũng cho ta thấy
cả đời sống nội tâm, đời sống tình cảm đầy bi lụy, khúc mắc của người phụ
nữ này. Ngược lại, những việc làm vô liêm sỉ của Vũ Sán – chồng chị là điển
hình cho những mặt đen tối trong bức tranh cuộc sống nơi thành phố Thanh
Hoa. Đời sống chính trị - xã hội, đời sống con người cá nhân, mặt phải, mặt
trái, mặt tốt, mặt xấu hòa quyện, đan cài trong nhau tạo nên một bức tranh
cuộc sống hiện thực sinh động, đa chiều trong từng chương của tiểu thuyết.
Tiểu thuyết Gã tép riu lại xoay quanh cuộc sống, công việc của nhà báo
Bùi Xuân Tùng. Từ mối quan hệ riêng tư giữa vợ chồng Tùng và Thủy đến
những công việc nơi cơ quan họ, từ chuyện giữa ánh sáng ban ngày đến
những chuyện “trong bóng tối” như việc Thủy dùng sắc đẹp, “vốn tự có” để

thi đại học, cao học, làm luận văn, quan hệ với bộ trưởng để được thăng
chức… đều được người kể chuyện nhìn thấy tất. Từ chuyện quản lí chun
mơn trên lĩnh vực báo chí đến từng cuộc làm tình lấy tiền của những cơ gái
điếm đều hiện lên trên từng trang sách một cách sinh động như chính cuộc
sống đang tự phơ bày. Mặt tốt của những con người tưởng như là xấu xa, nhơ
nhớp của cô gái điếm tên Dự đến sự bẩn thỉu, dơ dáy của những con người có
vỏ bọc cao siêu, sang trọng như bà thứ trưởng Nguyễn Diệu Thủy đều không
qua mắt được người kể chuyện. Và quan trọng hơn, “anh ta” – người kể
chuyện kể lại cho chúng ta một cách chân thực như thực.

19


1.2.2 Ngôi kể thứ nhất
Đi sâu vào các tác phẩm, chúng ta thấy có khơng ít chương đoạn trong ba
cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn được trần thuật ở ngôi thứ nhất, người
kể chuyện xưng danh và kể về những gì mình đã trải qua, đã chứng kiến. Câu
chuyện, và sự kiện lúc này được tái hiện thông qua cái nhìn mang tính chất
chủ quan của nhân vật. Có thể kể ra một số ví dụ như: những đoạn Thảo Tần
kể với Kiên về những việc diễn ra ở trường chị dạy học (trong Lửa đắng),
đoạn ông Sùng kể về trận đánh đầy gay go quyết liệt và sự hi sinh anh dũng
của bố Kiều Linh (trong Lửa đắng) cho gia đình cơ nghe. Đặc biệt, nhiều
chương đoạn trong tiểu thuyết Gã tép riu được kể bởi nhân vật Dự - cô gái
từng một thời rơi vào cảnh bán hoa ni thân. Lúc này, quan điểm, suy nghĩ,
nỗi lịng của nhân vật được thể hiện một cách trực tiếp. Những vấn đề của
cuộc sống con người được tái hiện thơng qua lăng kính chủ quan của từng
nhân vật. Cái tôi chứng nhân giúp cho sự kiện hiện lên chân thật và đáng tin
cậy hơn. Cũng thông qua việc để cho nhân vật tự kể mà cuộc sống và nhiều
vấn đề phức, tạp nhạy cảm của cuộc sống được thể hiện sâu sắc, sinh động.
Với cách để cho nhân vật Dự tự kể, tự bộc bạch, tiểu thuyết Gã tép riu

giúp chúng ta hiểu rõ hơn cuộc sống của một cơ gái bán dâm thời nay. Q
trình sa vào con đường nhục nhã này như một quy luật tâm lí không thể khác
của một cô bé nhà quê lên phố khi tuổi đời còn đang quá trẻ. Sự đấu tranh nội
tâm quyết liệt giữa tiền bạc và nhân cách của một cơ gái nghèo hiện lên qua
chính lời người kể của nhân vật thật cảm động. Rồi đến cả những nỗi đau sâu
kín khơng ai hiểu, những khát vọng mãnh liệt trong cô gái quê nhỏ bé không
ai sẻ chia, cảm xúc hạnh phúc rồi sự hụt hẫng ê chề… đều được nhân vật tự
bộc lộ hết sức chân thành và chân thật. Nhà văn đã khéo léo tạo kết cấu truyện
lồng truyện để nhân vật tự kể. Từ chương 14 của tiểu thuyết Gã tép riu có sự
xuất dày đặc và xen kẽ ngôi kể thứ nhất này. Không có cách gì hay hơn để

20


×