Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Quân đội hàn quốc trong cuộc chiến tranh xâm lược của mỹ ở việt nam giai đoạn 1964 1973

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 127 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, sử liệu, kết quả được sử dụng trong luận văn
là trung thực, được cơng bố cơng khai và có xuất xứ từ những nguồn
tư liệu đáng tin cậy. Những kết luận của luận văn chưa được cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ

Lê Đức Hạnh

MỤC LỤC
1

Trang


Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1:
CHÍNH SÁCH ĐỒNG MINH VÀ QUÂN ĐỘI MỘT SỐ NƯỚC
ĐỒNG MINH CỦA MỸ THAM CHIẾN TẠI VIỆT NAM
1.1 Chính sách đồng minh trong các chiến lược quân sự toàn cầu của
Mỹ giai đoạn 1946-1968
1.2 Chiến dịch "Thêm cờ" (More Flags) và quân đội một số nước đồng
minh của Mỹ tham chiến tại Việt Nam giai đoạn 1964-1973
CHƯƠNG II
QUÂN ĐỘI HÀN QUỐC TRONG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM


LƯỢC CỦA MỸ Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1964-1973
2.1 Vài nét về quan hệ quân sự Mỹ-Hàn và quân đội Hàn Quốc từ sau
Chiến tranh thế giới thứ II
2.2 Quá trình tham chiến của các đơn vị quân đội Hàn Quốc trong
cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam
CHƯƠNG III
MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ SỰ THAM GIA CỦA QUÂN ĐỘI
HÀN QUỐC TRONG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA
MỸ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1964-1973
3.1 Quân đội Hàn Quốc và chính sách "quốc tế hố" cuộc Chiến tranh
Việt Nam của Mỹ.
3.2 Đánh giá của một số sỹ quan cấp cao Mỹ về hoạt động tác chiến
của quân Hàn Quốc trên chiến trường Khu V.
3.3 Hậu quả do các đơn vị quân đội Hàn Quốc gây ra trên chiến trường
miền Nam Việt Nam.
KẾT LUẬN:
PHỤ LỤC I: Viện trợ phi quân sự của một số nước đồng minh Mỹ
trong chiến dịch "Thêm cờ"
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

2

1
2
3
4
5


14
29

47
60

91
101

106
111
118
121


ANZUS

Australia, New Zealand, United States

CINCPAC

Commander-in-chief, Pacific

FFV

Field Forces. Vietnam

MACV


Military Assistance Command, Vietnam

NATO

North Atlantic Treaty Organisation

NSAM

National Security Act Memorandum

SEATO

South East Asia Treaty Organisation

NSC

National Security Council

CENTO

Central Treaty Organisation

Hiệp ước phòng thủ
chung 3 nước Úc-Niu
Di-lân và Mỹ
Tổng tư lệnh lực lượng
quân Mỹ tại chiến
trường Thái Bình
Dương
Lực lượng dã chiến tại

Việt Nam
Bộ tư lệnh viện trợ
quân sự tại Việt Nam
Tổ chức Hiệp ước Bắc
Đại Tây Dương
Bị vong lục về Đạo luật
an ninh quốc gia
Tổ chức Hiệp ước
Đông Nam Á
Hội đồng an ninh quốc
gia
Hiệp ước Trung tâm

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

3


Bảng 1.1

Bảng 1.2
Bảng 1.3

Bảng 1.4

Bảng 1.5
Bảng 2.1
Bảng 3.1
Bảng 3.2


Lực lượng quân Mỹ triển khai tại các nước đồng
minh, nhằm bao vây, tiến cơng các "điểm nóng"
thời kỳ 1960-1970
Số qn một số nước đồng minh Mỹ trực tiếp tham
chiến tại Việt Nam từ 1964-1970
Lực lượng và địa bàn tác chiến của quân Niu Dilân trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam
1967-1969
Lực lượng Sư đoàn "Báo đen" quân đội Hoàng gia
Thái Lan tham chiến tại Việt Nam từ tháng 7-1968
đến 31-8-1971
So sánh lực lượng quân Mỹ và đồng minh tham
chiến ở Việt Nam từ 1964-1970
Lực lượng quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến
tranh Triều Tiên 1950-1953
Viện trợ của Mỹ cho Thái Lan từ 1950-1968
Viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ cho Hàn Quốc
1946-1976

23

33
37

39

42
50
94
94


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã huy động
một lực lượng quân sự khổng lồ bao gồm cả hải, lục và không quân, dưới sự
4


điều hành trực tiếp của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc để tiến hành một cuộc
chiến tranh lâu dài, tốn kém và khốc liệt nhất trong lịch sử nước Mỹ kể từ sau
Chiến tranh thế giới thứ I, nhằm ngăn chặn cuộc kháng chiến giành độc lập,
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới, thực hiện cái gọi là "Ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản" ở Đơng
Nam Á.
Bên cạnh đó, để lừa gạt dư luận và che lấp bản chất xâm lược của cuộc
chiến tranh, Mỹ còn dựng lên ở miền Nam Việt Nam một chính quyền tay sai,
xây dựng và tổ chức quân đội ngụy đông tới hàng chục vạn quân với đầy đủ
các quân, binh chủng được Mỹ trang bị hiện đại và tối tân nhất lúc bấy giờ.
Khơng dừng lại ở đó, với âm mưu "quốc tế hố" cuộc chiến tranh, Mỹ cịn dựng
lên cái gọi là "Quân đội thế giới tự do chống cộng sản" nhằm lôi kéo các nước
đồng minh đưa quân vào Việt Nam tham chiến, để "chia sẻ " bớt gánh nặng
chiến tranh cho Mỹ, đồng thời thực hiện những âm mưu lâu dài trong chiến
lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ
Thực hiện mưu đồ trên, tháng 4 năm 1964, Tổng thống Mỹ Giơnxơn
chính thức phát động chiến dịch "Thêm cờ" (More flags). Mặc dù ban đầu chiến
dịch này không thu được kết quả như người Mỹ mong muốn, song bằng nhiều
biện pháp kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao v.v..., trong vịng 6 năm từ
1964 đến 1970 Mỹ đã lơi kéo được gần 40 quốc gia và các tổ chức phản động
trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt
Nam.

Trong số các nước đồng minh của Mỹ trực tiếp đưa quân vào Việt Nam,
Hàn Quốc (lúc bấy giờ trên các phương tiện đại chúng gọi là Nam Triều Tiên
hay Nam Hàn) là nước hưởng ứng chiến dịch "Thêm cờ" của Mỹ tích cực nhất,
có số qn tham chiến đơng nhất và cũng được Mỹ đánh giá là tác chiến có
hiệu quả nhất.

5


Khi đánh giá về việc chính phủ Hàn Quốc quyết định đưa qn sang
tham chiến tại Việt Nam, có khơng ít người, trong đó có cả người Hàn Quốc
đều cho rằng, quyết định trên đã mang lại cho nước này khơng ít lợi ích. Điều
đó có thể đúng với cách nghĩ của họ. Bởi lẽ, nếu xét trên bình diện chính trị thì
rõ ràng đây là cơ hội tốt để Hàn Quốc "bày tỏ và khẳng định" thái độ cũng như
lập trường của mình đối với Mỹ trước những vấn đề quốc tế lớn. Khơng những
thế, đây cịn là cơ hội hiếm có để Hàn Quốc " trả bớt" những món nợ mà họ đã
vay của người Mỹ từ nhiều năm trước đây.
Trên bình diện kinh tế, đúng như cách gọi của một số chính trị gia Hàn
Quốc lúc bấy giờ, "chiến tranh Việt Nam là El Dorado", nghĩa là (vùng đất
tưởng tượng có nhiều kim loại quý)[20: 101]. Nhờ có việc đưa quân sang tham
chiến tại Việt Nam, Hàn Quốc đã nhận được từ Mỹ những khoản viện trợ lớn.
Ngồi ra, với hàng chục nghìn lượt binh lính sang tham chiến tại Việt Nam và
hàng chục nghìn người khác sang phục vụ cho cỗ máy chiến tranh của Mỹ, Hàn
Quốc đã thu được những khoản lợi không nhỏ. Nền kinh tế vì thế đã được cải
thiện đáng kể, an ninh và quốc phịng cũng được tăng cường.
Lợi ích mà Hàn Quốc thu được từ việc đưa quân sang tham chiến tại
Việt Nam đã được chứng minh qua các con số, chỉ số tăng trưởng của nền kinh
tế lúc bấy giờ. Thế nhưng, sự mất mát cũng không hề nhỏ. Trong cuộc chiến
tranh này, có gần 5.000 sỹ quan và binh sỹ Hàn Quốc thiệt mạng, hàng ngàn
người khác bị thương và bị nhiễm chất độc màu da cam do quân đội Mỹ rải

xuống[38: 243]. Và cũng như ở Mỹ, "Hội chứng chiến tranh Việt Nam" có lẽ
cịn phải mất nhiều năm nữa mới hy vọng phần nào vơi đi trong ký ức và cuộc
sống của các cựu binh Hàn Quốc đã từng tham chiến tại Việt Nam. Cái mất
chắc cịn lớn hơn nếu đặt nó trong mối quan hệ truyền thống lâu đời giữa
hai dân tộc.
Về sự tham gia của quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh xâm lược
của Mỹ ở Việt Nam, cho đến nay đã có nhiều cơng trình đề cập tới. Tuy nhiên,

6


do mục đích của từng cơng trình, các tác giả chỉ mới đề cập đến những chi tiết,
những khía cạnh đơn lẻ, nhằm minh hoạ hoặc chứng minh cho một nhận định
nào đó, hay đơn thuần chỉ là liệt kê tội ác của lực lượng này, mà chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách độc lập, chuyên sâu và có hệ thống. Vì những lý
do trên, chúng tơi chọn đề tài "Quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh xâm
lược của Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1964-1973" làm nội dung nghiên cứu của
luận văn. Mục đích của luận văn trước hết là nhằm trình bày một cách có hệ
thống nguyên nhân, động lực, bối cảnh, quá trình tham chiến và vai trò của các
đơn vị quân đội Hàn Quốc trên chiến trường Khu V miền Nam Việt Nam, đồng
thời góp phần làm sáng tỏ chính sách đồng minh của Mỹ trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh, đặc biệt là trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Trong luận văn,
tác giả còn muốn đưa ra một số nhận định, đánh giá từ việc Chính phủ Hàn
Quốc đưa quân sang tham chiến tại Việt Nam, qua đó rút ra những bài học góp
phần cũng cố mối quan hệ truyền thống lâu đời giữa hai dân tộc Hàn-Việt, thúc
đẩy sự hợp tác và phát triển giữa hai quốc gia trong hiện tại cũng như cho tương
lai.
Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào giai đoạn từ năm 1964
đến năm 1973, tức là năm Hàn Quốc bắt đầu đưa quân vào tham chiến tại Việt

Nam hưởng ứng chiến dịch 'Thêm cờ" của Mỹ, đến khi toàn bộ lực lượng này
buộc phải rút khỏi miền nam Việt Nam sau Hiệp định Paris 1973. Đối tượng
nghiên cứu của luận văn tập trung phân tích động cơ, bối cảnh và vai trò của
các đơn vị quân Hàn Quốc trên chiến trường Khu V miền Nam Việt Nam.
Tình hình nghiên cứu:
Tại Việt Nam, đã có nhiều cơng trình đề cập đến sự tham chiến của
các đơn vị Hàn Quốc trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Chẳng hạn, trong
bộ "Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975" do Viện lịch sử quân
sự Việt Nam biên soạn, trong tập IV xuất bản 1999; tập V xuất bản 2001; tập

7


VI xuất bản năm 2003, các tác giả có đề cập đến hoạt động tác chiến của các
đơn vị quân sự đội Hàn Quốc trong một số trận đánh, chiến dịch trên địa bàn
Khu V trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966) và (19661967) của Mỹ.
Ở một số địa phương thuộc Khu V cũng đã xuất bản một số cơng trình
có liên quan như: "Khu V-30 năm chiến tranh giải phóng 1945-1975", tập II
của Bộ tư lệnh Quân khu V, xuất bản 1989; "Quảng Ngãi-Lịch sử chiến tranh
30 1945-1975" của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ngãi, xuất bản 1988;
"Quảng Nam-Đà Nẵng 30 năm chiến đấu và chiến thắng 1945-1975" của Bộ
chỉ huy quân sự Quảng Nam-Đà Nẵng, xuất bản 1988; "Bình Thuận-30 năm
chiến tranh giải phóng 1945-1975" của Bộ chỉ huy qn sự Bình thuận, xuất
bản năm 1992; "Phú Yên-30 năm chiến tranh giải phóng 1945-1975" của Bộ
chỉ huy quân sự Phú Yên, xuất bản 1993... Tuy nhiên, trong các cơng trình này
các tác giả cịn đề cập rất ít hoặc chỉ mới dừng lại ở mô tả các hoạt động đơn lẻ
của từng đơn vị quân Hàn Quốc với tư cách là lực lượng đánh thuê cho Mỹ,
trên địa bàn từng tỉnh, trong khuôn khổ của một trận đánh, một chiến dịch do
Mỹ tiến hành, mà chưa nghiên cứu nó như một đề tài độc lập, để từ đó dựng
nên bức tranh tồn cảnh của lực lượng quân đội Hàn Quốc trên chiến trường

Việt Nam, hoặc rút ra những nhận xét, đánh giá và kết luận mang tính khái
qt.
Ở nước ngồi, chủ yếu ở Mỹ và Hàn Quốc đến nay đã có nhiều sách,
tạp chí của các học giả nghiên cứu, viết về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam
như: "Giải phẫu một cuộc chiến tranh" của G.B Côncô, do Nguyễn Tấn Cửu
dịch, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 1989, "Sự lừa dối hào
nhống" của Neil Sheehan, do nhóm Lê Minh Đức dịch, Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh ần hành năm 1990; "Cuộc chiến tranh dài ngày nhất nước
Mỹ" của G.C Herring, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành 1998; "Cuộc
chiến tranh mười nghìn ngày" của Michel Maclia, Nhà xuất bản Chính trị ấn

8


hành năm 1990; "Nhìn lại quá khứ-tấm thảm kịch và những bài học về Việt
Nam" của R.S.Mc Na-ma-ra, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm
1999; "Ký ức chiến tranh" của Kim Jin Sun (Hàn Quốc), do Phạm Việt Hùng
dịch, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2002; "Sự can dự của quân
đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam (1964-1973)", luận
văn Thạc sỹ của Ku Su Jeong (Hàn Quốc), bảo vệ tại Trường Đại học khoa học
xã hội và nhân căn thành phố Hồ Chí Minh năm 2000; "Allied Participation in
Vietnam" của Bộ lục quân Mỹ, Nhà xuất bản Washington, D.C ấn hành năm
1975 v.v... Những cơng trình trên đây có đề cập ít nhiều đến sự tham gia của
qn đội Hàn Quốc trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, do lập
trường quan điểm cùng với phương pháp luận của những người khác chứng
kiến, nên các tác giả chưa có được những nhận định, đánh giá một cách thoả
đáng, khách quan.
Như vậy, về sự tham gia của quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh
xâm lược của Mỹ ở Việt Nam (1964-1973) cho đến nay vẫn còn là đề tài cần
phải tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu. Mặc dù vậy,

những kết quả nghiên cứu và nguồn tư liệu của các cơng trình kể trên sẽ là cơ
sở tốt để chúng tôi tham khảo, kế thừa trong luận văn của mình.
Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu:
Cơ sở lý luận được vận dụng để nghiên cứu, trình bày luận văn là
dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh và quân đội, đường lối quân sự và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân
dân của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong luận văn, chúng tôi sẽ vận dụng một số phương pháp nghiên cứu
khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, Phương pháp so sánh và loại suy,
Phương pháp liên nghành, đặc biệt là Phương pháp lịch sử và Phương pháp
lơgíc nhằm dựng lại một cách tương đối đầy đủ quá trình tham chiến của các
đơn vị quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh Việt Nam, xem xét
đánh giá các sự kiện, tìm ra mối liên hệ bản chất giữa chúng.
9


Đồng thời, qua đó tơi cũng muốn nhấn mạnh quan điểm của mình là sự
tham gia của quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở
Việt Nam khơng chỉ là sản phẩm trong chính sách đồng minh của Mỹ thời kỳ
Chiến tranh lạnh. Đó cịn là mối quan hệ máu thịt Mỹ-Hàn, là những quyết định
mang tính độc lập tương đối của chính phủ Hàn Quốc. Với sự tham gia của
quân đội Hàn Quốc và quân đội một số nước đồng minh khác của Mỹ tại Việt
Nam, cuộc chiến tranh Việt Nam đã vượt ra ngoài khn khổ của một cuộc
chiến tranh cục bộ, nó trở thành cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu
sắc và có tác động mạnh tới phong trào cách mạng thế giới...
Nguồn tư liệu phục vụ cho nghiên cứu, viết luận văn gồm: Tác phẩm
kinh điển của Các Mác, Ănghen, Lênin, Hồ Chí Minh và của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội; các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, tổng kết,
báo chí của Đảng, Nhà nước Đảng và Quân đội đã được in thành sách, đăng
trên các báo và tạp chí; các sách và cơng trình nghiên cứu đã cơng bố có liên

quan đến đề tài; các tư liệu sưu tầm tại Thư viện Trung ương quân đội, Thư
viện Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Trung tâm thông tin Khoa học và công
nghệ Bộ quốc phịng. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng nguồn tư liệụ từ sách báo
và tạp chí xuất bản trong nước và quốc tế có nội dung liên quân đến đề tài.
Đóng góp của luận văn:
Luận văn cố gắng trình bày một cách tương đối có hệ thống, tồn diện
q trình tham chiến, lực lượng tham chiến, đặc thù tác chiến và vai trò của các
đơn vị quân đội Hàn Quốc trên chiến trường Khu V miền Nam Việt Nam, từ
đó rút ra những bài học thực tiễn qua việc Hàn Quốc đưa quân sang tham chiến
tại Việt Nam, đồng thời đi sâu phân tích chính sách đồng minh của Mỹ trong
thời kỳ Chiến tranh lạnh, đặc biệt là trong giai đoạn "Chiến tranh Việt Nam",
rút ra những vấn đề bản chất, đưa ra một số nhận định về chính sách đồng minh
của Mỹ trước đây cũng như trong tương lai. Ngoài ra, nguồn tư liệu đã sưu tầm

10


được để viết luận văn cũng là một đóng góp của tác giả cho công tác nghiên
cứu lịch sử chiến tranh, lịch sử quân đội và lịch sử dân tộc...
Kết cấu luận văn gồm: 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Chính sách đồng minh và quân đội một số nước đồng minh của
Mỹ tham chiến tại Việt Nam.
Chương này tập trung phân tích bản chất, q trình xây dựng và mở
rộng đồng minh, các khối liên minh quân sự của Mỹ từ sau Chiến tranh Thế
giới thứ II đến đầu thập kỷ 70. Qua đó rút ra những đặc điểm có tính quy luật
là khi triển khai các chiến lược tồn cầu, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc ln sử
dụng các nước đồng minh như những công cụ hữu hiệu để bao vây, tiến cơng
các điểm nóng mà họ coi là đe doạ hoặc có khả năng đe doạ đến quyền lợi và
an ninh nước Mỹ. Để lôi kéo các nước đồng minh, Mỹ luôn dùng con bài viện
trợ kinh tế và quân sự để mặc cả, thúc ép các nước đi vào guồng quay của họ.

Riêng với khu vực Đông Nam Á, sau thất bại của thực dân Pháp ở
Đông Dương 1954, vì coi Việt Nam là con cờ Đơminơ đầu tiên ở khu vực Đông
Nam Á và cả châu Á, Mỹ đã từng bước thay chân Pháp tiến hành cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam, đồng thời không ngừng mở rộng đồng minh và các
khối liên minh quân sự ra tồn bộ khu vực. Trong vịng chưa đầy một thập kỷ,
Mỹ đã ký hàng loạt Hiệp ước quân sự tay đôi với các nước Thái Lan, Hàn Quốc,
Phi-lip-pin, Nhật Bản, Đài Loan, Ôxtrâylia, Niu Di-lân v.v.., tạo nên một vòng
vây nhiều tầng nhiều lớp, từ xa đến gần vây chặt Việt Nam.
Chính sách đồng minh quen thuộc của Mỹ hiện nay vẫn đang được Nhà
Trắng sử dụng một cách "linh hoạt" dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau.
Sau sự kiện ngày 11-9-1999, dưới chiêu bài chống khủng bố, Mỹ đã và
đang tăng cường mở rộng "vùng ảnh hưởng" của mình ra khắp các châu lục,
đặc biệt là ở các khu vực mà trước đây, trong thời kỳ Chiến tranh lạnh Mỹ coi
là nằm trong vòng "ảnh hưởng" của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Năm 2000, Nhà
Trắng đã đưa ra cái gọi là "Đề án cho nước Mỹ trong thế kỷ mới" (Project for

11


the new American Century -PANC). Trong đề án đó, Mỹ một lần nữa khẳng
định "các nước đồng minh then chốt" là "công cụ hữu hiệu nhất và linh hoạt
nhất để thiết lập sự thống trị của Mỹ trên toàn thế giới". Đối với khu vực Đông
Nam Á, đề án nhấn mạnh "Đã đến lúc cần tăng cường sự hiện diện quân sự của
Mỹ ở khu vực này", và tính đến khả năng "Thay đổi chế độ cầm quyền ở Trung
Quốc".
Như vậy, nếu PANC là hiện thực, thì trong tương lai, chính sách đồng
minh quen thuộc của Mỹ lại một lần nữa được đưa ra thực hiện. Khi đó, các
nước Nam Á và Đông Nam Á, đặc biệt là các nước có đường biên giới gần và
xa với Trung Quốc chắc chắn sẽ lại được Mỹ đưa vào vòng mặc cả.
Chương 2: Quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở

Việt Nam giai đoạn 1964-1973.
Chương này tập trung khái quát, hệ thống lịch sử quá trình tham
chiếncủa các đơn vị quân đội Hàn Quốc trên chiến trường Nam Việt Nam, phân
tích ngun nhân vì sao Hàn Quốc lại là nước tham gia chiến dịch "Thêm cờ"
của Mỹ một cách tích cực nhất, đưa quân sang Việt Nam nhiều nhất và được
Mỹ đánh giá là tác chiến có hiệu quả nhất trong số các nước đồng minh Mỹ có
quân tham chiến tại Việt Nam. Nội dung của chương cịn tập trung phân tích
vai trị, đặc thù, tác chiến của lực lượng này trên chiến trường Khu V, đồng thời
đề cập một cách tương đối chi tiết mối quan hệ quân sự Mỹ- Hàn từ sau Chiến
tranh thế giới thứ II đến 1965 (thời điểm chính phủ Hàn Quốc quyết định đưa
lực lượng bộ binh sang tham chiến tại Việt Nam). Tiết 2 của chương tập trung
khái quát hệ thống tổ chức, binh chế, chỗ dựa của quân đội Hàn Quốc từ 19451965, qua đó cho thấy sự phụ thuộc, mối ràng buộc giữa quân đội Hàn Quốc
với Mỹ và quân đội Mỹ.
Chương 3: Một vài nhận xét về sự tham gia của quân đội Hàn Quốc trong
cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 19641973

12


Chương này tập trung phân tích tính chất của cuộc "Chiến tranh Việt
Nam", âm mưu quốc tế hoá cuộc chiến tranh của Mỹ trong bối cảnh Chiến tranh
lạnh; lý giải bối cảnh, động lực của việc Hàn Quốc đưa quân sang tham chiến
tại Việt Nam, đồng thời đề cập và phân tích những đánh giá của người trong
cuộc, đặc biệt là các sỹ quan cấp cao Mỹ về hiệu quả tác chiến của quân đội
Hàn Quốc trên chiến trường Nam Việt Nam; lật lại và khái quát mối quan hệ
truyền thống tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Hàn từ xưa đến nay, qua đó rút ra
những bài hoạc lịch sử, đánh giá cái được, cái mất trong việc Chính phủ Hàn
Quốc đưa quân sang tham chiến tại Việt Nam.

13



Chương 1
CHÍNH SÁCH ĐỒNG MINH VÀ QUÂN ĐỘI MỘT SỐ NƯỚC
ĐỒNG MINH CỦA MỸ THAM CHIẾN Ở VIỆT NAM
1.1. Chính sách đồng minh trong các chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ
giai đoạn 1946 - 1968
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, do có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh
đế quốc Mỹ đã trở thành tên đế quốc đầu sỏ trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.
Với tham vọng bá chủ tồn cầu, Mỹ đã nhanh chóng tìm cách thay chân các đế
quốc khác, mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra các nơi và trở thành thực dân lớn
nhất của thời đại, dinh luỹ chủ yếu của các thế lực phản động quốc tế, là kẻ thù
nguy hiểm nhất của phong trào cách mạng thế giới, của hoà bình và an ninh của
các dân tộc.
Chính trong bối cảnh đó, nhằm ngăn chặn ảnh hưởng và sự lớn mạnh
của phe xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc đang trỗi dậy,
những người đứng đầu Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã liên tiếp đưa ra và triển
khai thực hiện các học thuyết (chủ nghĩa) toàn cầu mà trụ cột là các học thuyết
quân sự nhằm phục vụ cho tham vọng bá chủ toàn cầu của Mỹ.
Ngay từ tháng 5-1945, khi chủ nghĩa phát xít Đức vừa bị Hồng quân
Liên Xô tiêu diệt, Tư lệnh không quân Mỹ, Đại tướng G. Ác-nôn-đơ và Tư lệnh
lực lượng không qn Anh, Ngun sối S. Pc-tan, đã thảo luận và đi đến
thống nhất rằng "Kẻ thù tiếp theo của chúng ta là nước Nga xô viết, bởi vậy, để
sử dụng lực lượng khơng qn chiến lược một cách có hiệu quả, chúng ta cần
có những căn cứ bố trí trên trên khắp thế giới, để từ những căn cứ đó chúng ta
có thể đến được bất cứ mục tiêu nào ở Nga" [36: 6].
Với âm mưu bao vây và bóp nghẹt Liên Xơ, tháng 7-1946, Mỹ cơng
khai tun bố chính sách đối ngoại của mình là "thực hiện sự ngăn chặn lâu dài,
nhẫn nại, kiên định, cảnh giác đối với xu thế bành trướng của Liên Xô";"áp
14



dụng chính sách kiên quyết ngăn chặn, ở bất kỳ nơi nào mà Liên Xơ có khả
năng làm tổn hại tới lợi ích của phương Tây"[36: 14]. Tiếp đó, ngày 12-3-1947,
trong bài diễn văn trước Quốc hội, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã chính thức
tuyên bố lấy học thuyết của mình làm chính sách đối ngoại của Mỹ. Ơng lập
luận rằng, các nước Đông Âu vừa mới "bị cộng sản thơn tính" và những đe doạ
tương tự như thế của chủ nghĩa cộng sản đang diễn ra ở nhiều nước châu Âu
khác như Italia, Pháp và Đức. Vì vậy, Mỹ phải đứng ra đảm nhiệm sứ mạng
lãnh đạo thế giới tự do, phải giúp đỡ các dân tộc trên thế giới chống lại "chủ
nghĩa cộng sản", chống lại "sự bành trướng" của Liên Xơ bằng mọi biện pháp
kinh tế, chính trị, quân sự [14: 173]...
Trên cơ sở của học thuyết H.Truman, chính quyền Mỹ đã vạch ra
chương trình hoạt động quân sự ủng hộ các lực lượng phản động trên thế giới,
củng cố chế độ tư bản chủ nghĩa ở những nơi Mỹ đã mất, đảm bảo những điều
kiện cho việc bành trướng của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Chính sách qn sự, hay
nói đúng hơn là chiến lược tồn cầu phản cách mạng ấy được giới quân sự Mỹ
khái quát bằng cái tên "Ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản", hay còn gọi là "Chiến
lược ngăn chặn". Chiến lược quân sự này được xây dựng dựa trên cơ sở ưu thế
độc quyền về vũ khí nguyên tử của Mỹ, bản chất của nó là tiến hành bao vây,
tiến cơng tiêu diệt, đánh bại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Phương tiện
chủ yếu để thực hiện "Chiến lược ngăn chặn" là: bom nguyên tử, máy bay ném
bom chiến lược và các căn cứ không quân khổng lồ; chỗ dựa quân sự để Mỹ
triển khai ba phương tiện trên là các khối liên minh quân sự và vành đai các
căn cứ không quân chiến lược mà Mỹ triển khai trên lãnh thổ các nước đồng
minh.
Để mở rộng đồng minh và xây dựng các khối liên minh quân sự phục
vụ cho các mục tiêu của "Chiến lược ngăn chặn", Mỹ đã dùng mọi biện pháp
kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao v.v... trong đó biện pháp kinh tế là công


15


cụ chủ yếu để lôi kéo, tập hợp các nước trên thế giới vào guồng máy chiến tranh
xâm lược của Mỹ.
Tại khu vực châu Âu, trên cơ sở xác định Liên Xô là đối thủ trực tiếp
và nguy hiểm đang "đe doạ quyền lợi" của Mỹ, ngày 3- 4-1947, lấy cớ viện trợ
kinh tế cho các nước châu Âu vừa bị tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ II,
Quốc hội Mỹ đã thông qua Kế hoạch Mác-san (Marshall Plan) với những quy
định: các nước nhận viện trợ buộc phải ký với Mỹ những hiệp định tay đơi (có
tính chất ràng buộc); phải thi hành các chính sách kinh tế, tài chính mà Mỹ yêu
cầu; phải bảo đảm quyền lợi cho tư nhân Mỹ đầu tư kinh doanh; phải cung cấp
nguyên liệu chiến lược cho Mỹ; phải thiết lập các tài khoản đặc biệt mà việc sử
dụng tài khoản này phải được Mỹ đồng ý; phải liên minh quân sự với Mỹ và để
Mỹ đặt các căn cứ quân sự trên lãnh thổ nước mình...
Kế hoạch Mác-san cịn buộc các nước nhận "viện trợ" phải chấm dứt
quan hệ thương mại với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, từ bỏ kế hoạch
quốc hữu hoá và phải tiến hành đưa tất cả các lực lượng tiến bộ ra ngoài chính
phủ (Đảng cộng sản Pháp và Đảng cộng sản Italia bị đưa ra khỏi chính phủ vào
thời kỳ này), thậm chí cho Mỹ được quyền can thiệp vào nội bộ nước mình.
Với kế hoạch Mac-san, trong vịng chưa đầy một năm, từ tháng 6-1947
đến tháng 4-1948, 16 nước châu Âu là: Anh, Pháp, Áo, Bỉ, Luých-xăm-bua,
Đan Mạch, Na-uy, Thụy Điển, Ai-xơ-len, Thụy Sỹ, Hy lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Italia,
Bồ Đào Nha, Cộng hoà liên bang Đức đã tiếp nhận viện trợ của Mỹ với số tiền
lên tới hơn 12,5 tỷ đơ la.
Khơng chỉ có vậy, dựa trên thế mạnh của kẻ cho vay, ngày 4-4-1949,
Mỹ đã lôi kéo 11 trong số 16 nước nhận viện trợ là: Anh, Pháp, Bỉ, Luýchxăm-bua, Hà Lan, Na-Uy, Đan Mạch, Ai -xơ -len, I-ta-lia, Bồ Đào Nha ký hiệp
ước thành lập khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) do Mỹ đứng đầu.
Sự ra đời của NATO cùng với việc Mỹ thông qua Đạo luật viện trợ song phương
về quốc phòng cho các nước thành viên, trên thực tế đã trở thành những công


16


cụ quyết định để Nhà Trắng và Lầu Năm Góc thực hiện chiến lược "Ngăn chặn
chủ nghĩa cộng sản" thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ II.
Như vậy, thông qua công cụ kinh tế và quân sự, Mỹ không những đã
khống chế về kinh tế, chính trị, quân sự đối với nhiều nước châu Âu, mà còn
thành lập được hệ thống gồm các nước đồng minh quân sự bao quanh Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Tại khu vực Mỹ-la-tinh, nhằm biến châu lục này thành "sân sau" của Mỹ,
đồng thời để sử dụng nó như một công cụ hữu hiệu chống lại các nước xã hội
chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc khu vực, ngày 2 tháng 9 năm 1947,
tại Ri-ô đờ Gia-nê rô (Bra-xin), Mỹ và 17 nước thân Mỹ gồm: Ác-hen ti-na,
Bô-li-vi-a, Bra-xin, Chi-lê, Cô-lôm-bi-a, Cô xta Ri-ca, Cuba, Đô-mi-ni-ca,
Goa-tê-ma-la, Ha-i-ti, Hon-đu-rát, Mê-hi-cô, Pa-na-ma, Pa-ra-goay, Pe-ru, Uru-goay, Vê-nê-zu-e-la đã tổ chức hội nghị và ký Hiệp ước phòng thủ chung
Tây bán cầu (Hiệp ước RIO). Theo Hiệp ước này, các nước tham gia ký kết
xem "mọi cuộc tiến công vào một nước châu Mỹ như là một cuộc tiến công vào
tất cả các nước khác". Và trong trường hợp đó, khi có hai phần ba số nước tham
gia Hiệp ước biểu quyết tán thành, tất cả các nước phải có trách nhiệm cùng
nhau hành động để bảo vệ "Khu vực an ninh". Khu vực này bao gồm cả các
đảo Ha-oai và nhiều lãnh thổ khác thuộc bắc cực và Thái Bình Dương-những
nơi nằm trong quyền lợi của Mỹ. Với Hiệp ước RIO, Mỹ đã tiến thêm một bước
quan trọng trong việc khống chế khu vực Tây bán cầu, tạo cơ sở pháp lý để Mỹ
lôi kéo các nước châu Mỹ vào cuộc vũ trang đàn áp phong trào cách mạng của
bất kỳ một quốc gia nào ở châu Mỹ hoặc vào cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ
gây ra.
Tại khu vực châu Á -Thái Bình Dương, với mục đích duy trì và mở
rộng ảnh hưởng của mình, phục vụ cho chiến lược toàn cầu chống các nước xã
hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ ở khu

vực Đơng Nam Á và Nam Thái Bình Dương, ngày 30-8-1951 Mỹ đã ký hiệp

17


ước Liên minh qn sự tay đơi với Phi-líp-pin. Theo hiệp ước này, Mỹ có quyền
được triển khai lực lượng và lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Phi-líp-pin. Tiếp
đó, ngày 1 tháng 9 năm 1951, Mỹ, Ơ-xtrây-lia và Niu Di-lân đã ký hiệp ước
thành lập khối chính trị - quân sự ANZUS. Sau khi hiệp ước có hiệu lực (29-41952), Mỹ đã lập được hàng loạt các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Ô-xtrây-lia
và Niu Di-lân, khống chế và kiểm soát một phần quan trọng khu vực Tây Nam
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, hợp pháp hố việc lực lượng qn Mỹ sự
có mặt thường xun tại khu vực này.
Chỉ vài ngày sau khi thành lập ANZUS, ngày 8-9-1951, tại thành
phố Xan-Phran-xcô, Mỹ ký tiếp với Nhật Bản "Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ".
Với hiệp ước này, Nhật Bản chấp nhận dưới ô "bảo vệ hạt nhân" của Mỹ, để
cho Mỹ có quyền xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản và các
miền phụ cận nước Nhật, đổi lại, Nhật Bản sẽ nhận được những ưu đãi đặc biệt
về kinh tế và quân sự từ phía Mỹ. Hiệp ước an ninh Nhật- Mỹ là cơ sở pháp lý
để Mỹ mở rộng sự có mặt về quân sự đối với khu vực vòng cung chiến lược
tiền tiêu kéo dài từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á. Mục tiêu của Mỹ trong
việc thiết lập vòng cung chiến lược này là nhằm chống lại Liên Xô, Trung Quốc
và phong trào cách mạng ở vùng Viễn Đơng, hợp pháp hố việc qn đội Mỹ
chiếm đóng và xây dựng các căn cứ quân sự trên đất Nhật, biến Nhật Bản thành
căn cứ chiến lược phuc vụ cho mưu đồ bành trướng và xâm lược của Mỹ ở khu
vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngồi việc ký hiệp ước quân sự tay đôi với Philip-pin và Nhật Bản, Mỹ còn ký hàng loạt hiệp ước khác với Thái Lan, Đài
Loan và Nam Triều Tiên.
Như vậy, chỉ trong vòng 5 năm kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ II,
với việc ráo riết triển khai chiến lược "Ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản", các "vòi
bạch tuộc" của nước Mỹ đã vươn tới hầu hết các châu lục. Với chuỗi xích đồng
minh như vậy, Mỹ một mặt sử dụng lực lượng qn sự các nước đó cho mục

đích xâm lược, chống phá cách mạng thế giới và mặt khác, trực tiếp đưa lực

18


lượng quân đội Mỹ đến đóng căn cứ ngay tại các nước ấy, tạo nên những bàn
đạp bao vây và tiến công ở sát biên giới Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác.
Thực tiễn nhiều năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho thấy, "chiến
lược ngăn chặn" tuy đã đạt được một số mục tiêu, đưa nước Mỹ lao nhanh trên
con đường chạy đua vũ trang, cột chặt hàng chục nước đồng minh vào cỗ xe
quân sự của Mỹ, làm cho tình hình thế giới thường xuyên căng thẳng trong bầu
khơng khí của chiến tranh lạnh, nhưng Mỹ đã không ngăn chặn nổi sự phát triển
mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới. Với hàng loạt nước châu Âu và
châu Á được giải phóng, đặc biệt là thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm
1949 - một nước có số dân đơng nhất thế giới - hệ thống xã hội chủ nghĩa đã
hình thành; việc liên quân Trung-Triều đã đẩy lui cuộc tiến công xâm lược của
Mỹ và chư hầu sang bên kia vĩ tuyến 38 vào năm 1952, báo hiệu sự thất bại
không thể tránh khỏi của Mỹ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên; hàng loạt nước
như Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp đã giành được độc lập; cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam kéo dài gần một thế kỷ đang trên đà tới
thắng lợi hoàn toàn.v.v.. Tất cả những thay đổi ấy cùng với việc Liên Xô chế
tạo và thử thành công bom nguyên tử vào tháng 7 năm 1949 đã phá thế độc
quyền nguyên tử của Mỹ, giáng một địn chí mạng vào "chiến lược ngăn chặn"
buộc Mỹ phải tìm kiếm một chiến lược quân sự mới để đối ứng với tình thế.
Năm 1953, chỉ vài tháng sau khi thay H.Truman lãnh đạo Nhà Trắng,
Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao đã cho thực hiện một chiến lược quân sự toàn cầu
mới - chiến lược "Trả đũa ồ ạt". Nội dung chủ yếu của chiến lược này là: tăng
cường chuẩn bị chiến tranh tổng lực, lấy vũ khí hạt nhân và không quân chiến
lược làm cơ sở để tiến hành một cuộc chiến tranh chớp nhống, ồ ạt khơng hạn

chế ở những địa điểm và thời gian do Mỹ lựa chọn; xây những liên minh quân
sự khu vực mạnh và những liên minh song phương với vai trò áp đảo dành cho
lực lượng lục quân, hải quân và không quân Mỹ; dựa vào các nước đồng minh

19


và chư hầu để bao vây sát biên giới Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đàn
áp phong trào cách mạng ở các khu vực, trực tiếp đưa quân Mỹ đến lập các
căn cứ trên vành đai ấy để hỗ trợ cho các nước đồng minh khi không có chiến
tranh, và trực tiếp chi viện cho các nước đó khi chiến tranh xảy ra.
Như vậy, về mục tiêu và biện pháp cơ bản, chiến lược "trả đũa ồ ạt"
không khác nhiều so với "chiến lược ngăn chặn" bởi cả hai chiến lược quân sự
toàn cầu này đều nhằm bao vây tiêu diệt Liên Xô, chế độ xã hội chủ nghĩa và
phong trào giải phóng dân tộc trên tồn thế giới, đều dựa trên sức mạnh hạt
nhân và không quân chiến lược. Tuy nhiên, khi ưu thế và độc quyền về vũ khí
hạt của Mỹ khơng cịn nữa, thì những "ưu tiên" cho chiến lược này đã có những
thay đổi. Trong chiến lược "trả đũa ồ ạt" Mỹ đề cao vai trò lực lượng tại chỗ
của các nước đồng minh.
Trong bài diễn văn đọc ngày 12-1-1954 tại Uỷ ban về các chính sách
đối ngoại, ngoại trưởng Mỹ Đa-lét tuyên bố: "Chính sách của Mỹ phải đi đơi
với một chính sách đồng minh. Lực lượng của chúng ta có hạn. Chúng ta không
thể cung cấp tất cả lực lượng bộ binh, hải quân và không quân cho cả thế giới
tự do, vì vậy, bằng mọi cách, chúng ta phải giúp đỡ các nước đồng minh, để
nhờ sự giúp đỡ đó, các nước đồng minh có thể bảo vệ được an ninh tại chỗ của
mình và của cả chúng ta [36:14].
Với cách nhìn mới về vai trị và tầm quan trọng của lực lượng đồng
minh, trong vòng 8 năm từ 1953 đến 1960, chính quyền Ai-xen- hao đã khơng
ngừng củng cố và mở rộng các khối liên minh quân sự trên khắp các châu lục,
kéo thêm hàng chục nước vào cỗ máy Chiến tranh lạnh của Mỹ.

Chỉ riêng tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, sau thất bại hồn tồn
của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam năm 1954, Mỹ đã biến khu vực Đông
Nam Á thành trọng điểm mở rộng đồng minh của họ. Trong bối cảnh ấy, Việt
Nam càng có tầm quan trọng, vì đó là "một bãi thử nghiệm sức sống của tư
tưởng và các thể chế Mỹ" [18: 72]. Với thuyết Đô-mi-nô, Tổng thống Mỹ Ai-

20


xen-hao cho rằng: "Nếu Đông Dương rơi vào tay cộng sản thì các nước cịn lại
ở châu Á kể cả Nhật Bản cũng sẽ lần lượt rơi vào tay cộng sản..." Và điều đó
sẽ đe doạ trực tiếp đến an ninh và quyền lợi của nước Mỹ cũng như của thế giới
tự do". Thuyết Đô-mi-nô là luận thuyết nền tảng để Mỹ từng bước tiến hành
xâm lược Việt Nam, đồng thời nó cịn là cơ sở để từ đó Nhà Trắng và Lầu Năm
Góc hoạch định các chính sách viện trợ và phát triển đồng minh trong khu vực.
Nếu như trong những năm từ 1946-1952, viện trợ nước ngoài của Mỹ
phần lớn dành cho các nước đồng minh Tây Âu, thì từ sau 1954, hơn một nửa
tổng số viện trợ ấy được dành cho khu vực Đông Á và Đông Nam Á [ 17: 329]
nhằm mục tiêu duy trì mở rộng hơn nữa các chế độ thân Mỹ, đồng thời từng
bước hiện đại hoá các căn cứ quân sự của Mỹ trong khu vực nhằm tạo ra "một
đường ranh giới mà cộng sản sẽ khơng vượt qua nổi" [18: 49].
Vì coi Việt Nam là "nền tảng của thế giới tự do ở Đơng Nam Á, là
tảng đá đỉnh vịm, là chân móng của con đê" và là qn cờ Đơ-mi-nơ đầu tiên
ở khu vực, tháng 9 năm 1954, nghĩa là sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết,
Mỹ cùng với 7 nước là Anh, Pháp, Ơ-xtrây-lia, Niu Di-lân, Phi-líp-pin, Thái
Lan, Pa-ki-xtan thành lập tổ chức Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á
(SEATO). Măc dù không lôi kéo được các nước lớn như Ấn Độ, In-đô-nê-xia
tham gia, nhưng theo quan điểm của Đalét, việc thành lập được khối SEATO
đã "vượt quá mức thoả mãn của Mỹ, vì sự tồn tại của nó khơng những có thể
ngăn ngừa và răn đe được việc Trung Quốc can thiệp vào cuộc chiến tranh ở

Đơng Dương mà cịn củng cố và mở rộng được ảnh hưởng của Mỹ ra toàn bộ
khu vực châu Á... Sự ra đời của SEATO cịn có thể làm mất đi nỗi ô nhục của
nước Pháp trong cuộc chiến trang Đơng Dương, và bảo đảm tồn tồn bộ gánh
nặng khu vực này không rơi vào Mỹ"[18: 39] Ngay sau khi thành lập, SEATO
đã đưa ra học thuyết phòng thủ "Tầm nhìn mới", theo đó lực lượng của các
nước thành viên sẽ đảm đương những phần chính khi các cuộc chiến trên bộ
xảy ra, cịn Mỹ sẽ có trách nhiệm đảm bảo chi viện không quân, hải quân, cung

21


cấp tiền, vũ khí cũng như hàng tiếp tế và huấn luyện cho quân đội các nước
này. Trong Nghị định thư về Đông Dương, SEATO đặt miền Nam Việt Nam,
Lào và Căm-pu-chia dưới ơ "bảo hộ" của nó.
Như vậy, rõ ràng sự ra đời của SEATO là nỗ lực của Mỹ trong việc
triển khai thực hiện chiến lược quân sự toàn cầu "Trả đũa ồ ạt" ở khu vực này.
Tuy vậy, sự ra đời của tổ chức này nằm trong thế bị động, trước hết là để đối
phó với tình hình trong khu vực đang diễn ra theo chiều hướng khơng có lợi
cho Mỹ, sau khi Việt Nam giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp. Mưu đồ của Mỹ Khi thành lập SEATO là nhằm tạo ra một vòng
cung phản ứng cách mạng chống lại ảnh hưởng của phong trào giải phóng dân
tộc từ bán đảo Đông Dương lan tới. Tại Hội nghị thành lập tổ chức này, các
nước thành viên còn ký 2 văn kiện có tính chất nền tảng của SEATO là "Hiệp
ước phịng thủ chung Đông Nam Á" (Hiệp ước Manila) và "Hiến chương Thái
Bình Dương". Trong cả 2 văn kiện nền tảng ấy của SEATO đã trình bày đầy
đủ những nguyên tắc can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc vào công việc
nội bộ của các nước trong vùng. Chẳng hạn, trong "Hiệp ước phịng thủ chung
Đơng Nam Á", ngun tắc đó được trình bày như sau: "Duy trì và làm tăng khả
năng của từng nước và của toàn khối chống lại sự tiến công vũ trang và ngăn
chặn hoạt động phá hoại từ bên ngoài, trong trường hợp một trong các quốc gia

thành viên có nguy cơ bị đe doạ tiến cơng hoặc coi đó là nguy cơ đe doạ tiến
cơng từ bên ngồi, nhằm đảm bảo sự tồn vẹn lãnh thổ và sự ổn định chính trị
của các nước trong vùng".
Với cách trình bày về nội dung phịng thủ như vậy, Mỹ và các nước
tham gia Hiệp ước tự cho mình cái quyền, đặt mọi phong trào nhân dân, mọi
bất đồng chính kiến của các nước, các quốc gia khác đều là "hoạt động phá hoại
từ bên ngoài đưa tới" và coi đó là lý do để chúng thọc tay vào công việc nội bộ
của các nước trong vùng, kể cả những nước không tham gia hiệp ước. Hiệp

22


ước này còn nêu rõ, vùng được SEATO xác định thuộc quyền hành động của
mình là "tồn bộ vùng Đơng Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương.
Như vậy, tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, ngồi tổ chức Hiệp
ước an ninh Thái Bình Dương ANZUS trước đây, nay đã có thêm SEATO một tổ chức mà thành viên của khối nằm ngay sát Việt Nam. Bên cạnh hai liên
minh qn sự to lớn đó, Mỹ cịn ký hàng loạt liên minh quân sự tay đôi riêng
rẽ với các nước trong khu vực như: Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Nhật Bản,
Phi-lip-pin, Pa-ki-xtan, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Việt Nam, nhằm tạo nên một vịng
vây khép kín uy hiếp và bóp nghẹt các nước xã hội chủ nghĩa ở phía Nam và
Đông Nam lục địa châu Á.
Tại khu vực Trung Cận Đông, năm 1955, theo sáng kiến của Mỹ, Anh
cùng với I-rắc, Thổ Nhĩ Kỳ, Pa-ki-xtan và I-ran đã ký Hiệp ước thành lập khối
quân sự - chính trị ở vùng Trung Cận Đông - Khối Trung tâm CENTO (The
Central Treaty Organization). Tuy Mỹ khơng chính thức tham gia khối này,
nhưng lại là kẻ bảo trợ chính cho nó. Mục đích của CENTO là nhằm chống
Liên Xô, các lực lượng tiến bộ và phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực
Trung Cận Đông.
Với hệ thống các liên minh quân sự, trong đó có hơn 800 căn cứ quân
sự được thiết lập trên 35 nước và khu vực hải ngoại, trong 16 năm từ 1946 đến

1960, Mỹ đã xây dựng được những bàn đạp tiếp cận để bao vây, tiến công Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Những bàn đạp đó trải suốt từ Bắc Mỹ,
sang Bắc Âu, Tây Âu vịng xuống Địa Trung Hải, Trung Cận Đơng, qua Đông
Nam Á, lên tới Đông Bắc Á. Với hàng chục tỉ đô la viện trợ kinh tế và viện trợ
quân sự cho các nước đồng minh trung bình mỗi năm, Mỹ khơng chỉ duy trì,
mở rộng sự hiện diện của các căn cứ quân sự của mình ở nước ngồi, mà cịn
thường xun cột chặt chính phủ các nước nhận viện trợ vào cỗ máy chiến tranh
và chạy đua vũ trang của Mỹ kéo dài trong suốt những thập kỷ 50 của thế kỷ
XX.

23


Đến năm 1961, do không ngăn chặn được sự phát triển của phong trào
cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi và
Mỹ La tinh (năm 1960 có 17 quốc gia châu Phi giành được độc lập), đồng thời
bị mất ưu thế chiến lược, đặc biệt là chiến lược hạt nhân, do sự lớn mạnh của
tiềm lực hạt nhân và tên lửa chiến lược của Liên Xô, Mỹ buộc phải thay đổi
chiến lược quân sự toàn cầu từ "Trả đũa ồ ạt" chuyển sang chiến lược "Phản
ứng linh hoạt" nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu thống trị toàn cầu trong một thế
giới đang trên đà chuyển biến mạnh mẽ bất lợi cho Mỹ. Thay đổi lớn nhất trong
chiến lược "phản ứng linh hoạt" so với chiến lược "Trả đũa ồ ạt" là chuyển
hướng chiến lược từ chuẩn bị chiến tranh tổng lực để uy hiếp và tiến công ồ ạt
vào đối phương bằng vũ khí hạt nhân là chính, sang sẵn sàng "phản ứng lại
mọi hình thức có thể bằng sức mạnh" một cách linh hoạt để giành thắng lợi từ
chiến tranh hạn chế với các cấp độ khác nhau đến chiến tranh tổng lực, phù
hợp với thực tế tương quan lực lượng hạt nhân Xơ-Mỹ và đối phó với phong
trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh. Các biện pháp quân sự cơ bản để
thực hiện chiến lược "Phản ứng linh hoạt" là hoàn thiện khả năng huỷ diệt chắc
chắn, bảo vệ tốt lực lượng hạt nhân chiến lược mà nòng cốt là tên lửa hạt nhân,

sẵn sàng uy hiếp và chống lại các địn tiến cơng hạt nhân của đối phương, tăng
cường khả năng phản ứng linh hoạt của Mỹ và NATO chống lại các cuộc chiến
tranh giải phóng, chiến tranh cách mạng; tăng cường viện trợ kinh tế và quân
sự cho các nước đồng minh và tay sai để họ có thể tự chiến đấu trong những
cuộc chiến tranh hạn chế và đàn áp phong trào cách mạng tại chỗ.
Theo đuổi chiến lược này, chính quyền Ken-nơ-đi một mặt tiếp tục tăng
cường lực lượng hạt nhân, đặc biệt là lực lượng hạt nhân chiến lược, mặt khác
gấp rút phát triển lực lượng vũ trang thông thường. Chỉ tính riêng về mặt quân
số, quân Mỹ đã tăng từ 2,5 triệu quân năm 1961 lên tới 3,5 triệu vào năm 1968,
riêng lục quân tăng từ 0,86 triệu lên 1,57 triệu [36: 64].

24


Trong chính sách đồng minh, vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX,
khi miền Nam Việt Nam trở thành điểm nóng trong chiến lược "Phản ứng linh
hoạt", Mỹ một mặt tiếp tục duy trì và củng cố các hệ thống liên minh quân sự
với các nước đồng minh đã có ở châu Âu và Mỹ La tinh, mặt khác đã tập trung
mọi nổ lực nhằm phát triển và mở rộng đồng minh ở khu vực Đông Á và Đông
Nam Á. Trong chiến lược của mình, Mỹ muốn biến Nhật Bản, Nam Triều Tiên,
Đài Loan, Thái Lan, Phi-líp-pin và một số nước khác trong khu vực thành
những pháo đài vũng chắc, những "hàng khơng mẫu hạm khơng thể bị đánh
chìm" để từ đó có thể đối phó và giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh Việt
Nam. Mắc-xoen Tay-lo, cha đẻ của chiến lược "Phản ứng linh hoạt" khẳng
định: "nếu chương trình của Mỹ ở Nam Việt Nam thành cơng thì sẽ ổn định
được tình hình ở tồn bộ khu vực Đơng Nam Á, cịn nếu thất bại thì sẽ có ảnh
hưởng to lớn đến những thành quả của Mỹ không chỉ ở châu Á mà còn cả ở
châu Phi và Mỹ-la tinh" [18: 193]. Với các mục tiêu trên, trong vòng gần 10 năm
từ 1963 đến 1973, Mỹ đã dành hơn 80 % viện trợ quân sự nước ngoài cho khu
vực Đông Á và Đông Nam Á, khu vực này cũng đã thu hút hơn 60 vạn trong

tổng số một triệu quân Mỹ ở nước ngoài [17: 328]. Số liệu thống kê dưới đây
cho thấy điều đó:
Bảng 1.1 Lực lượng quân Mỹ triển khai tại các nước đồng minh, nhằm bao
vây, tiến cơng các "điểm nóng" thời kỳ 1960-1970
Khu vực châu Âu

Khu vực châu Á-TBD

KV Mỹ La-tinh

Tây Đức

224.300

Nhật Bản

48.000

Panama

9.300

Anh

20.100

Hàn Quốc

40.500


PuetoRico

3.800

Italia

11.400

Guam

8.700

Gutanamo

2.800

Tây Ban Nha

9.200

Philipin

16.000

Tổng cộng

15.900

Bỉ


2.000

Hạm đội 7

27.500

Hà Lan

2.200

N. Việt Nam

500.000

Bồ Đào Nha

1.400

Tổng cộng

Các nước khác

1000

642.700

25

Một số nơi khác
Iran


1.100

Canađa

700

Ma rốc

800


×