Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Tính tương tác trong các chương trình phát thanh trực tiếp của đài pt th hà nội khảo sát chương trình 60 phút bạn và tôi” và gặp thầy thuốc nổi tiếng” từ 6 2012 đến 6 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

TÍNH TƯƠNG TÁC TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH
PHÁT THANH TRỰC TIẾP CỦA ĐÀI PT- TH HÀ NỘI
(Khảo sát Chương trình “60 phút bạn và tôi”
và “Gặp thầy thuốc nổi tiếng” từ 6.2012 đến 6.2013)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội -2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

TÍNH TƯƠNG TÁC TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH
PHÁT THANH TRỰC TIẾP CỦA ĐÀI PT- TH HÀ NỘI
(Khảo sát Chương trình “60 phút bạn và tôi”
và “Gặp thầy thuốc nổi tiếng” từ 6.2012 đến 6.2013)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đức Dũng

Hà Nội - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số
liệu, kết quả phân tích trong luận văn là hồn tồn trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Huyền


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.
Nguyễn Đức Dũng, người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình viết
luận văn tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cơ trong khoa Báo chí- Truyền thơng,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã tận tình truyền đạt kiến thức
trong 2 năm học tập. Vốn kiến thức được tiếp thu trong q trình học khơng chỉ
là nền tảng cho quá trình nghiên cứu luận văn mà còn là hành trang quý báu để
em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Em chân thành cảm ơn các anh, chị phóng viên, biên tập viên chương trình
“60 phút bạn và tơi” và “Gặp thầy thuốc nổi tiếng” của Đài PT- TH Hà Nội đã
giúp đỡ em trong quá trình thu thập tư liệu cho luận văn
Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 2013
Nguyễn Thị Thu Huyền



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍNH TƯƠNG TÁC
TRONG CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH TRỰC TIẾP ............................10
1.1.Những thuật ngữ, khái niệm được sử dụng trong luận văn .......................10
1.1.1.Tương tác ................................................................................................10
1.1.2.Trực tiếp ..................................................................................................10
1.1.3.Phát thanh trực tiếp ................................................................................11
1.2.Tính tương tác trên các loại hình báo chí...................................................13
1.2.1.Tính tương tác trên báo in ......................................................................14
1.2.2.Tính tương tác trên báo mạng.................................................................15
1.2.3.Tính tương tác trên truyền hình ..............................................................16
1.3.Tính tương tác trên loại hình báo phát thanh .............................................18
1.3.1.Quan điểm chung về tính tương tác trong chương trình phát thanh ......18
1.3.2.Vai trị của tính tương tác trong chương trình phát thanh .....................21
1.3.3.Đặc điểm của chương trình phát thanh trực tiếp mang tính tương
tác cao......... .....................................................................................................25
1.4.Giới thiệu khái quát về hai chương trình trong diện khảo sát....................30
1.4.1.Chương trình “60 phút bạn và tơi” ........................................................30
1.4.2.Chương trình “Gặp thầy thuốc nổi tiếng”..............................................35
Chương 2: TÍNH TƯƠNG TÁC TRONG CHƯƠNG TRÌNH 60 PHÚT BẠN
VÀ TƠI VÀ GẶP THẦY THUỐC NỔI TIẾNG ............................................39
2.1. Tương tác giữa người dẫn với người dẫn..................................................39
2.1.1.Chương trình 60 phút bạn và tơi.............................................................39
2.1.2.Chương trình “Gặp thầy thuốc nổi tiếng”..............................................48
2.2.Tương tác giữa người dẫn với thính giả.....................................................52
2.2.1.Chương trình “60 phút bạn và tơi” ........................................................52
2.2.2.Chương trình Gặp thầy thuốc nổi tiếng ..................................................55
2.3.Tương tác giữa người dẫn với khách mời..................................................61

2.3.1.Chương trình 60 phút bạn và tơi.............................................................61
2.3.2.Chương trình Gặp thầy thuốc nổi tiếng ..................................................64
2.4.Tương tác giữa thính giả với khách mời....................................................68
2.4.1.Chương trình 60 phút bạn và tơi.............................................................68
2.4.2.Chương trình Gặp thầy thuốc nổi tiếng ..................................................71
Chương 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TƯƠNG TÁC TRONG CHƯƠNG TRÌNH 60
PHÚT BẠN VÀ TƠI VÀ GẶP THẦY THUỐC NỔI TIẾNG .......................75
3.1. Một số đánh giá về tính tương tác............................................................75
3.1.1.Thành công..............................................................................................75
3.1.2.Hạn chế ...................................................................................................80
3.2. Những vấn đề đặt ra và một số giải pháp..................................................85
3.2.1. Những vấn đề đặt ra...............................................................................85
3.2.2.Một số giải pháp......................................................................................87
KẾT LUẬN ......................................................................................................99


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Dẫn chương trình: MC (Master of ceremonies)
Phát thanh truyền hình: PT- TH
Tiếng nói Việt Nam: TNVN


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát thanh là sản phẩm của nền kỹ thuật điện tử. Ra đời trước truyền
hình nên phát thanh từng được coi là loại hình truyền thơng hiệu quả nhất. Sự
sinh động của lời nói, âm nhạc, tiếng động truyền qua làn sóng radio đã được
thính giả đón nhận một cách nồng nhiệt. Tuy nhiên, những năm 40 của thế kỷ
XX, vơ tuyến truyền hình ra đời với sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh đã

tạo nên thế giới hiện thực vô cùng sinh động về cuộc sống trước mắt thính giả
mà họ khơng cần đi đâu xa. Ưu thế của truyền hình là hình ảnh, điều mà phát
thanh khơng có. Đến thập niên cuối của thế kỷ XX, khi Internet lên ngôi và
các tờ báo mạng tung hoành đã làm cho phát thanh thêm lo ngại. Chính vì
vậy, trong bối cảnh bùng nổ các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay,
muốn có chỗ đứng riêng của mình, phát thanh cần phải phát huy tối đa những
ưu thế để vượt lên trong việc cung cấp thơng tin nhanh, chính xác với một
phương thức sinh động, gần gũi với thính giả.
Hướng đi mới được nhiều đài phát thanh từ trung ương đến địa phương
lựa chọn là phát thanh trực tiếp. Việc kết hợp giữa phương tiện sản xuất hiện
đại, phát huy tối đa năng lực truyền thông của radio giúp người nghe luôn cập
nhật được những thơng tin nóng hổi nhất. Phát thanh trực tiếp đòi hỏi sự tham
gia, phối hợp ăn ý của cả một nhóm thực hiện chương trình. Bên cạnh đó,
thính giả cũng đóng vai trị quan trọng tạo nên thành cơng cho chương trình
đó.
Ví dụ, trên kênh phát thanh VOV Giao thơng, khơng chỉ có phóng viên
của Đài tiếng nói Việt Nam là những người cung cấp thơng tin tại hiện trường
mà cịn có rất nhiều thính giả gọi điện về từ các tuyến phố. Những thính giả
của VOV giao thơng đã khơng cịn xa lạ với câu nói của người dẫn chương
trình: “Thính giả có số điện thoại... vừa gọi điện về cho chương trình và
thơng báo tình hình giao thơng tại tuyến đường X như sau...”.
1


Hòa cùng với hướng đi của các đài phát thanh trong cả nước, cũng như
mong muốn được mang đến cho bạn nghe đài những chương trình phát thanh
bổ ích, thiết thực, sinh động, chuyển tải được nhiều nội dung trong khoảng
thời gian ngắn nhất với sự tham gia trực tiếp của thính giả, Đài Phát thanh và
Truyền hình Hà Nội (từ đây viết tắt là Đài PT- TH Hà Nội) rất chú trọng đến
việc xây dựng các chương trình phát thanh trực tiếp mang tính tương tác cao.

Trong số đó, những chương trình phát thanh trực tiếp được bạn nghe đài yêu
thích nhất là tư vấn trực tiếp, chia sẻ ý kiến cá nhân với nhiều chuyên đề trong
lĩnh vực đời sống xã hội. Bên cạnh đó, từ nhu cầu hiểu biết về tâm lý tình
cảm, các vấn đề về sức khỏe đã tạo điều kiện cho việc xuất hiện những
chương trình phát thanh trực tiếp liên quan đến tư vấn một số bệnh thường
gặp, hay về tình yêu, giới tính. Những chương trình như vậy thường thu hút
một lượng thính giả đơng đảo bởi sự hấp dẫn, tương tác qua lại giữa nhiều đối
tượng trong chương trình. Hơn nữa, thính giả sẽ được giải đáp những thắc
mắc hay chia sẻ ý kiến chung mà họ đang quan tâm. Nổi bật nhất trong các
chương trình phát thanh trực tiếp của Đài PT- TH Hà Nội phải kể đến hai
chương trình mang tính tương tác cao: “Gặp thầy thuốc nổi tiếng” và “60
phút Bạn và tôi”.
Rõ ràng trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc cạnh tranh
không chỉ về thơng tin nhanh mà hình thức thể hiện cũng là yếu tố tăng cường
và thúc đẩy sự phát triển của một loại hình báo chí. Có thể thấy, việc tăng
cường tính tương tác trong chương trình phát thanh trực tiếp đang là một xu
hướng mạnh mẽ của phát thanh hiện đại. Đây cũng là một trong những yếu tố
giúp thu hút thính giả tìm đến các chương trình phát thanh. Đó là lý do để
chúng tơi lựa chọn đề tài: Tính tương tác trong các chương trình phát thanh
trực tiếp của Đài PT- TH Hà Nội (Khảo sát chương trình “60 phút bạn và
tơi” và “Gặp thầy thuốc nổi tiếng” từ 6.2012 đến 6.2013) làm đề tài cho luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học. Những kết quả của luận văn có thể
làm phong phú hơn nguồn tài liệu về chương trình phát thanh trực tiếp mang
tính tương tác cao.
2


2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thời gian qua, có khá nhiều cuốn sách, đề tài khóa luận, luận văn nghiên
cứu về các chương trình phát thanh trực tiếp và tính tương tác trong chương

trình phát thanh. Trong phạm vi liên quan gần với đề tài của chúng tơi, có thể
kể một số nghiên cứu đã được công bố như sau:
Về các cuốn sách đã xuất bản, theo trình tự thời gian đã có:
Giáo trình Báo phát thanh của Phân viện Báo chí và Tuyên truyền phối
hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện, NXB Văn hóa - Thơng tin xuất
bản năm 2002. Trong giáo trình này, phương thức sản xuất chương trình phát
thanh trực tiếp được đề cập đến trong chương 8.
Trong cuốn Lý luận báo phát thanh (2003), ở chương 1, tác giả Đức
Dũng đã dành 21 trang để đề cập đến phát thanh trực tiếp. Tác giả khẳng định
“Có thể nói phát thanh trực tiếp là hình thức thể hiện mới của phát thanh
hiện đại, tạo ra sức hấp dẫn mới cho làn sóng phát thanh. Tính thời sự và sự
gần gũi, thân mật là hai yếu tố đảm bảo sức mạnh của phát thanh trong bối
cảnh của đời sống hiện đại và phát thanh trực tiếp đã có cả hai ưu thế quan
trọng này.”
Cẩm nang hướng dẫn Phát thanh trực tiếp do Đài Tiếng nói Việt NamBộ Văn hóa Thơng tin - Tổ chức SIDA (Thụy Điển) phối hợp xuất bản năm
2005. Nội dung sách được biên soạn từ kinh nghiệm của các giảng viên nước
ngồi về cách thực hiện các chương trình phát thanh trực tiếp dành cho những
người làm phát thanh Việt Nam.
Sách Phát thanh trực tiếp do GT,TS. Vũ Văn Hiền và TS. Đức Dũng chủ
biên, NXB Lý luận chính trị xuất bản năm 2007. Toàn bộ nội dung của cuốn
sách dày hơn 350 trang này tập trung làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan
đến lý thuyết và kỹ năng sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp trong điều
kiện của Việt Nam.
Về các nghiên cứu dưới dạng luận văn, khóa luận ở cấp độ thạc sỹ và tốt
nghiệp đại học, có thể kể một số cơng trình tiêu biểu sau đây:
3


Khóa luận Các hình thức tương tác giữa thính giả với chương trình phát
thanh của tác giả Ngơ Thái Hà (Bảo vệ năm 2009 tại Học viện Báo chí và

Tuyên truyền). Trong khóa luận này, tác giả Ngơ Thái Hà chỉ dừng lại ở việc
chỉ ra yếu tố tương tác giữa thính giả với một số chương trình phát thanh của
Đài Tiếng nói Việt Nam.
Khóa luận Kỹ năng dẫn chương trình phát thanh tương tác trực tiếp 60
phút Bạn và Tơi của Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội 2 của tác giả
Nguyễn Thị Huyền (Bảo vệ năm 2009 tại Học viện Báo chí và Tun truyền).
Trong khóa luận, tác giả Nguyễn Thị Huyền tập trung nghiên cứu vào những
kỹ năng của người dẫn chương trình trong chương trình 60 phút Bạn và Tôi
của Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội 2.
Khóa luận “Vấn đề tương tác trên Kênh phát thanh giao thơng – Đài
Tiếng nói Việt Nam FM91mhz” của tác giả Kim Văn Hiền (Bảo vệ năm 2009)
tại Đại học Khoa học xã hội và nhân văn). Khóa luận chỉ ra việc thực hiện
tính tương tác trên kênh phát thanh giao thơng của Đài Tiếng nói Việt Nam
trong chương trình Giờ cao điểm, đồng thời cũng chỉ ra điểm mạnh, hạn chế
của việc thực hiện tương tác trên kênh phát thanh này.
Khóa luận Tính tương tác của phát thanh trong hai chương trình “Hành
trình cùng bạn” của Đài PT- TH Hà Nội và Cửa sổ tình yêu của Đài Tiếng
nói Việt Nam của tác giả Vũ Đức Huỳnh (Bảo vệ năm 2011 tại Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn). Trong khóa luận, tác giả chỉ dừng lại ở việc đánh giá
hiệu quả tính tương tác của hai chương trình từ phía thính giả.
Luận văn Chương trình phát thanh trực tiếp trên Đài tiếng nói nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Dương Thị Anh Đào (Bảo vệ năm 2011
tại trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn). Trong đó, tác giả đã dành
chương 1 để đưa ra những lý luận chung về phát thanh trực tiếp. Theo tác giả,
phát thanh trực tiếp có ưu thế trong việc cung cấp thơng tin nhanh, tức thời.
Đồng thời, phát thanh trực tiếp còn hấp dẫn thính giả bởi tính tương tác cao.
Những cuốn sách và đề tài nghiên cứu nói trên sẽ là nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho việc nghiên cứu của tác giả. Tuy nhiên, vấn đề mà tác giả
4



quan tâm nghiên cứu là những yếu tố tương tác được thể hiện trong các
chương trình phát thanh trực tiếp của đài PT- TH Hà Nội.
Trong luận văn của mình, tác giả đi sâu phân tích và chỉ ra thế mạnh và
hạn chế riêng của từng yếu tố tương tác. Luận văn cũng đánh giá một cách
khái quát về vị thế, sự phát triển của chương trình phát thanh trực tiếp mang
tính tương tác cao tại Việt Nam, khẳng định đây là xu hướng phát triển chủ
đạo của phát thanh Việt Nam trong tương lai gần.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Luận văn nhằm đưa đến cái nhìn tổng quan về các yếu tố tương tác trong
chương trình phát thanh trực tiếp. Trên cơ sở nghiên cứu hai chương trình
phát thanh trực tiếp của Đài PT- TH Hà Nội, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra được
đặc trưng, ưu điểm, hạn chế của từng yếu tố tương tác. Từ đó đánh giá được
hiệu quả của tính tương tác đối với việc tiếp nhận thơng tin của thính giả cũng
như giá trị đối với người làm báo phát thanh ở Việt Nam.
Tác giả luận văn cũng bước đầu đề xuất những cách thức và biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của tính tương tác trong chương trình phát thanh trực
tiếp của Đài PT- TH Hà Nội.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tài liệu, xác định cơ sở lý thuyết về tính tương tác trong
chương trình phát thanh nói chung và phát thanh trực tiếp nói riêng.
- Khảo sát hai chương trình phát thanh trực tiếp nổi bật của Đài PT- TH

Hà Nội, phân tích những yếu tố tương tác xuất hiện trong chương trình phát
thanh trực tiếp.
- Xác định những thành công, chỉ ra những hạn chế, tồn tại trong quá
trình tương tác của một số chương trình phát thanh trực tiếp và đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tương tác trong các chương trình phát
thanh trực tiếp của đài PT- TH Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5


4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những yếu tố tương tác trong các
chương trình phát thanh trực tiếp của đài PT- TH Hà Nội.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các chương trình 60 phút Bạn và Tơi
và chương trình Gặp thầy thuốc nổi tiếng của Đài PT- TH Hà Nội, trong đó:
- Chương trình 60 phút Bạn và Tơi: khảo sát từ tháng 6 năm 2012 đến tháng
6 năm 2013.
- Chương trình Gặp thầy thuốc nổi tiếng: bắt đầu khảo sát khi chương trình
ra đời, là từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 6 năm 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để nghiên cứu các tài

liệu lý luận báo chí nói chung và tài liệu về báo chí phát thanh, tác phẩm phát
thanh trực tiếp để tìm kiếm những kiến thức lý thuyết phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài. Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo một số sách báo, tạp chí,
internet, đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong chương 1 là chương xây dựng
cơ sở lý luận và thực tiễn, làm điểm tựa cho việc khảo sát, phân tích trong các
chương 2 và chương 3.
- Phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để nghiên cứu chương
trình 60 phút Bạn và Tơi và chương trình Gặp thầy thuốc nổi tiếng của Đài
Phát thanh và Truyền hình Hà Nội từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 6 năm
2013.
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng cho việc đánh giá
các chương trình phát thanh trong diện khảo sát, qua đó rút ra những luận
điểm khoa học cho luận văn.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để rút ra những tương đồng và
khác biệt trong các yếu tố tương tác giữa chương trình 60 phút Bạn và Tơi và
chương trình Gặp thầy thuốc nổi tiếng cũng như với một số chương trình phát
thanh trực tiếp mang tính tương tác cao của các đài khác.
6


- Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện với một số đối tượng
đang trực tiếp làm việc trong các chương trình phát thanh trong diện khảo sát
nhằm thu thập những quan điểm, ý kiến, cứ liệu phục vụ cho quá trình nghiên
cứu.
Phương pháp phỏng vấn sâu cũng được thực hiện với một số thính giả
đã từng tham gia vào các chương trình để đánh giá những thành cơng và hạn
chế mà các chương trình phát thanh trực tiếp của đài PT- TH Hà Nội đạt
được.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1.

Ý nghĩa lý luận

Về mặt lý luận, luận văn đã góp phần hệ thống hóa lý luận về tính
tương tác trong chương trình phát thanh trực tiếp. Rõ ràng hiện nay, khi các
phương tiện đua nhau thu hút công chúng, phương tiện nào tương tác tốt hơn,
hấp dẫn hơn thì sẽ được nhiều cơng chúng ưu ái hơn. Chính vì thế, tính tương
tác trong phát thanh là cách để các đài biết công chúng muốn gì, cơng chúng
thích các tác phẩm như thế nào? Ngồi ra, cơng chúng sẽ tích cực tham gia
hơn vào các chương trình có tính tương tác. Vì ở đó, ý kiến của họ được coi
trọng.
Thông qua việc nghiên cứu, khảo sát về tính tương tác trong chương
trình phát thanh trực tiếp, luận văn sẽ bước đầu cung cấp một số cứ liệu đáng
tin cậy để các nhà nghiên cứu có thể tham khảo, vận dụng khi khái quát lý
luận về phát thanh hiện đại. Quá trình tương tác trong chương trình phát thanh
thúc đẩy q trình dân chủ hóa thơng tin trong cơ chế truyền thơng. Thính giả
tham gia vào chương trình đã khẳng định báo chí của chúng ta thực sự là diễn
đàn của nhân dân, là nơi nhân dân có thể phát biểu ý kiến, trình bày tâm tư,
nguyện vọng. Thính giả từ chỗ chỉ là người tiếp nhận thơng tin một chiều, đến
với chương trình phát thanh tương tác họ đã trở thành một thành viên của
chương trình. Lúc này họ đóng hai vai: vừa là đối tượng tiếp nhận thông tin,
vừa là người tham gia vào q trình xử lý thơng tin, góp phần quyết định nội
dung chương trình. Họ gợi mở thơng tin, nên lên những vấn đề cần bàn, làm
7


cho q trình thơng tin được dân chủ hóa sâu sắc. Sự giao lưu của thính giả
đối với chương trình sẽ tạo nên một diễn đàn ngôn luận dân chủ, công khai.
Không chỉ tạo ra một kênh thông tin dân chủ hơn, phát thanh tương tác còn

tạo ra những chương trình mang đậm hơi thở đời sống, gần gũi thiết thực với
bạn nghe đài.
6.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Thực tế cho thấy, bên cạnh nhu cầu tiếp nhận thơng tin, thính giả ngày
nay khơng chỉ đóng vai người nghe đài một cách thụ động mà còn muốn được
tham gia vào trong các chương trình phát thanh một cách chủ động. Nét đặc
thù trong tâm lý tiếp nhận thơng tin của thính giả hiện nay là mong muốn có
được cảm giác gần gũi, thân mật, mong tìm được sự mới mẻ, đa đạng và xác
thực. Vì thế, phát thanh phải đáp ứng được nhu cầu này bằng việc khơi mở
rộng rãi con đường giao lưu, đối thoại, tương tác với thính giả. Nhờ vào việc
gia tăng sự xuất hiện của các yếu tố tương tác, thính giả của chương trình phát
thanh trực tiếp khơng chỉ nghe thụ động một chiều mà cịn có thể trình bày ý
kiến, quan điểm của mình đối với những vấn đề mà chương trình đề cập. Họ
sẽ mang đến cho chương trình những thơng tin thiết thực từ nhiều góc độ khác
nhau. Người nghe có thể xen vào nội dung và góp phần định hướng phát triển
của nội dung vấn đề họ quan tâm. Tiếng nói của thính giả trong các chương
trình phát thanh tương tác sẽ xóa đi tính một chiều, áp đặt của thơng tin.
Có thể thấy rằng, một chương trình phát thanh trực tiếp mang tính tương
tác cao có thính giả tham gia, tính đối tượng của chương trình được cụ thể hóa
và được nâng cao. Khi đối tượng phục vụ càng được xác định cụ thể thì
chương trình càng gắn bó, có ý nghĩa thiết thực đối với thính giả. Thu hút
thính giả tham gia vào chương trình là cách để chương trình phát thanh gắn
với họ, thuộc về họ. Những người làm chương trình có cơ hội để nắm bắt nhu
cầu, tâm lý, sơ thích, đặc điểm của nhóm đối tượng mà chương trình hướng
tới, từ đó tiếp tục xây dựng nội dung chương trình theo hướng đối tượng hóa.
Chương trình nào càng khu biệt rõ đối tượng phục vụ của mình, hiệu quả
8



truyền thơng càng cao. Bên cạnh đó, phát thanh tương tác cho phép người
nghe tác động đến chương trình mình tham gia. Với một kịch bản mở, nội
dung chương trình phát thanh tương tác không chỉ là những thông tin mà
phóng viên, biên tập viên soạn ra theo quan điểm mà cịn là những thơng tin
phản hồi đa chiều từ phía người nghe. Với cách làm này, phát thanh tương tác
sẽ thay đổi cách nghe đài, cách thức tiếp nhận thơng tin của thính giả (từ thụ
động sang chủ động).
Hiện nay, phát thanh trực tiếp đang ngày càng phát triển và được ưa
chuộng ở nước ta. Cùng với chương trình 60 phút Bạn và Tôi và Gặp thầy
thuốc nổi tiếng của đài PT- TH Hà Nội là rất nhiều các chương trình phát
thanh trực tiếp khác. Tuy nhiên, khơng phải chương trình nào cũng đề cao
tính tương tác cũng như tận dụng được hiệu quả của tính tương tác nhằm thu
hút sự quan tâm của thính giả. Vì vậy, với đối tượng nghiên cứu của luận văn
chính là các chương trình “60 phút bạn và tơi” và “Gặp thầy thuốc nổi tiếng”.
Tác giả luận văn sẽ thực hiện phân tích kỹ q trình tương để từ đó đánh giá
điểm mạnh, yếu của từng chương trình. Từ đó, tác giả cũng sẽ đưa ra một vài
điểm khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tính tương tác. Bên
cạnh đó, luận văn sẽ góp phần đề ra hướng đi mới nhằm nâng cao hiệu quả
của phát thanh trực tiếp trong tương lai.
Những đồng nghiệp trẻ cũng có thể tìm được những kinh nghiệm thực
hiện chương trình phát thanh trực tiếp mang tính tương tác cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi các phần Mở đầu và Kết luận, các nội dung chính của luận văn
được trình bày trong 3 chương, 11 tiết.
Cuối luận văn, sau Tài liệu tham khảo là phần Phụ lục, trong đó có các
tài liệu liên quan đến quá trình nghiên cứu.

9



Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍNH TƯƠNG
TÁC TRONG CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH TRỰC TIẾP
1.1.

Những thuật ngữ, khái niệm được sử dụng trong luận văn

1.1.1. Tương tác
“Tương tác” là từ có nguồn gốc Hán Việt. Theo Đại từ điển Tiếng Việt
của giáo sư Nguyễn Như Ý (Chủ biên) xuất bản năm 1999, “Tương tác” có
nghĩa là tác động qua lại lẫn nhau [20, Tr. 1769].
Còn theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam của giáo sư Nguyễn Lân, xuất bản
năm 2000, “Tương” được hiểu là cùng nhau, đối với nhau, “tác” được hiểu là
“làm ra”. Từ đó Giáo sư Nguyễn Lân đưa ra khái niệm “Tương tác” là có ảnh
hưởng lẫn nhau. [10, Tr. 1769].
Trong cuốn From new media to communication, Refaeli nêu ra khái
niệm: Tính tương tác là một khái niệm được sử dụng rộng rãi với sự biểu lộ
bằng trực giác, được định nghĩa theo cách nghĩ về khả năng giao tiếp. Nó có
giá trị cao về bề mặt, không chỉ đơn thuần dựa vào sự đồng thuận, sự giảng
giải về ngữ nghĩa mà còn dựa vào sự xác định theo những kinh nghiệm nổi
trội trong cuộc sống thực [16, Tr. 110].
Đối chiếu ý nghĩa của từ “Tương tác” trong hoạt động truyền thông, tác
giả khóa luận cho rằng: Tương tác là sự tác động qua lại giữa chủ thể (người
truyền thông điệp) và khách thể (người nhận thơng điệp).
Như vậy, trong báo chí, “Tương tác” là sự trao đổi, phản hồi một cách
thường xuyên, liên tục về một chủ đề nào đó giữa nhà báo đại diện cho cơ
quan báo chí và cơng chúng. Sự phản hồi đó có thể thơng qua nhiều phương
tiện khác nhau như điện thoại, thư tay, thư điện tử... Tương tác ở đây có thể là
đóng góp ý kiến cũng có thể là thể hiện quan điểm về vấn đề nào đó mà cơ

quan báo chí đưa ra.
1.1.2. Trực tiếp
Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, “trực tiếp” có hai trường hợp. Trường
hợp thứ nhất, “trực tiếp” có nghĩa là liên quan thẳng, khơng cần người hay vật
10


làm trung gian. Trường hợp thứ hai, “trực tiếp” có nghĩa là chính tự mình làm
[10, Tr.1932].
Cịn theo Đại từ điển Tiếng việt, “Trực tiếp” có nghĩa là tiếp xúc thẳng
với đối tượng, không qua khâu trung gian [20, Tr. 1736].
Như vậy, tác giả khóa luận cho rằng, “trực tiếp” trong báo chí là thơng
tin được truyền ngay lập tức tới công chúng tiếp nhận.
1.1.3. Phát thanh trực tiếp
Phát thanh trực tiếp là khái niệm nó nhiều định nghĩa khác nhau. Trong
bài viết: “Phát thanh trực tiếp - động lực mới của phát thanh hiện đại”,
PGS,TS.Đức Dũng cho biết: Có quan niệm cho rằng: PTTT nghĩa là đọc trực
tiếp trước máy. Các tin, bài đã được chuẩn bị từ trước, một phần đã được ghi
âm trước, một phần sẽ do phát thanh viên đọc và phát sóng thẳng (khơng qua
khâu ghi âm). Một loại ý kiến khác cho rằng: PTTT thực chất là những
chương trình tường thuật về các sự kiện được thực hiện trực tiếp ngay tại
hiện trường (như tường thuật một kỳ đại hội, một cuộc bầu cử, một lễ hội, một
buổi giao lưu, một trận thi đấu thể thao…). Trong tồn bộ chương trình
khơng có thơng tin nào được ghi âm trước mà tất cả đều là phát sóng trực
tiếp [3].
Trong cuốn Cẩm nang hướng dẫn phát thanh trực tiếp (Đài Tiếng nói
Việt Nam - Tổ chức Sida - Bộ Văn hóa Thơng tin), các chun gia Thụy Điển
cho rằng: “Phát thanh trực tiếp là một phương pháp làm phát thanh mới, tiên
tiến với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ hiện đại, cho phép phát huy thế
mạnh của loại hình báo nói” [1, Tr. 9].

Trong cuốn Báo phát thanh (Phân viện Báo chí và Tuyên truyền - Đài
Tiếng nói Việt Nam), GS,TS.Vũ Văn Hiền - TS Đức Dũng cho rằng: “Phát
thanh trực tiếp có thể được hiểu là cơng nghệ sản xuất chương trình phát thanh
được thực hiện đồng thời với q trình phát sóng nhằm chuyển đến người nghe
những thông tin đồng thời với sự kiện đang xáy ra và có thể thu hút người nghe
tham gia vào quá trình sản xuất chương trình” [11, Tr. 380].
11


Còn tài liệu Cẩm nang hướng dẫn phát thanh trực tiếp của Đài TNVN
(tái bản tháng 8/2005) thì nêu định nghĩa về PTTT như sau: “Phát thanh trực
tiếp là phương thức thông tin linh hoạt, đáp ứng được các yêu cầu của phát
thanh hiện đại. Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, phát thanh
trực tiếp được trang bị thêm những thiết bị mới, phát huy được các thế mạnh
của báo nói, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của phát
thanh hiện đại”[1, Tr.9]
Đặc trưng cơ bản của sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp là sử
dụng phương tiện kỹ thuật mới, quy trình tác nghiệp mới đế sản xuất chương
trình phát thanh có chất lượng và hiệu quả.
Theo tác giả Đặng Thu Hương trong cuốn “Báo chí- những vấn đề lý luận
và thực tiễn” thì “Phát thanh trực tiếp (hay cịn gọi là phát thẳng) là xu thế tất
yếu của phát thanh hiện đại, trong đó chương trình phát thanh được phát sóng
trực tiếp ngay trong q trình sản xuất. Nó được xem như một phương thức
làm báo phát thanh mới, với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ hiện đại, cho
phép phát huy hết thế mạnh của loại hình báo nói” [6, Tr.98].
Đặc điểm nổi bật nhất của loại hình phát thanh trực tiếp chính là tạo cho
thính giả cảm giác như đang có mặt tại hiện trường và là người tham gia vào
sự kiện đó. Thơng qua những hình thức như gọi điện trực tiếp hay nhắn tin…,
khán giả có thể đóng góp ý kiến của mình cho chương trình đang diễn ra.
Trong một số trường hợp, thính giả là yếu tố quan trọng tạo nên nội dung của

chương trình
Một chương trình phát thanh trực tiếp chỉ được coi là hồn thành khi q
trình sản xuất chương trình đó kết thúc. Như vậy, việc chương trình hình
thành đến đâu, được phát sóng ngay đến đấy chính là đặc điểm quan trọng
nhất của phương thức sản xuất các chương trình phát thanh trực tiếp. Trong
phát thanh trực tiếp, ngoài các yếu tố được thực hiện trực tiếp (như: đọc
thẳng; gọi điện tới phòng thu; tường thuật trực tiếp; phỏng vấn trực tiếp;
khách mời tại phòng thu; toạ đàm trực tiếp; phóng sự trực tiếp; phát thanh lưu
động…), người ta vẫn phải sử dụng những chất liệu không trực tiếp để xây
12


dựng chương trình (như: các ca khúc, bài phỏng vấn, phóng sự đã được thu
thanh hồn chỉnh với những tiếng động nền, phát biểu của các nhân chứng
hoặc đã được dựng sẵn thành những chuyên mục, tiết mục của chương trình.
Ngồi ra cịn có các loại nhạc xen, nhạc cắt, nhạc nền… đã được chuẩn bị sẵn
sàng từ trước).
1.2.

Tính tương tác trên các loại hình báo chí

Một trong những ngun nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời và phát triển
của báo chí đó là nhu cầu giao tiếp và thơng tin của cơng chúng. Có nghĩa là
báo chí ra đời nhằm phục vụ nhu cầu nắm bắt thông tin và giao tiếp, trao đổi,
bàn luận của tất cả mọi người. Nếu như cách làm báo truyền thống là chỉ
chuyển tải thơng tin theo một chiều, báo chí áp đặt độc giả phải tiếp nhận mọi
thông tin mà các phương tiện truyền thơng chuyển tải. Thì giờ đây, khi xu
hướng dân chủ hóa được mở rộng ở hầu hết các nước trên tồn thế giới thì
mối quan hệ giữa cơng chúng với báo chí khơng chỉ là một chiều mà là đa
chiều, chính vì thế mới có sự xuất hiện của thuật ngữ “tương tác”.

Khái niệm “tương tác trong báo chí” mới xuất hiện khoảng chục năm
trở lại đây cùng với sự ra đời và phát triển của loại hình báo chí thứ tư - báo
mạng điện tử, tuy nhiên nó đã nhanh chóng trở nên phổ biến và được tất cả
các phương tiện truyền thông khai thác triệt để. Bởi lẽ “tương tác” đồng nghĩa
với việc thu hút người đọc, người nghe, người xem đến với các phương tiện
truyền thông, “tương tác” là tăng cường mối quan hệ giữa báo chí với cơng
chúng và “tương tác” cịn thể hiện đời sống dân chủ trong báo chí. Đúng như
PGS,TS.Nguyễn Văn Dững đã nhận định: “Trong truyền thông, một trong
những nguyên lý quan trọng là, sự tương tác giữa chủ thể - khách thể càng
nhiều bao nhiêu, càng bình đẳng bao nhiêu và sự tham gia của đối tượng
truyền thông cành tích cực bao nhiêu thì năng lực và hiệu quả truyền thông
càng cao bấy nhiêu” [4,Tr.35].
Khi mà mọi điều kiện của con người được nâng cao, nhu cầu được đáp
ứng về thông tin, cũng như sự tương tác với báo chí của độc giả càng được
coi trọng thì tương tác là một trong những đặc trưng quan trọng của báo chí.
13


Ở bất kì loại hình báo chí nào, tính chất này cũng được những người làm báo
lưu tâm. Từ những phản hồi chân thực của công chúng, các cơ quan chủ quản
báo chí có thể nắm bắt được chiều hướng phát triển của dư luận xã hội trong
vụ việc trên, sau đó có những chiến lược mới trong các bài viết tiếp theo,
nhằm định hướng dư luận một cách đúng đắn nhất theo ý mình.
Khơng chỉ tiếp cận ý kiến phản hồi của cơng chúng để có những chiến
lược phát triển phù hợp, tính tương tác trong báo chí cịn giúp cơng chúng
được tham gia vào tác phẩm báo chí, góp phần tạo nên thành cơng cho một
tác phẩm bằng cách bày tỏ ý kiến, quan điểm cá nhân. Điều này thường được
thể hiện rõ ràng nhất trong các tác phẩm phát thanh, truyền hình…
1.2.1. Tính tương tác trên báo in
Báo in là loại hình mà tính tương tác thể hiện ít nhất trong các loại hình

báo chí hiện nay. Yếu tố tương tác trên báo in chỉ được thể hiện thông qua các
chuyên trang bạn đọc, nơi công chúng gửi ý kiến đóng góp hoặc phản hồi.
Tuy nhiên, việc tương tác trên báo in chỉ có thể thực hiện sau khi bài viết
đăng tải một thời gian, đồng thời, tịa soạn cũng có quyền quyết định phản hồi
được đăng tải. Sau khi thơng qua sàng lọc kỹ lưỡng, tồn soạn có quyền
khơng cơng bố rộng rãi.
Trên báo in, mức độ tương tác cũng có sự khác biệt rõ rệt phù thuộc
vào nhật báo, tuần báo hay tạp chí. Về cơ bản, những tờ báo ra hàng ngày sẽ
có mức độ tương tác cao hơn so với những tạp chí ra hàng tuần hay hàng
tháng.
Hiện tại, mỗi cơ quan báo in lại có những cách thức tương tác với độc
giả khác nhau. Đối với một số tờ báo, độc giả có thể chia sẻ ý kiến phản hồi
bằng cách gửi thư tay, thư điện tử hoặc thông qua đường dây nóng. Với sự
phát triển của báo chí nói chung hướng tới tính tương tác cao, báo in cũng đã
có sự chuyển mình nhằm thu hút cơng chúng hơn nữa. Đa phần, các tờ báo
đều chú trọng đến phát triển trang bạn đọc và có tác dụng tốt trong việc kết
nối, thu hút tương tác giữa độc giả và bạn đọc.
14


1.2.2. Tính tương tác trên báo mạng
Tương tác là một trong những đặc trưng cơ bản của báo mạng điện tử.
Nhờ sự hỗ trợ của công nghệ cao, bạn đọc có thể gửi thư điện tử (email) phản
hồi ngay tới từng bài báo, từng tác giả và tòa soạn bằng những thao tác hết
sức đơn giản, thuận tiện. Tòa soạn gần như nhận được tức thời các ý kiến
phản hồi và quá trình xử lý, sàng lọc, lưu trữ, đăng tải phản hồi cũng nhanh
hơn nhờ có sự hỗ trợ của máy tính và mạng internet.
Bên cạnh đó, nhằm phục vụ độc giả tốt hơn, tịa soạn cũng có thể gửi đến
từng độc giả những bản tin tóm tắt theo định kỳ giúp họ tiết kiệm thời gian và
gắn kết hơn với tờ báo, thông qua email. Cũng nhờ vào khả năng tương tác,

báo mạng điện tử thiết lập các diễn đàn hay thực hiện các cuộc bỏ phiếu giúp
cho công tác điều tra xã hộ trở nên vô cùng đơn giản, thuận tiện và nhanh
chóng.
Ngồi ra, khơng dừng lại ở sự tương tác giữa độc giả với toà soạn, ở báo
mạng điện tử, chúng ta cịn có thể thấy sự tương tác nhiều chiều giữa độc giả
với nhà báo, độc giả với độc giả, hay độc giả với nhân vật trong tác phẩm báo
chí. Độc giả có thể chia sẻ sự đồng cảm với nhân vật trong tác phẩm hay phản
hồi ý kiến của độc giả khác bằng cách để lại bình luận ngay dưới mỗi bài viết
mà mình đọc được.
Ở báo mạng điện tử, có hai hình thức tương tác phổ biến :
Hình thức tương tác thứ nhất, đơn giản và tiện lợi, thông qua các mục
lấy ý kiến phản hồi. Ngay sau mỗi tác phẩm báo chí đăng trên trang báo mạng
điện tử đều có mục bình luận, ngồi ra cịn có rất nhiều kênh tương tác khác
như email, forum… tiện cho độc giả dễ dàng đóng góp ý kiến của mình. Điều
này khó thấy trên báo hình, phát thanh hay báo giấy. Sự tương tác giữa mỗi tờ
báo với bạn đọc trong sự hỗ trợ tuyệt vời của công nghệ hiện đại sẽ giúp đạt
đến đỉnh cao của truyền thơng hiện đại. Bạn đọc có thể giúp các tịa soạn có
được nguồn tin nhanh nhất về một vụ cướp ngân hàng vừa xảy ra, nhưng chỉ
có nhà báo mới có thế mạnh để tiếp cận những nguồn tin chính thống từ cơ
quan chính quyền, giúp cho thơng tin đa chiều và có độ tin cậy cao. Nhờ đó
15


tồ soạn có thể nắm bắt nhanh tâm tư, chính kiến, nguyện vọng, thị hiếu của
đọc giả để có những điều chỉnh cần thiết.
Hình thức tương tác thứ hai - sống động hơn, đó là giao lưu trực tuyến
với các nhân vật, khách mời thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Với khả năng tương tác nhiều chiều tồ soạn có thể tổ chức nhiều cuộc
giao lưu trực tuyến giữa độc giả trong, ngoài nước với các vị lãnh đạo hoặc
các nhà hoạt động xã hội, văn hoá, khoa học… về những đề tài mà nhiều

người quan tâm. Điều này đã phát huy tối đa tính tương tác giữa những người
làm báo, khách mời và độc giả. Trong các cuộc giao lưu trực tuyến như vậy;
phóng viên, biên tập viên là cầu nối giữa độc giả với khách mời. Đây là một
lợi thế của báo mạng mà báo in không thể làm được và rất hạn chế đối với
truyền hình và phát thanh.
1.2.3. Tính tương tác trên truyền hình
Truyền hình là kênh truyền thông đại chúng ra đời sau, kế thừa được các
thế mạnh của báo in và phát thanh trước đó. Xu hướng phát triển của truyền
hình càng gần gũi với đời sống, ngày càng tiến tới xã hội hóa việc sản xuất
chương trình mang tính tương tác cao.
Trước kia, tính tương tác của truyền hình cũng chỉ đơn thuần tương tự
như trên báo in. Điều này có nghĩa là, thính giả cũng sẽ phản hồi, đóng góp ý
kiến cho nhà đài bằng cách viết thư sau khi theo dõi một chương trình. Với sự
phát triển của các loại hình báo chí, truyền hình cũng đã xuất hiện thuật ngữ
chun ngành hơn là “Truyền hình tương tác”, về thực chất được dùng để nói
về thể loại đàm luận chuyên đề (talk show).
Theo ý kiến của cố nhà báo Trường Phước- Nguyên Trưởng ban chuyên
đề của Đài truyền hình Việt Nam thì: Thói quen xem truyền hình cho vui mắt
của cơng chúng là thói quen đã qua. Ngày nay, cơng chúng chú ý xem truyền
hình tương tác để mong giải quyết những vấn đề mà họ đạng quan tâm. Các
chuyên mục: Đối thoại, chính sách-cuộc sống, sự kiện bình luận…đều thu hút
sự quan tâm của cơng chúng thơng qua những hình thức phản hồi như gọi
điện, email…. Nhiều chương trình gần đây đã mở ra cho khán giả tham gia
16


chia sẻ, đóng góp ý kiến thâm chí đưa ra những câu hỏi, những vướng mắc
mà người xem thắc mắc.
Nhắc đến truyền hình tương tác phải kể đến kênh VTV6 dành cho thanh
thiếu niên. Các chương trình của kênh VTV6 tương tác với khán giả dưới

nhiều hình thức khác nhau như: truyền hình, Internet (email, webcam, blog),
điện thoại di động, điện thoại cố định... ngay trong lúc chương trình đang phát
sóng hay trước đó. Một số chương trình mà khán giả được tham gia vào việc
sản xuất nội dung có thể kể đến như Clip Việt – dành cho những bạn trẻ u
thích quay phim, chụp ảnh; Thế hệ tơi – dành cho sinh viên báo chí; Kết nối
trẻ là chương trình thảo luận đa chiều trên mạng và truyền hình, hồn tồn mở
cho thanh niên, sinh viên từ 18 – 24 tuổi….
Bên cạnh đó, đài truyền hình Việt Nam cịn có một số chương trình khác
mang tính tương tác cao. Vào ngày 15/1/2012, số đầu tiên của chương trình
Trở về ký ức đã chính thức được phát sóng trực tiếp trên kênh VTV1 và
VTV4 vào lúc 14g15 - 15g00. Với thời lượng 45 phút, chương trình bao gồm
các phần: Phóng sự - Trị chuyện – Thơng báo và Tư vấn/ Tương tác. Đây là
chương trình truyền hình tương tác đầu tiên tại Việt Nam có nội dung nói về
sự hi sinh, mất mát của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong hai cuộc chiến
tranh chống Pháp và chống Mĩ của đất nước. Ngay trong quá trình diễn ra,
ngồi chương trình giao lưu tại trường quay cịn có sự giao lưu với khán giả
đang xem truyền hình. Khán giả có thể cung cấp ngay cho Ban tổ chức biết
những thơng tin liên quan về liệt sĩ.
Có thể nói, những năm gần đây, xu hướng “tương tác” giữa chương trình
truyền hình và khán giả ngày càng được mở rộng. Từ chỗ hạn hẹp trong các
chương trình phim truyện, âm nhạc, trị chơi truyền hình, hiện đã lan rộng đến
các chương trình mang tính xã hội cao.

17


1.3.

Tính tương tác trên loại hình báo phát thanh


1.3.1. Quan điểm chung về tính tương tác trong chương trình phát
thanh
Phát thanh là kênh truyền thông đại chúng sử dụng kĩ thuật sóng điện từ
và hệ thống dẫn truyền âm thanh đi tác động trực tiếp vào thính giác cơng
chúng. Mặc dù khơng có được cái già dặn như báo in, khơng hiện đại và hấp
dẫn như truyền hình nhưng thơng tin trên báo phát thanh không bị ngăn cách
bởi hàng rào địa lí, hải quan và tạo nên một hiệu ứng rộng khắp và tức thì đến
hàng triệu người trên hành tinh.
• Quan điểm về “tính tương tác” trong chương trình phát thanh truyền
thống
Nhiều ý kiến cho rằng, trong các chương trình phát thanh khơng trực
tiếp, yếu tố tương tác xuất hiện khơng nhiều và gần như là khơng có. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy điều này hoàn toàn chưa đúng.
Dù khơng xuất hiện nhiều nhưng tính tương tác trong chương trình phát
thanh khơng trực tiếp cũng đã được các nhà sản xuất chương trình phát thanh
áp dụng trong quy trình sản xuất hay thu thập thơng tin.
Thơng thường, các chương trình thu trước thường có độ chính xác cao về
thơng tin, tạo sự tin tưởng tuyệt đối trong lịng thính giả. Tác giả xin được đưa
ra một số ví dụ về chương trình phát thanh khơng trực tiếp mang tính tương
tác. Trong số đó, có chương trình mức độ tương tác ít, có chương trình mức
độ tương tác cao hơn.
Với tính chất khơng phát trực tiếp nên sự tương tác qua lại giữa thính giả
và một chương trình phát thanh cần một thời gian nhất định. Có thể lấy ví dụ
chương trình “Hộp thư thính giả” của kênh VOV 5 đài Tiếng nói Việt Nam.
Chương trình sẽ trả lời, giải đáp thắc mắc những câu hỏi được gửi về từ thính
giả Việt kiều ở nhiều đất nước trên thế giới mà nội dung thư chủ yếu xoay
quanh các thủ tục nhập cảnh, nhập quốc tịch, cấp visa, bảo lãnh…Trong
chương trình này, kênh VOV 5 chỉ như một cầu nối trung gian, chuyển những
thắc mắc của thính giả đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Sau khi
18



nhận được phản hồi chính xác, thính giả có thể nghe câu trả lời trên sóng.
Chương trình này có sự tương tác giữa thính giả và nhóm sản xuất, nhưng cần
phải mất một thời gian nhất định.
Những chương trình với yếu tố tương tác như trên có khá nhiều. Tuy
nhiên, cịn có một dạng chương trình tương tác khác trong phát thanh truyền
thống đó là những chương trình ca nhạc.
Từ trước đến nay, âm nhạc vẫn được coi là thế mạnh của phát thanh. Vì
thế, việc tận dụng âm nhạc trong sản xuất chương trình phát thanh vẫn ln
được chú trọng. Các chương trình ca nhạc theo yêu cầu là một ví dụ điển hình
mang tính tương tác, do tiếp nhận u cầu từ phía thính giả và phát sóng bài
hát theo yêu cầu đó. Giữa nhóm thực hiện chương trình và thính giả sẽ có mối
liên hệ với nhau, thông qua việc tương tác qua thư hay qua điện thoại. Điều
này chúng ta thấy khá rõ từ một số chương trình như Ca nhạc theo yêu cầu,
Quick And Snow show, Xone FM….
Bên cạnh đó, chương trình phát thanh khơng trực tiếp vẫn có sự xuất
hiện của nhiều yếu tố tương tác khác. Ví dụ như đối với chương trình tọa đàm
sẽ có tương tác giữa người dẫn với khách mời, trong chương trình có hai
người dẫn sẽ có sự tương tác giữa người dẫn với nhau… Ở đây, sự khác biệt
giữa phát thanh trực tiếp và phát thanh không trực tiếp chỉ nằm ở độ hấp dẫn
của chương trình. Thơng tin được phát sóng ngay lập tức bao giờ cũng sống
động, có độ tin cậy cao hơn…
• Quan điểm về “tính tương tác” trong chương trình phát thanh trực tiếp
Phát thanh trực tiếp là một hình thức dễ xảy ra sai sót khi thực hiện
khơng đầy đủ hoặc khơng có sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Tuy nhiên, một chương
trình phát thanh trực tiếp sẽ tạo được tính chất gần gũi, sinh động do độ xác
tín cao của thơng tin nên sẽ gây được sự hấp dẫn và được đông đảo khán giả
ủng hộ. Hình thức phát thanh trực tiếp đã cho phép chuyển tải những sự kiện
nóng được cập nhật nhanh chóng và đã tạo ra một kênh thơng tin dân chủ

hơn, đời sống hơn, tiếng nói của người dân được đến với diễn đàn phát thanh
dễ dàng hơn.
19


×