Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết lê lựu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

MAI THỊ LIÊN

TƯ DUY NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT LÊ LỰU

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------MAI THỊ LIÊN

TƯ DUY NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT LÊ LỰU

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học
Mã số: 60.22.32

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Đoàn Đức Phương

Hà Nội - 2013



MỤC LỤC
Mở đầu .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu ................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 7
5. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 7
Chương 1. Khái lược về tư duy nghệ thuật và hành trình sáng tác của Lê Lựu
........................................................................................................................... 8
1.1.

Khái lược về tư duy nghệ thuật .............................................................. 8

1.1.1. Tư duy nghệ thuật là gì? ......................................................................... 8
1.1.2. Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết ....................................................... 10
1.2.

Hành trình sáng tác của Lê Lựu.............................................................. 14

1.2.1. Tiểu sử và con người .............................................................................. 14
1.2.2. Sự nghiệp văn chương ............................................................................ 17
Chương 2. Tư duy bằng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu ............................. 24
2.1.Quan niệm chung về nhân vật..................................................................... 24
2.2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu ............................................... 27
2.2.1.Nhân vật người đàn ông ........................................................................... 27
2.2.2. Nhân vật người phụ nữ ........................................................................... 32
2.2.3. Nhân vật bi kịch ...................................................................................... 34
2.2.4. Nhân vật tha hóa, phản bội ..................................................................... 36
2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................... 38
2.3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và hành động ......................................... 38

2.3.2. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm .................................................................. 53


2.3.3. Ngôn ngữ nhân vật .................................................................................. 62
Chương 3. Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu ...... 66
3.1. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu....................................... 66
3.1.1. Quan niệm về không gian nghệ thuật ..................................................... 66
3.1.2. Không gian bối cảnh nông thôn .............................................................. 68
3.1.3. Không gian phố phường đô thị ............................................................... 73
3.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu .......................................... 78
3.2.1. Quan niệm về thời gian nghệ thuật ......................................................... 78
3.2.2. Thời gian sự kiện tâm tưởng ................................................................... 79
3.2.3. Thời gian của “đêm” ............................................................................... 85
Kết luận ............................................................................................................. 89
Tài liệu tham khảo............................................................................................. 92


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam đã trải qua khá nhiều mốc lịch sử quan trọng, và

năm 1986 là mốc lịch sử được coi là sự thay đổi kì diệu của hiện thực
đời sống chính trị, xã hội và văn hóa. Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI
đã tạo điều kiện “cởi trói” những quan niệm nghệ thuật khơng cịn phù
hợp với thời đại, đồng thời văn học cũng đã tiến hành những bước đổi
mới cả về phương diện đề tài lẫn nghệ thuật biểu hiện. Trong bối cảnh
đó đã có khơng ít những tác phẩm mới xuất hiện với lối viết cách tân
như Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai),

Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Bến không chồng (Dương
Hướng)… đã ghi dấu ấn sâu đậm trong nền văn học nước nhà hiện nay.
Nhìn lại nền văn học nước nhà trong thời kì đã qua so với hiện tại
dường như nền văn học hiện tại đã khoác lên mình một diện mạo hồn
tồn mới. Đặc biệt trong dịng tiểu thuyết đương đại có khá nhiều cây
bút thành cơng với lối viết cách tân độc đáo gây hứng thú cho độc giả.
Nổi lên trong đó có Lê Lựu là một cây bút gây được nhiều ấn tượng,
không phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm của ơng ln được chào
đón. Sau chiến tranh xã hội nổi lên nhiều vấn đề cần giải quyết, con
người bước ra từ đêm tối của chiến tranh nên dường như đang còn ngỡ
ngàng trước ánh sáng của hịa bình và tự do, con người vẫn còn mang
lối sống của kiểu tư duy giai đoạn trước và những tác phẩm của Lê Lựu
ra đời đã đặt ra những vấn đề mới, cách nghĩ mới. Lê Lựu sinh
12.12.1942 tại một làng ngoại đê sông Hồng, xã Tân Châu, huyện Khối
Châu, tỉnh Hưng n. Ơng là một nhà văn trưởng thành trong kháng
chiến chống Mỹ, những tác phẩm của ơng phần lớn tiêu biểu cho văn
học thời kì đổi mới cả về lượng và chất, nội dung đa dạng và phong phú


nên được rất nhiều độc giả quan tâm. Cuộc sống mn màu được phản
ánh qua cái nhìn tinh tế, sâu sắc, khiến cho những tác phẩm của Lê Lựu
có một phong cách rất riêng biệt và cũng không hề bị pha tạp. Từ hiện
thực cuộc sống nhà văn không giãi bày, khơng kể lể, khơng giải thích
mà để cuộc sống tự bộc lộ mình. Đến với văn chương từ vị trí của người
nơng dân và trưởng thành khi mặc áo lính nên chính cuộc đời Lê Lựu có
ảnh hưởng khơng nhỏ đến tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết của ơng.
Tiếp cận và tìm hiểu tiểu thuyết Lê Lựu có nhiều con đường và
nhiều góc độ khác nhau, nhưng ở đây chúng tơi chỉ chọn góc độ tư duy
nghệ thuật để nghiên cứu tiểu thuyết của ông. Từ nhiều chiều, nhiều góc
độ, chúng tơi chọn nhà văn Lê Lựu làm tác giả cho đề tài luận văn của

mình với 4 trong số 7 cuốn tiểu thuyết của nhà văn viết từ năm 1986 cho
đến nay bao gồm: Thời xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1993),
Sóng ở đáy sơng (1994), Hai nhà (2000). Chọn và nghiên cứu đề tài Tư
duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tôi muốn đề cập đến
lĩnh vực then chốt của nghệ thuật tiểu thuyết đó là vấn đề xây dựng
nhân vật, thời gian và khơng gian nghệ thuật.
Tiểu thuyết Lê Lựu trong thời kì đổi mới đã đánh dấu sự đổi mới tư
duy, cách nhìn trong văn học. Cái nhìn hồn tồn mới mẻ về hiện thực
cuộc sống, mà hiện thực luôn tồn tại cả hai mặt tốt và xấu, đồng thời nó
cũng đánh dấu một thời kì mới của văn học, khép lại một giai đoạn văn
học luôn mang nặng cảm hứng ngợi ca sử thi. Cũng như các nhà văn
cùng thời khác, Lê Lựu đã đi vào khai thác cuộc sống của người trí thức
thành thị trong những năm đổi mới. Có lẽ nhân vật trí thức được lựa
chọn là do họ có khả năng nhất trong việc thể hiện nhận thức của nhà
văn và cũng là nhân vật thuận lợi nhất để bộc lộ “cái tôi” của nhà văn.
Tiểu thuyết Lê Lựu đã đánh dấu một giai đoạn của lối tư duy khác
trước, cuộc sống hiện thực phơ bày như nó hiển nhiên vốn có, đồng thời
cuộc sống hiện thực được bộc lộ ở nhiều góc độ khác nhau.


Tìm hiểu tiểu thuyết Lê Lựu, ta nhận thấy nhà văn luôn suy nghĩ,
trăn trở về vấn đề hạnh phúc của con người. Ơng có cái nhìn chân thật,
tinh tế và xoáy sâu vào số phận của con người trên hành trình kiếm tìm
hạnh phúc để rồi họ tự rơi vào bi kịch hạnh phúc gia đình, khám phá sự
xuống cấp của giá trị đạo đức trong cuộc sống mới với bao nhiêu đổi
thay và kết quả là nhà văn Lê Lựu đã thành công.
Nghiên cứu tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu sẽ giúp cho
chúng ta có cái nhìn và sự hiểu biết hơn về văn học Việt Nam đặc biệt là
thể loại tiểu thuyết trong thời kì đổi mới. Vì vậy chúng tơi đã chọn đề tài
Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu để tìm hiểu những nét

đặc trưng riêng trong cách nhìn, cách nghĩ của nhà văn về hiện thực
cuộc sống thời kì đổi mới.
2.

Lịch sử vấn đề
Sang thời kì đổi mới, văn học Việt Nam nói chung và thể loại tiểu

thuyết nói riêng đã bước vào một chặng đường mới của tiến trình hiện
đại hóa. Trong đời sống văn học, tiểu thuyết đã đạt được thành tựu vô
cùng to lớn cả về số lượng lẫn chất lượng sáng tác, cũng tại thời điểm
đó nổi bật nhiều tên tuổi như Lê Lựu, Chu Lai, Bảo Ninh, Dương
Hướng… Điều này đã lý giải tại sao tiểu thuyết thời kì này trở thành đối
tượng nghiên cứu của rất nhiều cơng trình khoa học, dù trực tiếp hay
gián tiếp thì trong các cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết của thời kì
này, người ta đã dành sự quan tâm đáng kể đến vấn đề chiến tranh,
người lính và người trí thức sau chiến tranh.
Thời xa vắng ra đời là điểm đánh dấu đột phá giữa nhà văn Lê Lựu
với công chúng độc giả văn chương, tác phẩm nhanh chóng thu hút
được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu và giới phê bình văn học. Mặc
dù ông là cây bút trưởng thành từ trong kháng chiến chống mỹ, nhưng
phần lớn tiểu thuyết của Lê Lựu được bạn đọc biết đến là tiểu thuyết
viết trong thời kì đổi mới. Khi Thời xa vắng ra mắt bạn đọc, tác phẩm


đã gây được chú ý với nhiều bài viết như: Trở lại tiểu thuyết Thời xa
vắng của Lê Lựu (Mai Huy Bích); Nghĩ về một Thời xa vắng chưa xa
(Thiếu Mai); Thời xa vắng – Một tâm sự nóng bỏng (Lê Thanh Nghị).
Cái tên Giang Minh Sài bỗng trở nên quen thuộc, trở thành một đề tài
nóng bỏng trong các cuộc đàm luận của giới văn chương. Các tác phẩm
như Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sơng, Hai nhà lần lượt ra đời đã

làm xơn xao khơng khí văn chương lúc bấy giờ, tất cả mọi mặt của đời
sống xã hội trong tác phẩm đều được đưa ra mổ xẻ để bạn đọc có thêm
những định hướng và cảm nhận khác nhau về tiểu thuyết của ông. Lê
Lựu là một trong những nhà văn mở đầu cho tiểu thuyết thời kì đổi mới,
nhà văn cầm bút viết nên những điều mắt thấy tai nghe trong bối cảnh
hiện thực xã hội Việt Nam những năm vừa thoát ra khỏi chiến tranh, đất
nước đang trong thời kì quá độ chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền
kinh tế thị trường. Xã hội đổi thay mang lại cho người dân rất nhiều
điều tốt đẹp nhưng nó cũng mang lại khơng ít những mặt trái, con người
sống với nhau thực dụng hơn, ích kỷ hơn, bon chen hơn trước rất nhiều.
Đồng tiền đã lên ngơi và bắt đầu len lỏi vào từng ngóc ngách của cuộc
sống, nó xâm nhập vào từng nhà, từng ngõ phố, nó chi phối tất cả các
mối quan hệ gia đình và xã hội. Đọc tiểu thuyết Lê Lựu ta thấy toát lên
trong hầu hết những tác phẩm của ông mà đặc biệt qua các tác phẩm
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sơng, Hai nhà một màu
sắc bi kịch và u ám.
Các bài nghiên cứu, phê bình nhằm mục đích nêu được những
đóng góp của Lê Lựu trong công cuộc đổi mới lĩnh vực văn chương,
đặc biệt là tư duy tiểu thuyết Việt Nam hiện đại tuy còn nhiều hạn chế,
ngược lại chúng ta cũng chưa thấy có một bài viết phê bình nào chỉ ra
một cách đầy đủ sự chuyển biến trong tư duy nghệ thuật của Lê Lựu
qua những sáng tác của ông.


Suốt cả chặng đường dài sáng tạo và tư duy về nghệ thuật, trải qua
biết bao thăng trầm của cuộc đời, Lê Lựu đã khẳng định được vị trí
vững vàng của mình trên văn đàn nước nhà. Đọc và tìm hiểu tác phẩm
của ông chúng ta không thể không trân trọng một ngịi bút thơng minh,
đầy sắc sảo và giàu tính chiến đấu, một ngịi bút đầy tinh thần trách
nhiệm, ln có sự địi hỏi cao đối với mình và mọi người. Ông đã đến

với văn học bằng cả cuộc đời mình, bằng kinh nghiệm và vốn sống
phong phú mà trải qua bao nhiêu năm khổ cơng mới tích lũy được. Dù
viết ở đề tài nào ông cũng luôn tư duy nghệ thuật với ngòi bút miêu tả
và phương pháp xây dựng nhân vật thật đặc biệt. Khi viết về đề tài nông
thôn đặc biệt là những người nông dân nhà văn đã để mắt hơn đến
những khía cạnh chưa hoàn chỉnh ở con người và cuộc sống để phê
phán và góp phần xây dựng một nơng thơn với diện mạo hồn tồn mới.
Viết về những sai lầm của cơng cuộc cải cách ruộng đất trong Chuyện
làng Cuội tác giả đã khơng ngần ngại chỉ ra những sai sót của cán bộ
và nhân dân nhằm giúp cho độc giả hiểu rõ hơn thực chất một thời kì
lịch sử và cho dù nhà văn có tự nhận mình là “người ít học, ít đọc và
lười suy nghĩ” thì khi đọc tác phẩm của ông chúng ta cũng cảm nhận
được hơi thở nồng ấm của cuộc sống có được nhờ vốn sống phong phú
của nhà văn. Trong tác phẩm của Lê Lựu cái tốt, cái xấu, cái cao cả, cái
thấp hèn đều được thể hiện một cách chân thực như chính cuộc sống
vốn có. Phải thừa nhận rằng đọc tác phẩm của ông chúng ta như đang
tận mắt chứng kiến những gì diễn ra trong tác phẩm.
Tiểu thuyết Lê Lựu gắn liền với quá trình đổi mới tiểu thuyết của
văn học Việt Nam. Nó đem đến cho người đọc những ấn tượng mới mẻ
về một phong cách nghệ thuật riêng biệt của một nhà văn quân đội. Tùy
vào cảm hứng tiếp cận, mục đích và phạm vi khai thác vấn đề, các nhà
nghiên cứu đã đề cập đến một khía cạnh nổi bật về nghệ thuật trong tiểu
thuyết Lê Lựu với nhiều mức độ đậm nhạt khác nhau.


Nhìn nhận những đóng góp của Lê Lựu về mảng tiểu thuyết lẫn
truyện ngắn, Đinh Quang Tốn cho rằng: “Lê Lựu viết đều cả truyện
ngắn lẫn tiểu thuyết và cả hai thể loại đều thành công, nhưng thành
công hơn cả là tiểu thuyết” [48]. Lê Lựu được nhìn nhận ở nhiều góc độ
khác nhau, Nguyễn Bích Thu nhận xét về việc khai thác đề tài trong tiểu

thuyết Lê Lựu và khẳng định tính tích cực trong việc đề cập đến hạnh
phúc con người: “tiểu thuyết đã không ngần ngại miêu tả sắc dục, tình
yêu nhục thể là một lĩnh vực rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả những
con người tự nhiên, khai thác yếu tố tích cực của con người tự nhiên
cũng là một khía cạnh nhân bản của văn học”[46].
Nguyễn Trường Lịch cũng đã khẳng định thành công của Lê Lựu
trong tiểu thuyết Thời xa vắng ở việc khai thác những xung đột của trái
tim con người: “Có thể khẳng định nét đổi mới ở Thời xa vắng là tác
giả khơng hướng ngịi bút mình vào mơ tả các sự kiện lịch sử xã hội bên
ngoài theo thời gian tự sự nơi chiến trường máu lửa như một số tác
phẩm cùng thời và cả trước đó, mà chủ yếu đi sâu khai thác những xung
đột đầy kịch tính của trái tim con người trong bối cảnh giã từ chiến
tranh thời hịa bình”.
Nhận xét về tiểu thuyết Lê Lựu, tác giả Lê Hồng Lâm đã phát biểu:
Sở dĩ tác phẩm của Lê Lựu gây được dư luận và có chỗ đứng riêng trên
văn đàn như Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông, Hai nhà… là “bởi ông
luôn viết hết mình như ơng sống, u ghét rạch rịi và đặc biệt là đi đến
tận cùng tính cách nhân vật (…). Ở mức độ nào đó, nhà văn đã tạo ra
những nhân vật điển hình trong những hồn cảnh điển hình” [28; 703].
Vì lý do đó, nhìn nhận trên kết quả của những người đi trước như:
Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới (2002), luận văn thạc sĩ Trần Thị kim
Soa - ĐHSPHN. Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Lê Lựu thời kì đổi mới (2010), luận văn thạc sĩ Đào Thị Cúc –
ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội. Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Lê


Lựu (2006), luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Vân - ĐHKHXH & NV,
ĐHQG Hà Nội. Luận văn của chúng tơi đưa ra và tìm hiểu vấn đề Tư
duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu nhằm một lần nữa góp phần
khẳng định phong cách nghệ thuật tiêu biểu của ông trong một thời đại

mới.
3.

Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Trong luận văn này, chúng tơi đi sâu tìm

hiểu và nghiên cứu những thành tố, yếu tố quan trọng làm nên tư duy
nghệ thuật tiểu thuyết của Lê Lựu. Trong đó chúng tơi chủ yếu tập trung
khảo sát về con người, về cuộc sống cùng những phương thức biểu hiện
của tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu.
Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn này, chúng tôi chỉ xin đi sâu
vào khảo sát nghiên cứu những tiểu thuyết đã được đông đảo công
chúng bạn đọc biết đến đó là:
+ Thời xa vắng (1986)
+ Chuyện làng Cuội (1993)
+ Sóng ở đáy sơng (1994)
+ Hai nhà (2000)
Trong q trình phân tích, chúng tơi sẽ đặt những sáng tác của ơng
trong tồn bộ hệ thống tiểu thuyết của Lê Lựu để thấy được giá trị nghệ
thuật của tác phẩm.
Mục đích nghiên cứu: Chúng tơi hy vọng thơng qua luận văn sẽ
đem đến một cái nhìn khái qt, tồn diện và sâu sắc nhất về những vấn
đề của tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, từ đó khẳng định
được vai trị đóng góp của Lê Lựu đối với tiến trình phát triển của nền
văn học nước nhà.


4.

Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp lịch sử - xã hội
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thống kê

5.

Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái lược về tư duy nghệ thuật và hành trình sáng tác

của Lê Lựu
Chương 2. Tư duy bằng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu
Chương 3. Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê
Lựu


Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ TƯ DUY NGHỆ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA LÊ LỰU
Hịa trong cơng cuộc đổi mới đất nước, văn học thời kì đổi mới
cũng đã đổi thay rất nhiều, vấn đề tư duy nghệ thuật đặc biệt được chú
trọng, đặc biệt là nghệ thuật tiểu thuyết. Đất nước hịa bình, cuộc sống
trở lại với quy luật bình thường, con người lại trở về với muôn mặt của
đời sống thường nhật, phải đối diện với bao nhiêu vấn đề trong một giai
đoạn có nhiều biến động. Một hệ lụy kéo theo là tiểu thuyết thời kì này
có những chuyển biến phong phú, đa dạng, làm nóng lại khơng khí có
phần lặng lẽ của giai đoạn trước. Con đường đổi mới này dẫu có nhiều

thử thách, dẫu chưa thật hồn thiện nhưng nó đã phần nào định hình.
Trên con đường ấy, có thể nói Lê Lựu là một trong những tác giả đặt
những bước chân ghi dấu ấn trong lịng người đọc. Trong từng tác phẩm
của ơng đã thể hiện sự đổi mới của mình ở nhiều góc độ. Chính sự đổi
mới ấy đã góp phần đem đến cho văn học những hình tượng mới lạ về
người lính trong chiến tranh, người lính trong đời thường và những hiện
tượng nóng bỏng đang được quan tâm trong thời kì này.
1.1 Khái lược về tư duy nghệ thuật
1.1.1 Tư duy nghệ thuật là gì?
Khởi nguyên của sự phát triển xã hội chính là tư duy. Tư duy có
hai cách thể hiện đó là tư duy bằng hình tượng và tư duy bằng ngơn
ngữ. Tư duy bằng hình tượng gồm có tư duy bằng hình ảnh, âm thanh
hay cịn gọi là tưởng tượng. Tư duy bằng ngôn ngữ là tư duy bằng hệ
thống từ ngữ biểu hiện thành các phân đoạn. Trong tư duy hình tượng,
các phần tử xuất hiện trong quá trình tư duy là các hình ảnh, cịn ngơn
ngữ là các lời văn. Các họa sỹ tưởng tượng về bố cục, các hình ảnh,


màu sắc cho một bức tranh sẽ vẽ. Nhà văn thì tưởng tượng về các
khung cảnh mà nhân vật hoạt động, suy nghĩ về lời thoại của nhân vật.
Để phân loại, tư duy có nhiều hình thức tồn tại trong đó có tư duy nghệ
thuật là một hình thức tồn tại tương đối độc lập phục vụ nghệ thuật và
nó hội tụ cả hai yếu tố đó là tư duy bằng hình tượng và tư duy bằng
ngơn ngữ. Tư duy nghệ thuật là một q trình phản ánh tích cực thế
giới khách quan trong não bộ con người, nó là một phương tiện cơ bản
của nhận thức nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt động thực tiễn của
con người.
Tư duy nghệ thuật là tư duy được thể hiện và được thực hiện trong
quá trình sáng tạo, cảm thụ nghệ thuật. Sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật
là hình thái đặc trưng và là hình thái cao nhất của hoạt động thẩm mỹ,

trong sáng tạo và cảm thụ bao hàm cả đánh giá giá trị. Chủ thể của tư
duy nghệ thuật trước hết là các nghệ sĩ, những người sáng tạo ra các tác
phẩm nghệ thuật. Nhưng nghệ sĩ chỉ sáng tạo tác phẩm, công chúng
độc giả mới là người làm cho tác phẩm tồn tại, có đời sống thực sự.
Như vậy, chủ thể của tư duy nghệ thuật bao hàm cả công chúng nghệ
thuật – những người cảm thụ, thưởng thức nghệ thuật.
Tư duy nghệ thuật là tư duy tìm kiếm mọi hình thức thể hiện của
nội dung các sự vật, sự việc, các vấn đề, nói chung là nội dung của các
đối tượng tư duy và tìm những cách thể hiện rõ nhất, đặc trưng nhất, đầy
đủ nhất, ấn tượng nhất của các nội dung đó. Nếu nói chức năng của
khoa học là tìm kiếm các yếu tố, các mối quan hệ của đối tượng thì có
thể nói khoa học đi tìm nội dung của các đối tượng đó, cịn nghệ thuật
lại tìm kiếm các hình thức thể hiện của các đối tượng đó. Sự tiến triển
của lịch sử đã làm cho nghệ thuật chỉ tập trung vào chức năng tìm kiếm
cách thể hiện ấn tượng nhất, nghĩa là thể hiện cái đẹp. Hai thủ pháp
chính để nghệ thuật thể hiện cái đẹp là đặt cái đẹp lên vị trí cao nhất và


đặt cái đẹp vào vị trí tương phản với cái xấu. Nếu khơng tìm được nội
dung nghệ thuật thì chẳng có gì để thể hiện, ngược lại nếu khoa học
khơng biết cách để thể hiện những cái mà khoa học tìm ra thì chẳng ai
có thể biết hoặc hiểu đó là cái gì và nó như thế nào.
Tư duy bằng hình tượng là kiểu tư duy đặc thù của nghệ thuật. Mục
đích của tư duy nghệ thuật là tìm đến bản chất của sự vật, hiện tượng để
nắm bắt những quy luật đời sống khách quan. Thơng thường chính tư
duy nghệ thuật đã giúp cho người nghệ sĩ có quan niệm nghệ thuật riêng
biệt về thế giới. Từ đó người nghệ sĩ mới có cái nhìn khách quan để
đánh giá và nhìn nhận vấn đề một cách trung thực nhất. Tuy nói nghệ
thuật là hư cấu, nhưng là hư cấu trên nền tảng và chất liệu của cái có
thật, chính vậy mà tư duy nghệ thuật đóng vai trị rất quan trọng trong

q trình hư cấu đó.
Như vậy trong q trình sáng tạo và hồn thiện tác phẩm tư duy
nghệ thuật đóng một vai trị vơ cùng quan trọng, nó giúp người nghệ sĩ
bước đến cái đích mà họ đang muốn đến và giúp người đọc cảm thụ,
cảm nhận được ý đồ của người nghệ sĩ và như vậy là người nghệ sĩ đã
thành cơng. Từ đó cho thấy tư duy nghệ thuật khơng những góp phần
hồn thiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm mà còn khẳng định tài
năng của người nghệ sĩ.
1.1.2 Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết
Trong các loại hình tư duy nghệ thuật thì tư duy trong văn chương
là gần với đặc trưng tư duy chung của con người hơn cả, nó tương đồng
với tư duy khoa học ở chỗ đều có các loại hình tư duy trừu tượng. Và tư
duy nghệ thuật trong tiểu thuyết là một khái niệm khá mới được giới
phê bình, nghiên cứu văn học ln quan tâm và tìm hiểu.


Tư duy sáng tạo văn học nghệ thuật nói chung và tư duy sáng tạo
tiểu thuyết nói riêng khơng chỉ đơn giản miêu tả sự vận động khơng
ngừng của tồn bộ thế giới nội tâm đa chiều kích của con người, mà cịn
từ nhiều góc cạnh sâu xa đã đưa ra và nâng chúng lên một tầm cao mới
với một cái nhìn hồn tồn khác trước. Để có được một tác phẩm nghệ
thuật được cơng chúng độc giả đón nhận không phải là chuyện đơn giản,
tư duy sáng tạo nghệ thuật là tư duy khá phức tạp, nó địi hỏi phải có tài
năng cộng với q trình lao động lâu dài được tích lũy từ cuộc sống.
Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết là một khái niệm được dùng
nhiều trong phê bình và nghiên cứu văn học. Tiểu thuyết vốn là một thể
loại có dung lượng khá lớn vì thế mà quá trình tư duy của người nghệ sĩ
dành cho nó cũng địi hỏi khá nhiều cơng sức mới có thể hoàn thành
được ý đồ của người sáng tạo. Để nắm bắt được vấn đề tư duy nghệ
thuật trong tiểu thuyết trước hết cần phải xem xét khái niệm về tiểu

thuyết. Tiểu thuyết là một thể loại thuộc phương thức tự sự. Mặc dù ra
đời muộn song tiểu thuyết lại được xem là “máy cái của văn học” bởi nó
ln giữ vị trí then chốt trong đời sống văn học. Trong cuốn Từ điển
thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi đã định nghĩa: Tiểu thuyết là một “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả
năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn khơng gian và thời
gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những
bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt
giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [53; 328]. Từ định nghĩa
trên đã cho thấy tầm quan trong của thể loại tiểu thuyết, nó đã làm được
cái việc mà các thể loại khác không làm được.
Định nghĩa của các tác giả trong cuốn Lý luận văn học có lẽ mang
tính chất tổng qt hơn cả về thể loại này: “Tiểu thuyết là một thể loại
lớn nằm trong phương thức tự sự có khả năng phản ánh hiện thực đời


sống một cách bao quát ở mọi giới hạn không gian và thời gian , khả
năng khám phá một cách sâu sắc những vấn đề thuộc thân phận con
người thông qua những tính cách đa dạng, phức tạp và khả năng tái
hiện những bức tranh mang tính tổng thể rộng lớn về đời sống xã
hội”[14].
Từ những định nghĩa trên về tiểu thuyết cho thấy tiểu thuyết đóng
một vai trị vơ cùng quan trọng trong nền văn học, nó góp phần làm cho
nền văn học trở nên phong phú đồng thời làm cho nền văn học vận động
theo chiều hướng tích cực đi lên. Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết
đóng vai trị chủ đạo hình thành nên tác phẩm, một tác phẩm nghệ thuật
hồn thiện địi hỏi phải có sự tư duy sáng tạo nhưng không thể thiếu
được yếu tố nghệ thuật trong đó. Một nhà văn phải suy nghĩ trăn trở rất
nhiều để có được một tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt đối với tiểu thuyết
một thể loại có dung lượng khá lớn chính vì vậy mà việc địi hỏi nhà văn

phải lao động nhiều hơn cũng là điều tất nhiên. Quá trình tư duy nghệ
thuật trong tiểu thuyết là một q trình cần có thời gian và sự trải
nghiệm mà như tư duy nghệ thuật đã đề cập đến.
Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết luôn hướng tới cái đẹp, tư duy
về cái đẹp, cổ vũ cho cái đẹp, giúp con người từ đó hồn thiện mình
hơn. Hình tượng nghệ thuật chính là sự phản ánh, sự kết tinh, sự thăng
hoa và tôn vinh cái đẹp trong đời sống hiện thực. Khi sáng tạo hình
tượng nghệ thuật, người nghệ sĩ dựa trên cơ sở khẳng định cái đẹp và
phê phán cái xấu. Cái đẹp là trung tâm của quan hệ thẩm mỹ, quan hệ
nghệ thuật giữa con người và hiện thực. Vì thế năng lực tư duy đóng vai
trị vơ cùng quan trọng trong lao động nghệ thuật.
Trong tiểu thuyết, tư duy nghệ thuật góp phần tạo nên sự hài hòa
giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội, con người với tự
nhiên. Hiện thực cuộc sống với những mối quan hệ chằng chịt đan xen


phức tạp giữa con người là một vấn đề lớn, nhưng tư duy nghệ thuật đã
giúp chúng ta giải mã chúng. Dưới nhiều hình thức tồn tại và thể hiện
khác nhau, nhờ có tư duy nghệ thuật mà cuộc sống đi vào văn học hay
cụ thể hơn là đi vào tiểu thuyết khá phong phú và đa dạng.
Với tiểu thuyết, hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa cái
hiện thực và cái lý tưởng, ước mơ. Nhà văn xuất phát từ hiện thực,
nhưng nhìn nhận hiện thực thơng qua lý tưởng thẩm mỹ của mình. Tư
duy nghệ thuật cũng bắt nguồn từ xuất phát điểm như vậy, đồng thời nó
cũng là phương thức để nhìn nhận cuộc sống một cách tích cực, lạc
quan. Những giá trị của cuộc sống cũng từ đó mà được nhìn nhận tích
cực hơn trong tiểu thuyết. Phương diện tình cảm, cảm xúc và phương
diện trí tuệ, tri thức khơng tồn tại độc lập và tách rời nhau. Nhà văn
trong trạng thái cảm xúc mà nhận diện lẽ sống, trách nhiệm và ý nghĩa
cuộc đời, đồng thời công chúng nghệ thuật cũng tiếp nhận, giải mã ý

nghĩa, giá trị của một tác phẩm, một hình tượng nghệ thuật trong trạng
thái cảm xúc mà thiếu nó khơng thể có q trình cảm thụ nghệ thuật.
Việc tìm hiểu vấn đề tư duy nghệ thuật của nhà văn trong một tác phẩm
giúp ích rất nhiều cho việc cảm thụ nghệ thuật của độc giả.
Lấy chất liệu từ hiện thực đời sống, nhà văn trong quá trình tư duy
nghệ thuật đã khơng hề sao chép, mà hồn tồn là sự thăng hoa, sáng
tạo. Tư duy nghệ thuật đích thực ln là tư duy sáng tạo. Mỗi hình
tượng nghệ thuật, mỗi tác phẩm nghệ thuật, đều khai mở những cách
cảm, cách nghĩ, cách nhìn nhận cuộc sống và con người một cách độc
đáo sáng tạo. Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết là quá trình kết tinh
những năng lực thẩm mỹ của người nghệ sĩ làm cho tác phẩm nghệ
thuật trở thành một “khối đa diện thẩm mỹ” với nhiều tầng, nhiều lớp
giá trị, ý nghĩa. Nhà văn cảm xúc các cảnh đời, các thân phận con
người, các hiện tượng của cuộc sống, từ đó mà sáng tạo nên những tác


phẩm, những hình tượng nghệ thuật. Nghệ thuật khơng phải là lập luận,
lý giải, thuyết lý, mà là giãi bày tình cảm, tâm sự. Các hình tượng nghệ
thuật là kết tinh tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người nghệ sĩ. Nhà
văn trong q trình tư duy nghệ thuật khơng chỉ có yếu tố tình cảm, cảm
xúc, mà cịn có yếu tố trí tuệ, tri thức.
1.2 Hành trình sáng tác của Lê Lựu
1.2.1 Tiểu sử và con người
Lê Lựu sinh ngày 12.12.1942 tại một làng ngoại đê sông Hồng, xã
Tân Châu, huyện Khối Châu, tỉnh Hưng n. Ơng xuất thân trong một
gia đình nhà nho nghèo, ơng sớm gắn bó với đồng đất q hương, nơi
cái đói, cái nghèo ln đeo đẳng mà chúng ta có thể phần nào thấu hiểu
cảnh đói nghèo ở đây qua câu dân gian “Oai oái như phủ Khoái xin
tương” để thấy được ông đã sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh như thế
nào? Lê Lựu rời ghế nhà trường từ đầu những năm 60, lúc đó phong

trào “ba nhất” đang hừng hực khí thế. Tuổi trẻ háo hức, từ một cậu bé ở
làng q xa phủ xa huyện, nay được hịa mình vào khơng khí thi đua của
cơng – nơng – binh tồn miền Bắc. Nhập ngũ vào quân khu III làm báo,
viết văn. Đến những năm 70, ơng chuyển về tạp chí Văn nghệ quân đội,
từng là biên tập viên văn xuôi, thư kí tịa soạn. Trong đời thường Lê
Lựu chân thật, hồn nhiên, đơi lúc có phần “lơi thơi lếch thếch”, “luộm
thuộm” nhưng bên cạnh đó ơng sống rất gần gũi, chân thật, cởi mở…
đó chính là nguồn lực khiến ơng không khô khan trong sáng tác văn
chương.
Là một nhà văn – một người lính đúng nghĩa, trực tiếp đứng trong
hàng ngũ những người lính cụ Hồ, nếm trải những khó khăn gian khổ
của chiến tranh nên phần lớn những sáng tác của Lê Lựu đều tập trung
vào người lính với những mất mát của họ trong chiến tranh và cả trong
thời bình, những người lính trong tác phẩm của ơng cả thời trai trẻ cống


hiến sức mình trên chiến trường máu lửa, trở về với cuộc sống đời
thường có lúc họ hồn tồn bế tắc trong cuộc sống gia đình. Phải là một
người rất thấu hiểu những người lính mới có thể viết nên những trang
văn đầy cảm xúc như vậy. Ông thực sự là một người chiến sỹ cầm bút
đầy nhiệt huyết mà tất cả chúng ta không thể phủ nhận bởi những đóng
góp của ơng đã chứng minh tất cả. Nhiều nhà phê bình và nghiên cứu đã
đánh giá rất cao tài năng của ơng.
Nhà phê bình Ngơ Thảo nhận xét:” Lê Lựu là một trong những nhà
văn có đóng góp quan trọng làm nên diện mạo văn chương thời kì đổi
mới. Nếu trước đây văn học là một sự lạc quan tồn bộ, vì lý do tất cả
cho chiến thắng, thì đến Lê Lựu, những trang văn đã báo hiệu một sự lo
lắng về những cái khơng hồn thiện mà chúng ta phải cảnh giác với nó
trong cuộc sống thời bình. Văn chương Lê Lựu có tính dự báo rất mạnh.
Lê Lựu không ngừng trăn trở, day dứt về con người thời hậu chiến và

những bất trắc trong cuộc sống. Ngay từ những tác phẩm đầu tiên của
Lê Lựu từ chiến trường gửi về, tôi đã giới thiệu trên Văn nghệ Quân đội
và tin tưởng đây sẽ là một gương mặt đáng giá của văn học chống Mỹ.
Về bút pháp, Lê Lựu cũng có rất nhiều đổi mới đáng được ghi nhận.
Nếu chúng ta kể tên những nhà văn tiêu biểu thời kỳ chống Mỹ, không
được phép thiếu nhà văn Lê Lựu [60]
Nhà thơ Hồng Trần Cương khẳng định: Khơng ai có thể phủ nhận
Lê Lựu là một trong những gương mặt nổi bật nhất của văn xuôi thời kỳ
chống Mỹ với các tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc như Thời xa vắng, Sóng
ở đáy sơng… Ơng rất xứng đáng được vinh danh giải thưởng Hồ Chí
Minh. Nếu vì lý do nào đó mà tác giả Thời xa vắng khơng được trao
giải thì rất tiếc, thì đúng là văn học chúng ta đang “xa vắng” thật rồi.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết: Nói như nhà phê bình Hồng
Ngọc Hiến thì văn của Lê Lựu “cứ như bún dính vào nhau”, ý nói đến


chất quê rất đậm đà trong văn Lê Lựu. Đó cịn là cảm giác của con
người trong những “dính dáng” với thiên nhiên, với những hủ tục lạc
hậu, với cái đẹp và với cả cái xấu. Cái cảm giác văn chương của Lê Lựu
mang đến cho độc giả là rất đáng kể, là độc đáo trong văn học chống
Mỹ và thời kỳ đổi mới. Về nội dung, Lê Lựu rất giỏi trong những câu
chuyện giữa người nhà quê với người thành thị.
Chính nhà văn Lê Lựu cũng từng chia sẻ: “Việc viết văn không
giống với việc tạo ra sản phẩm từ cơng nghệ mới, cứ cái sau thì tốt hơn
cái trước. Viết văn là đòi hỏi từ nhu cầu cá nhân và cả Trời cho nữa.
Không phải lúc nào tác phẩm mình viết sau cũng hay hơn tác phẩm
trước. Nếu mình có một tác phẩm được đánh giá tốt cũng đã là may
mắn rồi. Nhưng khơng phải mình có tác phẩm nổi tiếng rồi thì mình
ngừng viết. Viết với tơi khơng thể ngừng, vì đó là nhu cầu, là cuộc trị
chuyện bất tận với chính mình và với độc giả”[28].

Lao động nghệ thuật là cả quá trình tư duy đầy sáng tạo. Là một
nhà văn quân đội nhưng Lê Lựu lớn lên từ nơng thơn, khơng mấy lúc xa
rời. Ơng đã chứng kiến tất cả những vui buồn của người nơng dân.
Chính vì thế mà với bản chất của một người nơng dân mặc áo lính, ơng
ln suy nghĩ về q hương, về những gì liên quan đến những người
nơng dân. Đó là cội nguồn, là quê hương văn học của Lê Lựu từ tác
phẩm đầu tiên đến những tác phẩm gần đây nhất. Với tình yêu văn
chương, sự nỗ lực khơng mệt mỏi Lê Lựu đã tìm được cho mình chỗ
đứng trong giới văn chương.
Lê Lựu là một nhà văn được đi nhiều, biết nhiều, vừa mở rộng tầm
mắt, vừa tăng thêm vốn sống thực tế. Ơng có thêm mảng đề tài mới là
cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ quân đội. Với bản chất chân thật
giản dị, Lê Lựu dễ hòa vào đời sống người chiến sĩ, tìm hiểu tâm tư và
sinh hoạt của họ, một cách tự nhiên, không bị che chắn bởi một hàng rào


ngăn cách nào. Những người lính xuất thân từ nơng dân mà ra, họ chính
là ơng, mà ơng chính là họ. Nên trong những trang viết của ông, mọi
người vẫn thường bảo ơng là nhân vật chính. Nhưng cuộc sống riêng tư
của con người này cũng khơng hề bình lặng như ta vẫn tưởng. Ông lấy
vợ lần đầu ở quê, hai người có con chung, sau nhiều năm mới ly dị.
Người vợ thứ hai là người thành phố, song cuộc sống cũng khơng khá
hơn trước. Khó có thể nói ơng gặp may hay không gặp may trong đời
sống riêng. Chỉ biết rằng chính cái cuộc sống riêng của ơng đã cho ơng
những trang văn đầy giá trị. Chính nó cũng là một trong những căn
nguyên để chúng ta có được nhà văn Lê Lựu.
Cả cuộc đời cầm bút, với số lượng tác phẩm thuộc dạng trung bình.
Ơng viết khơng khỏe, có lẽ vì thận trọng, chứ so với cái vốn sống mà
ơng tích lũy được thì phải cho ơng viết nhiều hơn thế. Lê Lựu khi vui
đùa vẫn thường nhận mình là nhà văn ít học. Trình độ văn hóa và học

vấn của ông chủ yếu do ông tự học là chính. Lê Lựu có một tài năng
bẩm sinh, cuộc sống thôn quê và người chiến sĩ đã giúp cho năng khiếu
văn chương của ông phát triển. Văn ông không rành rẽ, khơng mạch lạc,
nhưng có một chất nhựa gì đấy ở bên trong. Nhà thơ Trần Đăng Khoa
đã có nhận xét: “Văn Lê Lựu cuốn hút, đọc không nhạt. Ngay cả những
truyện vào loại xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượm được cái gì đấy,
có khi là một chi tiết, một đoạn tả cảnh, hoặc một nét phác họa tính
cách nhân vật”[17].
Khác với những nhà văn cùng thời khác, ở Lê Lựu ta thấy một con
người lao động nghệ thuật đầy chân thật. Ở bất cứ một tác phẩm nào của
ơng dù lớn hay nhỏ, ơng cũng có một vấn đề để gửi gắm. Ông bước vào
nghề cầm bút với lịng đầy say mê, dù bước đầu khơng hề gặt hái được
kết quả nhưng cũng khơng vì thế mà ông chịu bỏ cuộc. Thậm chí, anh
lính thông tin viết một số bài để đăng báo tường còn bị anh em trong tổ


cấu chí nhau vì Lê Lựu “viết dở chẳng ai thích nghe” (lời Lê Lựu).
Nhưng cũng nhờ từ sự giúp đỡ của những cây bút đàn anh (nhà văn Từ
Bích Hoàng), Lê Lựu dần bứt phá và bắt đầu được mọi người chú ý. Với
truyện ngắn Người cầm súng, Lê Lựu đã có những bước đi mới trên
con đường văn chương. Cuối cùng thì độc giả, giới văn chương đã biết
đến cái tên Lê Lựu.
1.2.2 Sự nghiệp văn chương
Gần 40 năm cầm bút với hơn 20 tập sách, số lượng tác phẩm của
Lê Lựu thuộc loại trung bình. Lê Lựu vốn khởi nghiệp từ nghề báo
nhưng lại thành công trong lĩnh vực văn chương. Truyện ngắn đầu tay
của ông là Tết làng Mục (1964), tiếp đến là những tác phẩm Người cầm
súng (1967), rồi sau đó là tiểu thuyết Mở rừng (1977), Thời xa vắng
(1986), Chuyện làng Cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà
(2000),… Với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng Lê Lựu lại được

độc giả chú ý khơng chỉ một hoặc hai tác phẩm. Đây chính là điểm
thành cơng ở ơng, một nhà văn có được một tác phẩm được đông đảo
bạn đọc và gới phê bình văn học quan tâm thì đã được xem là thành
cơng và Lê Lựu đã khơng chỉ có một mà cịn nhiều hơn một, ơng viết
khơng khỏe nhưng những tác phẩm đều nặng về giá trị. Mỗi chúng ta
khi đọc tác phẩm của ơng rồi thì khơng thể khơng băn khoăn về những
vấn đề của cuộc sống, cuộc sống đi vào trang văn Lê Lựu không hề bị
che giấu mà được lột tả từng góc cạnh.
Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu xuất hiện đã gây xôn xao dư
luận. Đây là một câu chuyện về hôn nhân và gia đình, về tình yêu và
hạnh phúc của tuổi trẻ của một cá nhân. Cuốn sách nói về một khoảng
đời của một con người cụ thể, một khoảng đời đã trở nên có tính chất
lịch sử đối với thời điểm tác giả viết, một khoảng thời gian đặc biệt
quan trọng, bao gồm những được, mất, vui, buồn, thành, bại của cuộc


đời một con người, mà cụ thể là một người lính đã cống hiến cả sức lực
và tuổi thanh xuân nơi chiến trường ác liệt, trên chiến trường anh là một
vị chỉ huy thông minh và nhạy bén nhưng trong cuộc sống đời thường
anh hồn tồn thất bại.
Nhà phê bình Vương Trí Nhàn, trong bài viết Một đóng góp vào
việc nhận diện con người hôm nay (Báo Văn nghệ 12/1986) đã khẳng
định giá trị của Thời xa vắng trong việc khắc họa và phản ánh hiện
thực. Tác giả đã phân tích cuộc đời nhân vật Giang Minh Sài để thấy
được những điều trăn trở, những tâm lý thường nhật của con người và
kết luận: “Toàn bộ Thời xa vắng là tiếng kêu của một lớp người cho
tuổi trẻ của mình, cuộc đời mình, ngay cả khi thành đạt trong lập
nghiệp nữa, họ vẫn bất hạnh, vì khơng biết sống”. Thành cơng của cuốn
tiểu thuyết là Lê Lựu đã nói lên được những vấn đề của cuộc sống hàng
ngày, của những mối quan hệ gia đình trong xã hội. Tuổi trẻ của con

người đã dần qua đi cùng với những năm tháng của chiến tranh, trở về
với đời sống thường nhật dường như con người đã khơng cịn đủ năng
lực của tuổi trẻ để mà phán đoán hay quyết định nữa mà chỉ cịn biết
xi theo dịng chảy của số phận.
Năm 1990 Lê Lựu cho ra đời tác phẩm Đại tá không biết đùa.
Cuốn tiểu thuyết chưa gây được tiếng vang để lấn át Thời xa vắng
nhưng nó lại một lần nữa khẳng định ngòi bút tiểu thuyết chững chạc và
sắc sảo của ơng. Sau đó năm 1993, Chuyện làng Cuội ra đời mà theo
nhà thơ Trần Đăng Khoa là “đứa con bất hiếu của ông bố nhân từ” [17;
91]. Truyện mang ý nghĩa phê phán lớn. Câu chuyện viết về công cuộc
cải cách ruộng đất với những người cán bộ tha hóa, dần trở thành những
kẻ lưu manh, giả dối, lừa lọc mọi người, chưa bao giờ cuộc sống lại trở
nên tha hóa như vậy, con cái bạc đãi cha mẹ vì lợi ích bản thân, vợ phản
bội chồng vì sự điêu trá phù phiếm. Tác phẩm đã mở ra cho người đọc


một cái nhìn tồn diện về bối cảnh xã hội sau những năm chiến tranh,
con người vì lợi ích của bản thân mà đánh mất đi những giá trị đạo đức
tốt đẹp vốn có của con người Việt Nam. Đằng sau cuốn tiểu thuyết này
có nhiều sự khen chê khác nhau, từ Trần Đăng Khoa – một người đồng
hương khá thân thiết của nhà văn, đến Bùi Việt Sỹ - phóng viên báo Lao
động rồi Đinh Quang Tốn, Lê Hồng Lâm… đều có những bài viết, lời
nhận xét khen chê khá mạnh mẽ vả quyết liệt về cuốn tiểu thuyết đầy
“tai tiếng” này. Chưa cần bàn về tính chất đúng sai, song một tác phẩm
ra đời mà tạo thành làn sóng dư luận như vậy khơng phải là nhà văn nào
cũng làm được.
Tiểu thuyết Sóng ở đáy sơng tuy ra đời khá lâu song mãi cho tới
lúc 10 tập phim truyện “Sóng ở đáy sơng” do Lê Lựu và Lê Minh Ngọc
chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên được đài truyền hình Hà Nội
độc quyền phát sóng suốt cả tháng. Dư luận đánh giá rất cao. Cũng

chính từ đây Sóng ở đáy sơng lại được biết đến thêm một lần nữa, khối
lượng độc giả quan tâm cũng đã tăng lên đáng kể. Bài viết Tơi khơng tin
người nào nói yêu hơn kẻ khác trong khi họ chửi bố mình của Hải Toàn
(Lê Lựu tạp văn) đã bàn khá nhiều về nghệ thuật xây dựng nhân vật Núi
của tác giả, trong đó đề cập nhiều đến vấn đề nguyên mẫu. Cuốn sách
viết về q trình từ tha hóa đến hồn lương của nhân vật chính Phạm
Quang Núi do thiếu bàn tay yêu thương của người mẹ, thừa sự tàn nhẫn
của người cha và cả sự phức tạp của đời sống xã hội. Đây chính là cuốn
tiểu thuyết thành cơng của Lê Lựu. Nó khơng chỉ chiếm được cảm tình
của độc giả văn học mà còn cuốn hút cả khán giả truyền hình. Có lẽ cho
tới khi bộ phim truyền hình này phát sóng, độc giả mới thực sự biết đến
tác phẩm Sóng ở đáy sơng. Một lần nữa, tài năng, bản lĩnh Lê Lựu lại
tiếp tục được khẳng định.


×