Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN HAI BÀ TRƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.78 KB, 45 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI
VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ TẠI CHI CỤC THUẾ
QUẬN HAI BÀ TRƯNG
2.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỘ KINH DOANH CÁ THỂ TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG.
Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, phía Bắc giáp quận
Hoàn Kiếm, phía Đông giáp sông Hồng - Gia Lâm, phía Tây giáp quận Đống Đa và
Thanh Xuân, phía Nam giáp huyện Thanh Trì. Nằm trên vùng châu thổ sông Hồng, địa
bàn quận thấp, có nhiều hồ, ao, sông, mương - đã từ lâu là hệ thống thoát nước của
thành phố, có cảng phà Đen cùng hệ thống đường bộ qua các cửa ô đã nối liền Hà Nội
với các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và các tỉnh phía Nam của Tổ quốc.
Quận Hai Bà Trưng có dân số khoảng 360,9 ngàn người, diện tích gần 15 km
2
gồm 25 phường. Toàn quận có 364 đơn vị quốc doanh Nhà nước; 1453 công ty TNHH;
tổ sản xuất; hợp tác xã; công ty cổ phần; 6 chợ lớn, 9 chợ vừa và trên 20 chợ tạm, 3
trường đại học lớn: Kinh tế Quốc dân, Bách Khoa, Xây Dựng và 96 trường từ mầm non
đến trung học cơ sở; 5 bệnh viện lớn: Việt Xô, 108, Mắt, Thanh Nhàn, bệnh viện
Đường sắt và 34 cơ sở của các trung tâm y tế; cùng nhiều khu trung tâm vui chơi giải trí:
Công viên Lê Nin, Hồ Thiền Quang, Bể bơi Tăng Bạt Hổ … Điều đó cho thấy hoạt động
sản xuất, kinh doanh của quận diễn ra khá sầm uất.
Trong các loại hình sản xuất, kinh doanh trên địa bàn quận, các hộ cá thể là đối
tượng kinh doanh chủ yếu. Hiện nay, trên toàn bộ quận có 13.600 hộ cá thể phân bố rải
rác trên khắp các phường, chợ. Trong số 25 phường, Ngô Thì Nhậm là phường có số hộ
kinh doanh cao nhất 655 hộ, thấp nhất là phường Hoàng Văn Thụ có 174 hộ. Trong 6
chợ lớn là: chợ Đồng Tâm, chợ Mai động, chợ Hôm, chợ Trương Đình, chợ Mơ và chợ
Hoà Bình thì chợ Mơ có số lượng tư thương cao nhất với 519 hộ. Các hộ kinh doanh
hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề thương mại, dịch vụ, ăn uống, tiểu thủ công
nghiệp vì đây là các ngành, lĩnh vực có thị trường lớn, đòi hỏi vốn đầu tư không nhiều,
phù hợp với nguồn vốn còn hạn hẹp của phần đông các hộ, khả năng quay vòng vốn
nhanh, hạn chế được rủi ro, tỷ suất lợi nhuận cao (trong khi lĩnh vực sản xuất kinh
doanh khác thì cạnh tranh lớn, rủi ro cao, thị trường hẹp …), phù hợp với triết lý khá


phổ biến của các hộ "vốn ít, lãi nhiều, quay vòng nhanh, rủi ro thấp". Sự tập trung của
các hộ kinh doanh vào các lĩnh vực thương mại - dịch vụ đã góp phần đáp ứng được
nhiều nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy trở lại
đối với sản xuất. Với sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn quy mô, các hộ kinh
doanh đã đóng góp một phần đáng kể vào tổng thu Ngân sách Nhà trước trên địa bàn
quận. Hàng năm, số thu từ hộ kinh doanh thường chiếm khoảng trên 50% trong tổng
thu Ngân sách Nhà nước và ngày một tăng qua các năm. Song, với một số lượng lớn hộ
kinh doanh đó đã khiến cho công tác quản lý thu thuế trở nên vô cùng phức tạp và bộc
lộ nhiều hạn chế.
2.2. TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ THU THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ HAI BÀ
TRƯNG.
Chi cục Thuế quận Hai Bà Trưng được thành lập theo Quyết định số 315 ngày
21/8/1990 của Bộ Tài chính về việc thành lập Chi cục Thuế Nhà nước.
Nằm trong hệ thống thu thuế Nhà nước, Chi cục Thuế Hai Bà Trưng, chịu sự
lãnh đạo song trùng của Cục Thuế Hà Nội và UBND Quận Hai Bà Trưng, có chức năng
trực tiếp tổ chức công tác thu thuế trên địa bàn quận với nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể
là:
• Lập kế hoạch thu thuế hàng năm, hàng quý, hàng tháng trên địa bàn quận Hai
Bà Trưng.
• Thực hiện các nghiệp vụ thu thuế và thu khác đối với các ĐTNT, đối tượng
chịu thuế theo đúng quy định của Nhà nước: tính thuế, lập sổ thuế, thông báo số thuế
phải nộp, phát hành các lệnh thu về thuế và thu khác, đôn đốc thực hiện nộp đầy đủ, kịp
thời mọi khoản thu vào Kho bạc Nhà nước, xem xét và đề nghị miễn giảm thuế thuộc
thẩm quyền và thực hiện quyết toán thuế.
• Kiểm tra và xử lý các vi phạm chính sách, chế độ thuế, vi phạm kỷ luật trong nội
bộ ngành, giải quyết đơn thư khiếu nại theo thẩm quyền.
• Thống kê, kế toán, thông tin và báo cáo tình hình kết quả thu nộp thuế.
Hiện nay toàn Chi cục có 238 cán bộ công chức (221 trong biên chế, 17 hợp
đồng).
- Cán bộ công chức nam : 67 người.

Cán bộ công chức nữ : 171 người.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
+ Đại học : 17 người.
+ Trung học : 195 người.
+ Sơ cấp : 11 người.
- Trình độ lý luận chính trị:
+ Cao cấp : 1 người.
+ Trung cấp : 4 người.
Bộ máy quản lý thu thuế của Chi cục bao gồm các bộ phận sau:
2.2.1. Ban Lãnh đạo.
Ban Lãnh đạo Chi cục gồm 5 người, trong đó:
• Một Chi cục trưởng: Là chủ tài khoản, phụ trách chung kế hoạch thu thuế, phụ
trách Tổ Thanh tra - Kiểm tra và Tổ Nhân sự - Hành chính - Tài vụ.
• Bốn Chi cục phó: trực tiếp phụ trách các đội thuế phường, chợ, tổ nghiệp vụ và
các đội thuế ở đầu mối giao thông.
2.2.2. Các tổ, đội thuế.
2.2.2.1. Tổ Nghiệp vụ:
- Xây dựng chương trình, biện pháp triển khai quản lý thu thuế, hướng dẫn việc thực
hiện chính sách thuế và các biện pháp nghiệp vụ hành thu.
- Hướng dẫn, giải thích những vướng mắc của ĐTNT trong quá trình thi hành
luật và các quy định về thuế của Nhà nước.
- Điều tra tình hình sản xuất của các ĐTNT để có kế hoạch điều chỉnh doanh thu
và mức thuế của các hộ, đảm bảo cân đối giữa các địa bàn. Rà soát các căn cứ tính thuế
của ĐTNT do các đội thuế gửi lên.
- Tham gia với Tổ Kế hoạch, tính thuế, lập bộ và kế toán để xây dựng dự toán
thu.
- Tham gia với Tổ Thanh tra - Kiểm tra trong việc thanh tra, kiểm tra ĐTNT và
các đội thuế trong việc thực hiện quy trình thu.
2.2.2.2. Tổ Kế hoạch - tính thuế - lập bộ thuế và kế toán thu:
- Chủ trì trong việc lập dự toán thu, theo dõi tình hình thực hiện dự toán thu thuế

hàng tháng, quý, năm.
- Lập sổ danh bạ ĐTNT, tổng hợp danh sách ĐTNT xin cấp mã số ĐTNT từ các
đội thuế chuyển đến để trình lên Cục Thuế, thông báo mã ĐTNT được cấp.
- Lập bộ thuế, xử lý tờ khai thuế, tính thuế, tính nợ, tính phát hoặc ấn định thuế,
phát hành thông báo thuế.
- Kế toán và theo dõi số thu nộp, thực hiện thống kê thuế.
- Xem xét quyết toán thuế của các ĐTNT kê khai, xác định số thuế phải nộp và
thực nộp trong năm, số thuế nộp thừa hoặc nộp thiếu để đưa vào thông báo thuế tiếp
theo.
- Thẩm hạch biên lai thuế.
- Cung cấp các thông tin cần thiết cho các Tổ nghiệp vụ, Thanh tra và các đội
thuế phục vụ cho công tác quản lý thu.
2.2.2.3. Tổ Thanh tra - Kiểm tra:
- Thực hiện kiểm tra các ĐTNT có đơn xin nghỉ kinh doanh, kiểm tra các tờ khai,
hồ sơ quyết toán thuế có nghi ngờ do đội thuế hoặc tổ kế hoạch chuyển đến.
- Thanh tra, kiểm tra cán bộ thuế trong việc thực thi chính sách thuế, các biện
pháp nghiệp vụ hành thu …
- Xử lý các trường hợp vi phạm về thuế, giải quyết các khiếu nại về thuế theo
thẩm quyền.
2.2.2.4. Tổ Quản lý ấn chỉ:
- Tổ chức kế toán nhập, xuất tất cả các loại ấn chỉ thuế, cấp phát và bán hoá đơn,
tờ khai thuế cho ĐTNT.
- Mở sổ sách theo dõi quản lý, thanh toán biên lai thuế với từng cán bộ thuế.
- Theo dõi quản lý và kiểm tra các đối tượng sử dụng hoá đơn, chứng từ trên địa
bàn, phối hợp với các bộ phận chức năng để kiểm tra, xác minh biên lai thuế, hoá đơn,
chứng từ, phòng chống và ngăn chặn việc mua, bán, sử dụng hoá đơn, chứng từ giả, bất
hợp pháp.
- Hướng dẫn các đối tượng sử dụng biên lai thuế, hoá đơn, chứng từ … thực hiện
đúng việc ghi chép, quản lý sử dụng theo đúng quy định của Nhà nước.
- Thanh huỷ ấn chỉ thuế hết hạn sử dụng theo quy định.

2.2.2.5. Tổ Nhân sự - Hành chính - Tài vụ:
- Thực hiện công tác quản lý cán bộ.
- Quản lý kinh phí chi tiêu của Chi cục.
- Thực hiện các công tác khác có liên quan đến cán bộ công chức, hành chính và
tài vụ cơ quan.
2.2.2.6. Các Đội thuế phường, chợ:
- Tổ chức quản lý thu thuế các đối tượng được phân công.
- Tham gia với tổ kế hoạch để xây dựng dự toán thu thuế.
Chi cục có 19 đội thuế phường, chợ. Cụ thể:
Tư doanh 1 : Ngô Thì Nhậm
Tư doanh 2 : Nguyễn Du
Tư doanh 3 : Huế
Tư doanh 4 : Đồng Tâm + Giáp Bát
Tư doanh 5 : Đồng Nhân + Đông Mác
Tư doanh 6 : Bùi Thị Xuân
Tư doanh 7 : Tân Mai + Tương Mai
Tư doanh 8 : Vĩnh tuy + Mai Động
Tư doanh 9 : Trương Định
Tư doanh 10 : Minh Khai + Hoàng Văn Thụ
Tư doanh 11 : Bách Khoa + Cầu Dền
Tư doanh 12 : Chợ Hôm - Đức Viên
Tư doanh 13 : Chợ Mơ + Chợ Trương Định
Tư doanh 14 : Phạm Đình Hổ
Tư doanh 15 : Thanh Lương + Bạch Đằng
Tư doanh 16 : Quỳnh Mai + Thanh Nhàn
Tư doanh 17 : Lê Đại Hành
Tư doanh 18 : Bạch Mai + Quỳnh Lôi
Tư doanh 19 : Chợ Hoà Bình
Công tác tổ chức và cán bộ có ý nghĩa quyết định đến kết quả triển khai nhiệm
vụ của Chi cục. Vì vậy, trong những năm qua, Chi cục Thuế Hai Bà Trưng luôn thực

hiện nghiêm túc thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn về cơ cấu bộ máy Chi cục Thuế.
Và đội ngũ cán bộ cũng ngày càng được củng cố và kiện toàn cho phù hợp hơn với
nhiệm vụ thu thuế của Chi cục trong từng thời kỳ.
2.3. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ
THỜI GIAN QUA.
Các hộ kinh doanh cá thể là đối tượng quản lý chủ yếu cả về mặt số lượng lẫn giá
trị tiền thuế ở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng. Để đánh giá một cách toàn diện tình hình
quản lý thu thuế hộ kinh doanh trên địa bàn quận, ta đi sâu tìm hiểu các nội dung sau:
• Tình hình quản lý đối tượng nộp thuế.
• Tình hình quản lý doanh thu.
• Tình hình đôn đốc thu nộp thuế.
• Tình hình triển khai kế toán hộ kinh doanh.
2.3.1. Tình hình quản lý đối tượng nộp thuế (ĐTNT).
Mục tiêu của công tác quản lý ĐTNT là phấn đấu đưa 100% đối tượng có thực tế
kinh doanh bao gồm cả kinh doanh cố định, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ
vào diện quản lý thu thuế và chấm dứt tình trạng thất thu về ĐTNT. Mục tiêu này tưởng
chừng như đơn giản thông qua việc cấp mã số thuế, nhưng thực tế có những vướng mắc
nhất định.
Tình hình quản lý đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận được thể hiện
trên biểu số liệu sau:
Biểu 1: Tình hình quản lý đối với hộ kinh doanh cá thể.
Năm
Số hộ
điều tra
thống kê
Số hộ có
mã số
thuế
Số hộ quản lý
Số hộ mới đưa vào quản


Số hộ thu
thuế môn
bài
Số hộ ghi thu
GTGT + TNDN
hàng tháng
Hộ Thuế
2000 13.532 11.779 10.836 7.941 1.671 300.085.000
2001 13.668 11.956 10.950 7.983 1.430 198.000.000
2002 13.606 11.970 11.054 8.120 1.067 636.565.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2001-2002)
Những số liệu trong biểu trên cho thấy: Trong những năm qua Chi cục đã có
nhiều cố gắng trong quản lý số hộ kinh doanh, thể hiện:
- Thông qua công tác cấp mã số thuế cho các hộ kinh doanh, hàng năm Chi cục
đã đưa thêm được nhiều hộ vào quản lý thu thuế:
+ Năm 2000, Chi cục đưa thêm 1671 hộ, số thuế 300.085.000 đồng.
+ Năm 2001, Chi cục đưa thêm 1430 hộ, số thuế 198.000.000 đồng.
+ Năm 2002, có 1067 hộ được đưa thêm với số thuế 636.565.000 đồng.
Do đó số hộ có sản xuất kinh doanh được đưa vào diện quản lý thu thuế đều đã
tăng qua các năm:
+ Năm 2001 tăng 177 hộ so với năm 2000.
+ Năm 2002 tăng 14 hộ so với năm 2001 và tăng 191 hộ so với năm 2000.
- Số hộ kinh doanh đã quản lý thu thuế (thuế môn bài, thuế GTGT + TNDN)
cũng đều năm sau tăng hơn năm trước:
+ Số hộ thu thuế môn bài năm 2001 đã tăng 144 hộ so với năm 2000 và năm
2002 tăng 104 hộ so với năm 2001.
+ Số hộ ghi thu thuế GTGT + TNDN năm 2001 tăng hơn năm 2000 là 42 hộ,
sang năm 2002 lại có 137 hộ tăng hơn năm 2001.
- Bên cạnh các nguồn thu có tính chất thường xuyên, cố định trên địa bàn, Chi

cục cũng chú trọng đến công tác khai thác các nguồn thu khác như: thu cho thuê nhà,
thuê cửa hàng, thu xây dựng, trông giữ xe đạp, xe máy … Trong năm 2002, Chi cục đã
thu của 2.136 lượt hộ có nhà cho thuê để ở với số thuế 11.803.728.000 đồng; 2412 lượt
hộ kinh doanh vãng lai, vỉa hè với số thuế 102.168.000 đồng; 24 hộ xây dựng nhà với
số thuế 10.932.000 đồng …
Mặc dù vậy, công tác quản lý số hộ kinh doanh trên địa bàn quận vẫn còn thất
thu lớn. Nhìn vào số liệu trong biểu 1 ta thấy:
- Số hộ quản lý thu thuế môn bài chỉ bằng 80% - 81% số hộ thực tế kinh doanh,
so với số hộ được cấp mã số thuế cũng còn chênh lệch lớn:
+ Năm 2000 chênh lệch là 943 hộ.
+ Năm 2001 chênh lệch tới 1006 hộ.
+ Năm 2002 có chênh lệch là 916 hộ.
- Số hộ quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN hàng tháng của Chi cục cũng chỉ
đạt 72% - 73% so với hộ quản lý môn bài.
- Trong khi đó, số hộ có thực tế kinh doanh nhưng chưa được cấp mã số thuế lại
tương đối cao:
+ Năm 2000, số hộ chưa được cấp mã số thuế là 1753 hộ.
+ Năm 2001, còn 1712 hộ chưa được đưa vào diện quản lý thu thuế.
+ Năm 2002, số này là 1636 hộ.
⇒ Như vậy, số hộ kinh doanh thuộc diện phải lập bộ quản lý thu thuế nhưng
chưa được lập bộ quản lý thu chiếm 13% - 14% tổng số hộ đã được lập bộ. Việc bỏ sót
hộ này chủ yếu do một số nguyên nhân sau:
• Hàng năm, khi xây dựng dự toán thu, Chi cục thường lập dự toán nhỏ hơn
nguồn thu nên đã để lại một số hộ dự phòng. Những hộ này thường được giấu trong bộ
phụ. Nó như một kênh điều tiết cho tiến độ hoàn thành kế hoạch. Nếu kế hoạch thu thực
hiện yếu, thì những hộ này sẽ được thu ráo riết như một nguồn bổ sung để hoàn thành
kế hoạch. Nếu kế hoạch thu thực hiện tốt thì số thuế của những hộ này có thể được
ghim lại ở người nộp thuế dưới dạng nợ thuế (thường thì không xử phạt). Bộ phụ dùng
để theo dõi các hộ mới ra kinh doanh, hoạt động kinh doanh chưa ổn định, hoặc những
hộ kinh doanh thời vụ như kinh doanh tết, trung thu … Về nguyên tắc, những hộ đã ra

kinh doanh được 3 tháng thì phải đưa vào bộ chính không được theo dõi trên bộ phụ
nữa. Những hộ kinh doanh bán thời gian thường xuyên như ăn sáng, ăn khuya, cơm
trưa … đều phải theo dõi trên bộ chính. Do việc theo dõi kiểm soát bộ phụ có nhiều
lỏng lẻo nên số hộ trên bộ phụ chậm được đưa vào bộ chính.
• Cạnh đó có những hộ kinh doanh nhỏ có thu nhập thấp, theo nguyên tắc chỉ
nộp thuế môn bài và thông qua việc xem xét của hội đồng tư vấn được cấp giấy miễn
thuế có thời hạn, song một phần những hộ này không được làm thủ tục miễn thuế theo
quy định mà được bàn giao về cho phường để thu thuế không xuất biên lai. Một số cán
bộ quản lý địa bàn cũng ăn theo tách ra một số hộ coi như thuộc diện phường quản lý
nhưng tự thu bỏ túi hoặc để lập quỹ trái phép. Một số cán bộ tài chính phường cũng lạm
dụng bỏ ngoài ngân sách phường dùng cho cá nhân. Chi cục Thuế hoàn toàn không nắm
được nguồn thu này, hoặc có biết nhưng coi đây là khoản hữu hảo cho việc xây dựng
ngân sách phường và cũng là điều kiện vật chất để chính quyền phường hỗ trợ cho công
tác thu thuế trên địa bàn.
• Ngoài ra có một nguyên nhân khách quan là: số lượng hộ kinh doanh rất lớn,
quy mô kinh doanh đa số là nhỏ và trải rộng trên khắp địa bàn quận, trình độ văn hoá, ý
thức chấp hành pháp luật của các hộ kinh doanh còn yếu so với khu vực kinh tế Nhà
nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nên đã có một số lượng lớn các hộ ra
kinh doanh nhưng không hề đăng ký thuế cũng như kê khai thuế.
⇒ Tình trạng bỏ sót hộ kinh doanh không chỉ gây thất thu cho Ngân sách Nhà
nước mà còn gây khó khăn trong việc quản lý mã số thuế của Nhà nước, tạo sự phiền
hà, tuỳ tiện trong hành xử của cán bộ thuế và các đối tượng nộp thuế.
Trong công tác quản lý ĐTNT, quản lý hộ cá thể nghỉ kinh doanh cũng được Chi
cục đặc biệt chú trọng. Theo quy định hiện hành thì hộ kinh doanh nghỉ từ 15 ngày trở
lên được xét giảm 50% thuế phải nộp của tháng, nếu nghỉ cả tháng thì được miễn nộp
thuế của tháng đó. Nhìn chung, đây là một chủ trương phù hợp, tạo điều kiện giải quyết
một phần khó khăn cho các hộ kinh doanh trong trường hợp vì lý do bất khả kháng phải
nghỉ kinh doanh. Tuy nhiên, nếu công tác này không được làm tốt thì việc xét miễn,
giảm này lại là một kẽ hở để các hộ kinh doanh lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu cho
ngân sách Nhà nước. Thực tế ở Chi cục cho thấy thời gian qua các hộ nghỉ kinh doanh

vì các lý do như: nghỉ để chuyển hướng kinh doanh khác; nghỉ để sát nhập hoặc chia
tách, nghỉ để di chuyển địa điểm khác; nghỉ do điều kiện kinh doanh gặp khó khăn và
nghỉ vì những lý do khác. Thời điểm có nhiều hộ nghỉ nhất là dịp sau Tết nguyên đán
do tình hình kinh doanh chững lại hay các hộ đi lễ hội dài ngày. Trung bình một tháng ở
Chi cục có 411 hộ nghỉ kinh doanh chiếm 3,72% số hộ quản lý. Số hộ xin nghỉ này đã
ảnh hưởng trực tiếp đến số thuế thu được của Chi cục: trung bình giảm 106.387.000
đồng/tháng tiền thuế. Công tác kiểm tra hộ nghỉ được đội thanh tra phối hợp với các đội
thuế phường tiến hành thường xuyên. Qua kiểm tra, hàng năm Chi cục đều phát hiện
được những hộ lợi dụng xin nghỉ để kinh doanh trốn lậu thuế. Chi cục cũng đều đã kiên
quyết xử lý truy thu và phạt đối với các hộ vi phạm này.
Bảng 2: Kết quả kiểm tra hộ nghỉ kinh doanh
Năm
Số lượt hộ nghỉ kinh
doanh được kiểm tra
Số hộ vi phạm
Số tiền truy thu +
phạt
2001 1.425 49 15.852.000
2002 2.814 25 59.085.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2001-2002)
⇒ Như vậy, số hộ "nghỉ giả" bằng 1,73% số hộ kiểm tra, tuy không đáng kể
nhưng lại gây ra thất thu thuế, không đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các hộ
kinh doanh, không thực hiện được yêu cầu công bằng trong chính sách động viên,
làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Về việc miễn thuế TNDN và không thu thuế GTGT cho các hộ thuộc diện có thu
nhập thấp (dưới 210.000 đồng/tháng): Chi cục đã ra quyết định cho 2.489 hộ - bằng
21% so với hộ quản lý. Đây là một tỷ lệ lớn đòi hỏi Chi cục phải thường xuyên rà soát
lại doanh thu để chuyển bớt các hộ có quy mô đã thay đổi sang diện phải quản lý thu
thuế, chống thất thu Ngân sách Nhà nước.
2.3.2. Tình hình quản lý doanh thu:

Trong công tác quản lý thu thuế, để nâng cao chất lượng thu ngân sách, cơ quan
thuế không chỉ tập trung quản lý tốt ĐTNT mà còn cần quản lý tốt doanh thu kinh
doanh của các hộ cá thể, bảo đảm thu sát với doanh thu thực tế kinh doanh. Doanh thu
của các hộ kinh doanh là cơ sở để xác định số thuế phải nộp. Việc quản lý chặt chẽ
doanh thu của hộ kinh doanh, đặc biệt hộ kinh doanh lớn có ý nghĩa quyết định đến việc
hoàn thành dự toán thu, đảm bảo công bằng bình đẳng về thuế. Tuỳ theo phương pháp
nộp thuế của các hộ cá thể, cơ quan thuế sẽ có biện pháp quản lý doanh thu khác nhau.
Hiện nay, ở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng, các hộ kinh doanh nộp thuế theo 2 phương
pháp là: khoán ổn định và kê khai. Cụ thể:
Biểu 3: Quản lý hộ kinh doanh theo phương pháp nộp thuế
Phương pháp nộp thuế Số hộ quản lý Tỷ trọng
1. Khoán ổn định: 6119 75,36%
Trong đó: - Bộ chính: 5918
- Bộ phụ: 201
2. Kê khai: 2001 24,64%
Trong đó: - Khấu trừ 53
- Kê khai doanh thu 1706
- Kê khai chênh lệch 242
Tổng cộng: 8120 100%
⇒ Như vậy, số đối tượng nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định là rất lớn
chiếm 75,36% số hộ kinh doanh, nhiều gấp 3 lần số hộ nộp thuế theo phương pháp kê
khai. Đối với các hộ nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định số thuế phải nộp dựa
theo doanh số ấn định của Chi cục (thực chất là khoán doanh thu). Còn đối với hộ kinh
doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai, cơ sở tính thuế dựa trên doanh thu thực tế
theo hoá đơn, chứng từ.
2.3.2.1. Quản lý doanh thu của hộ khoán ổn định:
Việc quản lý doanh thu của các hộ nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định rất
phức tạp, để có được một mức doanh thu ấn định phải thực hiện qua nhiều bước, nhiều bộ
phận cùng tham gia xem xét. Phương pháp này có ưu điểm: đơn giản trong việc tính thuế,
tạo được sự ổn định cho cả đối tượng nộp thuế và Chi cục. Song nhược điểm của phương

pháp này lại không nhỏ: mang tính áp đặt, thiếu sự công bằng về nghĩa vụ thuế, đặc biệt
khoán doanh thu khó có thể theo sát được tình hình biến động về giá cả, về tình hình sản
xuất kinh doanh của các đối tượng nộp thuế nên khó có thể thu thuế cho phù hợp với biến
động của tình hình kinh doanh.
Biểu 4: Tình hình quản lý doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán
Bình quân Bình quân tháng Bình quân tháng
Chỉ tiêu
tháng năm 2000 năm 2001 năm 2002
Số hộ ghi thu 6.377 6.116 6.119
Doanh thu 27.012.872.000 22.751.520.000 20.794.012.000
Thuế 955.247.600 795.080.000 731.784.000
Doanh thu bình quân 1 hộ 4.236.000 3.720.000 3.398.270
Thuế bình quân 1 hộ 149.800 130.000 119.592
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000- 2001-2002)
Hàng năm, Chi cục đã ra quyết định công bố ổn định thuế cho một số lượng lớn
hộ kinh doanh, nhưng doanh thu và mức thuế của các hộ này chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng doanh thu và tổng số thuế của hộ kinh doanh cá thuế. Doanh thu hộ
khoán bằng 19,06% doanh thu hộ cá thể và thuế thu được của hộ khoán bằng 19,23%
thuế thu được của hộ cá thể. Lý do vì đối tượng nằm trong nhóm khoán doanh thu chủ
yếu là những hộ kinh doanh quy mô nhỏ, doanh thu thấp.
Công tác rà soát điều chỉnh lại doanh thu, mức thuế trước khi công bố ổn định
thuế được Chi cục tiến hành hàng năm.
Biểu 5: Kết quả điều chỉnh thuế
Năm
Số lượt
hộ điều
chỉnh
Doanh thu mới Thuế mới Doanh thu cũ Thuế cũ Doanh thu
tăng
Thuế tăng

2000 2.609 4.534.426.000 1.064.759.000 4.125.745.000 1.015.870.000 408.681.000 48.889.000
2001 1.237 1.612.278.000 367.046.000 1.293.597.000 332.906.000 318.681.000 34.140.000
2002 1.044 1.585.092.000 342.756.000 1.267.620.000 310.764.000 317.472.000 31.992.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2001-2002)
Tuy vậy, công tác này ở Chi cục vẫn chưa được quan tâm đúng mức: số lượt hộ
tiến hành điều chỉnh còn quá thấp so với số hộ công bố ổn định thuế, còn nhiều hộ từ 2-
3 năm nay vẫn chưa xem xét lại mức doanh thu và mức thuế nên nhìn chung mức doanh
thu khoán hiện nay thấp hơn doanh thu thực tế kinh doanh.
Biểu 6: Kết quả điều tra doanh thu một số hộ khoán
Ngành nghề Số hộ
điều tra
Doanh thu
khoán
Doanh thu
điều tra
Chênh lệch % khoán /
điều tra
Sản xuất 50 442.750.000 527.083.000 84.333.000 84%
Dịch vụ 50 183.100.000 244.133.000 61.033.000 75%
Ăn uống 80 322.400.000 1.007.500.000 685.100.000 32%
Thương mại 120 672.000.000 840.000.000 168.000.000 80%
Tổng 300 1.620.250.000 2.618.716 998.466.000 61,87%
(Nguồn: Báo cáo điều tra doanh thu hộ khoán)
Kết quả điều tra điển hình 300 hộ kinh doanh ở các ngành nghề khác nhau cho
thấy chênh lệch giữa doanh thu khoán và doanh thu điều tra là tương đối lớn
998.466.000 đ/300 hộ, doanh thu khoán chỉ đạt 61,87% doanh số điều tra, cá biệt ở
ngành ăn uống tỷ lệ này chỉ là 32% (chưa kể đến doanh thu thực tế kinh doanh của các
hộ có thể lớn hơn doanh thu điều tra). Như vậy, tình trạng thất thu doanh thu khoán trên
địa bàn quận vẫn còn nhiều và phổ biến ở tất cả các ngành nghề.
Tình hình trên đã dẫn đến số thuế ghi thu loại hộ thu khoán bình quân tháng /

2002 đã giảm so với bình quân tháng năm 2001 và giảm nhiều so với bình tháng / 2000
(như biểu 4).
2.3.2.2. Quản lý doanh thu của hộ kê khai:
Các hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai sẽ được nộp thuế tuỳ
thuộc thực tế kết quả kinh doanh, không phải ấn định doanh thu tính thuế. Với loại hộ
này, đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ phải kê khai và xác định đúng số thuế phải nộp và
chịu trách nhiệm về số liệu đã kê khai theo quy định của pháp luật. Cơ quan thuế chỉ
phải kiểm tra, giám sát quá trình ghi chép sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn, chứng từ
dùng làm căn cứ tính thuế của các hộ kinh doanh.
Bài 7: Tình hình quản lý doanh thu, mức thuế hộ kê khai
Chỉ tiêu
Bình quân tháng /
2000
Bình quân tháng /
2001
Bình quân tháng /
2002
Số hộ ghi thu 1.564 1.867 2.001
Doanh thu 61.291.596.000 54.643.356.000 89.197.397.000
Thuế 2.518.040.000 1.997.690.000 2.112.841.000
Doanh thu bình quân 1 hộ 39.189.000 29.268.000 44.576.410
Thuế bình quân 1 hộ 1.610.000 1.070.000 1.055.893
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000-2001-2002)
Các hộ kê khai tuy chiếm tỷ trọng nhỏ về hộ kinh doanh (từ 20%-25%) nhưng
doanh thu chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu hộ kinh doanh cá thể (70%-75%). Do đó
số thuế thu được từ các hộ kê khai cũng chiếm tỷ trọng lớn (trên 55%) số thuế thu ở khu
vực cá thể.
Nhìn chung các hộ thu theo kê khai chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sổ sách kế
toán:
- Một số hộ lợi dụng quy trình tự khai, tự tính thuế để kê khai mức doanh thu

thấp nhằm trốn thuế, có hộ kinh doanh trước đây thu khoán với doanh thu 100-150 triệu
đồng, thuế từ 12-15 triệu đồng / tháng, nay thu theo phương pháp kê khai chỉ còn 1,5
triệu đồng / tháng, điển hình:
+ Hộ Lê Quốc Thắng kinh doanh gas ở phường Bạch Đằng, doanh thu kê khai
với cơ quan thuế 100 triệu đồng, doanh thu cơ quan Công an điều tra trên 2
tỷ đồng.
+ Hộ Nguyễn Thị Khiển kinh doanh đại lý bán chè ở Minh Khai, doanh thu
kê khai 1,1 triệu đồng, doanh thu điều tra 100 triệu đồng.
+ Hộ Bùi Linh Thơm bán vải ở Phùng Khắc Khoan, doanh thu kê khai 800.000
đồng, doanh thu điều tra 20 triệu đồng.
- Một số hộ có hành vi trốn thuế qua việc bán hàng không xuất hoá đơn; hoặc có
ghi hoá đơn nhưng ghi thấp hơn so với giá bán thực tế; hoặc mua hoá đơn để lập giao
cho khách hàng, hay mua hoá đơn để lập khống hợp thức hoá các khoản chi; hoặc có
tình trạng hộ kinh doanh đã tự huỷ toàn bộ hoá đơn đã sử dụng để đối phó với Chi cục
kiểm tra quyết toán thuế (như hộ 32 Nguyễn Công Trứ báo mất 32 quyển hoá đơn, hộ
119 Phố Huế báo mất 50 quyển hoá đơn) …
Thêm nữa, công tác kiểm tra giám sát việc ghi chép sổ sách kế toán, hoá đơn
chứng từ đối với hộ kinh doanh của Chi cục chưa đạt yêu cầu số lượng hộ ra quyết định
xử lý là quá ít so với thực tế: năm 2001 có 52 hộ bị xử lý và năm 2002 là 48 hộ.
Do vậy, vẫn còn thất thu thuế đối với hộ kê khai, mức thuế bình quân một tháng
của một hộ thu theo kê khai bị giảm nhiều: mức thuế bình quân một hộ một tháng năm
2002 là 1.055.893 đồng, năm 2001 là 1.070.000 đồng, năm 2000 là 1.610.000 đồng
(như biểu 7).
2.3.3. Tình hình đôn đốc thu nộp thuế.
Đôn đốc thu nộp thuế là khâu thiết thực đem lại số thu thực tế cho Ngân sách
Nhà nước. Vì vậy, Chi cục cũng coi đây là trọng tâm quản lý. hàng tháng, Chi cục chỉ
đạo các đội thuế phường, chợ có trách nhiệm đôn đốc hộ kinh doanh nộp tiền thuế đúng
thời hạn, đảm bảo thu róc số thuế phát sinh, tối thiểu phải đạt 90% số cơ sở nộp đúng
ngày ghi theo thông báo, số còn lại chậm nhất đến ngày 25 của tháng sau phải thu hết.
Toàn quận hiện nay có 2.130 hộ nộp thuế trực tiếp tại Kho bạc (chiếm 18,52%

số hộ quản lý), số còn lại (81,48%) cán bộ thuế trực tiếp thu tiền và viết biên lai thuế.
Với một số lượng lớn hộ nộp tiền thuế thông qua cán bộ thuế đó không chỉ ảnh hưởng
đến quỹ thời gian để cán bộ thuế đi sâu quản lý mà còn dễ phát sinh tiêu cực như cán bộ
thuế xâm tiêu tiền thuế …
Trên địa bàn quận có 4 điểm thu của cơ quan Kho bạc là:
• Trụ sở Chi cục Thuế Hai Bà Trưng.
• Chợ Mơ.
• Chợ Hoà Bình.
• Số 44 phố Trần Nhân Tông.
Biểu 8: Kết quả thu nộp thuế hộ kinh doanh cá thể
Năm
Số thuế ghi thu Số thuế thực nộp Tỷ lệ nộp Số thuế nợ
đọng
Tỷ lệ
nộp
2001 52.316.810.000 51.418.810.000 98,28% 898.000.000 1,72%
2002 52.686.907.000 52.107.351.000 98,9% 579.556.000 1,1%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2001-2002)
Số liệu trong biểu 8 cho thấy kết quả rất đáng ghi nhận của Chi cục trong việc
đôn đốc thu nộp thuế: Số hộ kinh doanh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách rất
cao (trên 98%) dẫn đến số thuế thực thu được đạt cao. So với 12 Chi cục Thuế quận
huyện của Thành phố Hà Nội, số thu về hộ của Chi cục cao thứ 2, chỉ đứng sau quận
Hoàn Kiếm. Chi cục luôn cố gắng hạ thấp tỷ lệ nợ đọng xuống mức có thể; nếu như
năm 2001 tỷ lệ nợ đọng là 1,72% thì sang năm 2002 tỷ lệ này chỉ còn 1,1% - số thuế nợ
đọng giảm từ 898.000.000 đồng xuống 579.556.000 đồng.
Tuy nhiên, số thuế nợ đọng phát sinh hàng năm còn lớn, đòi hỏi chi cục cần phải
tiếp tục tập trung đôn đốc.
Biểu 9: Báo cáo nợ đọng khu vực cá thể tính đến 31/12/2002
Tổng số thuế nợ luỹ kế
Nợ năm trước chuyển sang

Nợ năm 2002
Lượt hộ Thuế Lượt hộ Thuế Lượt hộ Thuế

×