Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.2 KB, 15 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm về vốn
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp
nào muốn tồn tại và phát triển được đều cần phải có nguồn tài chính đủ mạnh,
đây là một trong ba yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp có thể duy trì hoạt
động của mình. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn phải biết vận
động không ngừng phát triển đồng vốn đó.
Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào lưu thông nhằm mục
đích kiếm lời. Nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công
cho người lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch
vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn ban đầu. Do đó vốn mang lại
giá trị thặng dư cho doanh nghiệp.
Nếu gạt bỏ nguồn gốc bóc lột của Tư bản chủ nghĩa trong công thức T – H
– SX - - H

– T

của C.Mác thì có thể xem đây là một công thức kinh doanh, chủ
thể kinh doanh dùng vốn của mình dưới hình thức tiền tệ mua những TLSX để
tiến hành quá trình sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá theo nhu cầu của thị trường
rồi đem những thành phẩm hàng hoá này bán cho khách hàng trên thị trường để
thu được một lượng tiền tệ lớn hơn số ban đầu bỏ ra.
Theo quan điểm của Mác, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là
một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này mang một tầm khái quát
lớn, nhưng do bị hạn chế bởi điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Mác đã quan
niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh
tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nhà khoa học đại diện cho các
trường phái khác nhau đã có bổ sung thêm các yếu tố mới cũng được coi là vốn.


Theo Paul.A.Samuelson- nhà kinh tế học của trường phái “Tân cổ điển” đã
thừa kế các quan niệm của trường phái “cổ điển” về yếu tố sản xuất để phân
chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành ba bộ phận là: đất đai – lao
động – vốn. Theo ông vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá
trình sản xuất mới.
Sau này David Begg có bổ sung thêm về định nghĩa của vốn, theo ông: vốn
bao gồm có vốn hiện vật (tiền, các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp). Nhìn
chung cả Samuelson và Begg đều có chung một thống nhất cơ bản về vốn là các
yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy, quan điểm này cho thấy vốn vẫn bị đồng nhất với Tài sản của
doanh nghiệp. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ Tài sản của
doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất nhằm mục đích sinh lời.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ
những giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh
nghiệp. Khái niệm này không những chỉ ra vai trò là một yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất mà còn đề cập tới sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong
một quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục, suốt thời gian tồn tại của doanh
nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu tiên cho tới chu kỳ sản xuất cuối
cùng.
Như vậy, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nào
cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trường vốn là
điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị
công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc
làm và thu nhập cho người lao động.
Ta cũng cần phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì thường phải có
tiền, nhưng có tiền thì chưa hẳn được gọi là vốn. Tiền muốn được coi là vốn
phải thoả mãn những điều kiện sau:
- Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định tức phải được đảm
bảo bằng một lượng hàng hoá có thực.

- Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Sự tích tụ và
tập trung của tiền phải đạt một mức độ tối thiểu nào đó thì mới đủ sức để đầu tư
cho một dự án kinh doanh nào đó dù là nhỏ nhất. Nếu tiền nằm rải rác khắp nơi,
không được gom thành khoản thì cũng không làm được việc gì.
- Khi đã đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lợi.
Cách vận động và phương thức vận động của tiền tuỳ thuộc vào phương thức
đầu tư kinh doanh.
1.1.2. Cơ cấu của vốn
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ… hay
hoạt động bất cứ ngành nghề gì khác các doanh nghiệp cần phải có một lượng
vốn nhất định. Số vốn kinh doanh đó được biểu hiện dưới dạng tài sản. trong
hoạt động tài chính của doanh nghiệp, quản lý vốn kinh doanh và sử dụng vốn
kinh doanh có hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất có tính chất quyết định đến
mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Do vậy để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh ta cần phải nắm rõ về vốn, đặc điểm của nó ra sao.
1.1.2.1. Vốn cố định
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định được
gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là Tài sản cố định. Vì vậy khi
nghiên cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở tìm hiểu về tài sản cố
định. Tư liệu sản xuất được chia thành hai bộ phận là đối tượng lao động và tư
liệu lao động.
Điểm nổi bật của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó mặc dù tư liệu
lao động bị hao mòn nhưng chúng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu.
Chỉ khi nào chúng bị hư hỏng hoàn toàn hoặc không còn lợi ích kinh tế thì khi
đó chúng mới bị thay thế. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư
liệu lao động có giá trị lớn tham gia một cách trực tiếp vào quá trình sản xuất
của doanh nghiệp qua nhiều chu kỳ sản xuất. Một tư liệu lao động để thoả mãn
là tài sản cố định phải có đồng thời hai tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ một năm trở lên

- Phải đạt một mức tối thiểu nhất định nào đó về giá trị (tiêu chuẩn này thường
xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kỳ). Hiện nay ở nước ta quy
định là > 5 triệu đồng.
Nếu phân loại theo hình thái vật chất thì tài sản cố định có hai loại: tài sản
cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình
+ Tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái biểu hiện vật chất
cụ thể như: Nhà xưởng, máy móc, thiết bị, đất đai, vật tư…
+ Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ
thể như: bằng phát minh sáng chế, bí quyết, bản quyền, chi phí sáng lập doanh
nghiệp, lợi thế thương mại… Trong nền kinh tế thị trường để nâng cao khả năng
cạnh tranh thì việc đầu tư tài sản cố định vô hình là rất quan trọng. Những chi
phí đó cũng được quan niệm như giá trị ccủa một số tài sản cố định và phải
được thu hồi dần để mua sắm tài sản cố định mới.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của tài sản cố
định có những đặc điểm sau:
- Về mặt hiện vật: tài sản cố định tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất kinh
doanh và nó bị hao mòn dần, bao gồm cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình. Nói cách khác, giá trị sử dụng sẽ giảm dần cho đến khi tài sản cố định bị
loại ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh.
- Về mặt giá trị: giá trị của tài sản cố định được chuyển dịch dần từng phần vào
giá trị sản phẩm mà nó tạo ra trong quá trình sản xuất.
Đặc điểm về mặt hiện vật và giá trị của tài sản cố định đã quyết định đến
đặc điểm chu chuyển của vốn cố định. Song quy mô của vốn cố định lại được
quyết định bằng quy mô tài sản cố định. Qua mối liên hệ đó ta có thể khái quát
những nét đặc thù về sự vân động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh
như sau:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm này là do tài sản
cố định có thể phát huy trong nhiều kỳ sản xuất, vì vậy hình thái biểu hiện bằng
tiền của nó cũng được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất tương ứng.
- Vốn cố định luân chuyển dần dần, từng phần khi tham gia vào quá trình sản

xuất, giá trị của tài sản giảm dần. Theo đó vốn cố định cũng tách thành 2 phần:
Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí
khấu hao) tương ứng với giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Phần còn
lại của vốn cố định được cố định trong các chu kỳ sản xuất kế tiếp, nếu như
phần vốn luân chuyển dần dần được tăng lên thì phần vốn cố định giảm tương
ứng với mức suy giảm dần về giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc sự
biến thiên nghịch chiều đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và
vốn cố định cũng hoàn thành một vòng luân chuyển.
1.1.2.2. Vốn lưu động
Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh tài sản cố định, doanh
nghiệp luôn có một tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của quá trình tái
sản xuất: Dự trữ thiết bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản
phẩm. đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động chủ yếu
nằm trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp là các đối tượng lao động. Đối
tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái
vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ tham gia quá trình
sản xuất tạo nên thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong
quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do
đó toàn bộ giá trị của chúng được dịch chuyển một lần vào giá trị sản phẩm và
được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá.
Bên cạnh một số tài sản lưu động nằm trong quá trình lưu thông, thanh
toán, sản xuất… thì doanh nghiệp còn có một số tư liệu khác như vật tư phục vụ
quá trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu…
Từ đó, ta có thể rút ra, vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước
về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho
quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện một cách thường xuyên
liên tục.
Như vậy, dưới góc độ tài sản thì vốn lưu động được sử dụng để chỉ các tài
sản lưu động. Vốn lưu động chịu sự chi phối bởi tính luân chuyển của tài sản
lưu động, vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái vật chất khác

nhau và chuyển hoá phần lớn vào giá trị sản phẩm, phần còn lại chuyển hoá
trong lưu thông. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một
cách thường xuyên liên tục nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng và
mang tính chu kỳ. Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ
sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái
sản xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì yêu cầu đặt ra đối với
doanh nghiệp là phải có đủ vốn lưu động để đầu tư vào các tư liệu lao động
khác nhau, đảm bảo cho tư liệu lao động tồn tại một cách hợp lý, đồng bộ với
nhau trong một cơ cấu. Do đặc điểm của vốn lưu động là trong quá trình sản
xuất kinh doanh luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, sự vận động
tuần hoàn liên tục đã quyết định sự vận động của vốn lưu động.
+ Khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối
tượng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. ở giai đoạn này vốn đã thay đổi hình
thái, từ vốn tiền tệ sang vốn vật tư (T- H)
+ Tiếp theo là giai đoạn sản xuất, các vật tư được chế tạo thành bán thành
phẩm, thành phẩm. ở giai đoạn này vốn vật tư chuyển hóa thành thành phẩm
(H- SX- - H

)
+ Kết thúc vòng tuần hoàn, sau khi sản phẩm được tiêu thụ vốn lưu động
lại được chuyển hoá sang hình thái vón tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu (H

-
T

); (T

> T).
Trong thực tế, sự vận động của vốn lưu động không diễn ra một cách tuần

tự như mô hình lý thuyết trên mà các giai đoạn vận động của vốn được đan xen
vào nhau, các chu kỳ sản xuất được tiếp tục lặp lại, vốn lưu động được tiếp tục
tuần hoàn và chu chuyển.
Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất qaun
trọng. Muốn quản lý tốt vốn lưu động các doanh nghiệp phải phân biệt được các
bộ cấu thành của vốn lưu động để trên cơ sở đó đề ra được các biện pháp quản
lý với từng loại. Trên thực tế vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm những bộ
phận sau:
+ Tiền mặt và chứng khoán có thể bán được: tiền trong quỹ của doanh
nghiệp, các khoản tiền gửi không có lãi, chứng khoán bán được thường là các
thương phiếu…
+ Các khoản phải thu: trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là
không thể tránh khỏi, và đây cũng là một chiến lược trong cạnh tranh của doanh
nghiệp. Các hoá đơn chưa được trả tiền thể hiện qua tín dụng thwong mại và
hình thành nên các khoản phải thu. Tín dụng thương mại có thể tạo nên uy tín,
vị thế của doanh nghiệp trên thị trường đồng thời cũng có thể dẫn tới rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Khoản dự trữ: việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là bước đệm
cần thiết cho quá trình hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp. Sự tồn tại
này trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn khách
quan.
Từ những đặc điểm trên ta có thể phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa
vốn lưu động và vốn cố định:
Tên vốn Chức năng Tính chất tham gia Hình thức chuyển

×