THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP VÀ SỬ DỤNG VỐN HỖ TRỢ CHO
NGƯỜI NGHÈO Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN VỪA QUA - KINH
NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI CHO NGƯỜI NGHÈO
VAY VỐN VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM.
2.1. Thực trạng đói nghèo ở nước ta.
Việt Nam là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người là một
trong các nước thấp nhất thế giới (năm 2000 mới đạt khoảng 380 USD).
Tỷ lệ đói nghèo còn cao, theo chuẩn quốc gia thì tỷ lệ đói nghèo năm
1992 là trên 30%, năm 1998 là 15,7%, năm 1999 là 13% và năm 2000 là
11% như vậy tính bình quân mỗi năm giảm được 250.000 - 300.000.
Theo đánh giá của ngân hàng thế giới thông qua điều tra mức sống dân
cư Việt Nam, tỷ lệ đói nghèo năm 1993 là trên 58%, năm 1998 là 37%
và năm 2000 là khoảng 30%.
Đói nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (khoảng 90%
trong tổng số hộ nghèo đói của cả nước). Một số vùng, khu vực, đặc biệt
vùng đồng bào dân tộc, khu căn cứ cách mạng, biên giới, hải đảo, tỷ lệ
hộ đói nghèo rất cao. ở khu vực thành thị tỷ lệ hộ đói nghèo tuy thấp
hơn, song chủ yếu là số dân mới nhập cư. Miền núi phía Bắc, vùng Bắc
trung bộ và Tây Nguyên là những khu vực luôn có tỷ lệ hộ nghèo đói
cao nhất.
Sự phân cực giàu nghèo có chiều hướng gia tăng. Kết quả điều tra
cho thấy: Mức chênh lệch về thu nhập khi so sánh 20% nhóm hộ có thu
nhập cao nhất với 20% nhóm hộ có thu nhập thấp nhất ở vùng nông thôn
là 7,3 lần (năm 1996) tăng lên 11 lần (năm 2000). Hệ số chênh lệch mức
sống giữa dân cư thành thị và nông thôn khoảng 5 -7 lần, mức thu nhập
bình quân đầu người ở nông thôn so với thành thị hiện nay chỉ bằng
khoảng 50%.
Một số chỉ tiêu về cải thiện đời sống đạt được còn thấp so với mục
tiêu đề ra, đặc biệt là chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Năm
2000, số trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn 33%, phần lớn là thuộc các gia
đình nghèo, tỷ lệ phát triển dân số ở nhóm người nghèo cao (trên mức
trung bình 1,5% của cả nước), tỷ lệ người biết chữ ở vùng cao, vùng sâu,
vùng xa mới đạt khoảng 50%, ở nông thôn chỉ khoảng 42% số hộ gia
đình được dùng nước sạch và 20% có hố xí hợp vệ sinh.
Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai, bão lụt, hạn
hán, mất mùa khoảng từ 1 - 1,2 triệu người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền Trung và miền núi phía Bắc. Bình quân hàng năm có khoảng
20.000 - 25.000 hộ tái nghèo đói.
ở một số vùng có những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói rất đặc
thù. Vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là do điều kiện
địa lý phức tạp và khó khăn, cơ sở hạ tầng thiếu và yếu kém, trình độ
học vấn thấp, sinh đẻ nhiều, tập quán canh tác và tập tục lạc hậu, khó
tiếp cận thông tin; vùng đồng bằng sông Hồng do đông dân, thiếu đất;
vùng đồng bằng sông Cửu Long do chuyển nhượng ruộng đất nên
khoảng 10 - 12% tổng số hộ nông dân nghèo mất đất sản xuất; vùng
Duyên Hải miền Trung thường xuyên bị thiên tai, bão lụt.
2.2 Tình hình tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo ở nước ta
trong thời gian vừa qua
2.2.1. Hỗ trợ vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước.
Hiện nay hỗ trợ vốn từ ngân sách Nhà nước cho mục tiêu xoá đói
giảm nghèo bao gồm: Vốn giải quyết việc làm (chương trình 120), vốn
thực hiện chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc (chương trình
327) vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc
biệt khó khăn (chương trình 135), các khoản trợ cấp thiên tai và hỗ trợ
phát triển nông thôn khác... trong đó nòng cốt là vốn giải quyết việc
làm, vốn chương trình 135, vốn chương trình 327.
Nhìn chung một số chương trình, dự án gắn với xoá đói giảm
nghèo thời gian vừa qua được lồng ghép với nhau. Các chương trình và
dự án gồm một số mục tiêu hướng vào việc nâng cao mức sống nói
chung. Song nhìn tổng thể, từng chương trình và dự án có một tác động
nhất định đến việc hỗ trợ cho người nghèo, vùng nghèo ở nước ta
2.2.1.1. Vốn giải quyết việc làm thực hiện qua kho bạc Nhà nước.
Việt Nam là một trong số các nước phát triển dân số nhanh, đầu
thế kỷ mới chỉ có 12 - 13 triệu người, hiện nay là gần 80 triệu người, tỷ
lệ tăng dân số nhanh dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng và bức
bách. Vì vậy giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta đang là
một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách mang tính chất tình thế, vừa cơ
bản lâu dài mang tính chiến lược. Để thực hiện mục tiêu này có nhiều
giải pháp khác nhau, trong đó lập Quỹ quốc gia giải quyết việc làm theo
tinh thần Nghị quyết số 120/HĐBT (nay là Chính phủ) ngày 11/4/1992
là một giải pháp hết sức quan trọng nhằm thực hiện các mục tiêu chủ
yếu sau đây:
- Hỗ trợ vốn dưới hình thức cho vay tài trợ cho các tổ chức, đơn vị
kinh tế, hộ gia đình để phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo
thêm việc làm mới, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực quốc gia, cải thiện đời sống cho người
lao động.
- Hỗ trợ một phần về tài chính dưới hình thức cấp phát cho các
trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
tay nghề, thực hiện các chương trình dạy nghề gắn liền với sản xuất và
các chương trình khác.
- Chương trình quốc gia giải quyết việc làm của nước ta là một bộ
phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với mục tiêu góp phần thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng và giải quyết việc làm, một vấn đề mà mọi nền
kinh tế đều phải quan tâm giải quyết.
Qua 8 năm hoạt động, chương trình đã đạt được những kết quả khả
quan, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội và kích thích tăng
trưởng kinh tế cụ thể trên các mặt sau đây:
Qua bảng số 1 ta thấy từ nguồn vốn được ngân sách Nhà nước cấp
từ năm 1992 đến 31/12/2000 là 1414 tỷ đồng trong đó vốn cân đối trong
kế hoạch ngân sách Nhà nước là 1289 tỷ đồng và vốn viện trợ nhân đạo
của Chính phủ Tiệp Khắc (cũ) là 125 tỷ đồng; hệ thống kho bạc Nhà
nước trực thuộc Bộ tài chính đã thực hiện cho vay hàng nghìn dự án với
doanh số 4261 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 3.506.602 người lao
động, bình quân mỗi năm tạo được việc làm cho khoảng 20-25% tổng số
lao động cần được giải quyết.
Vốn vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm là một biện pháp tài
chính quan trọng để kích thích sản xuất, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế,
tận dụng các điều kiện sẵn có về kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, góp
phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn. Từng
bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng phát triển các
loại cây con có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu, khôi phục và phát
triển các ngành nghề truyền thống, các ngành nghề thu hút nhiều lao
động như sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, may mặc, cơ khí,
sản xuất vật liệu xây dựng...
Thông qua quỹ quốc giải quyết việc làm, người lao động đã tạo
được việc làm có thu nhập, đời sống vật chất tinh thần được nâng cao.
Nhiều người đã chủ động bỏ vốn đầu tư kinh doanh, dám nghĩ dám làm,
vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội.
Đặc biệt là các dự án vay vốn của các tổ chức đoàn thể quần chúng
như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến
binh... có ý nghĩa rất quan trọng, làm phong phú thêm các hoạt động
mang tính chất kinh tế - xã hội. Cũng từ hoạt động của quỹ quốc gia giải
quyết việc làm, các tổ chức này đã lồng ghép vào các chương trình xã
hội khác một cách có hiệu quả như các chương trình "dân số - sức khoẻ -
môi trường", chương trình phòng chống các tệ nạn xã hội, chương trình
phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, phong trào thanh niên lập
nghiệp...
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động những năm qua, quỹ cho vay giải
quyết việc làm đã bộc lộ và nảy sinh một số tồn tại. Các tồn tại và
nguyên nhân dẫn đến là:
Thứ nhất: Việc duyệt dự án cho vay của Ban chỉ đạo địa phương
còn chậm, bên cạnh đó việc thẩm định cấp tín dụng của kho bạc Nhà
nước có lúc chưa kịp thời. Nhiều dự án nhận tiền vay mất cơ hội đầu tư.
Thứ hai: Công tác quản lý vốn vay của các chủ dự án còn buông
lỏng thiếu sự kiểm tra việc sử dụng vốn của từng hộ - một trong những
nguyên nhân gây ra hiệu quả sử dụng vốn còn thấp...
Thứ ba: Qua số liệu biểu số 1 cho biết, tính đến cuối năm 2000,
ngân sách Nhà nước đã sử dụng 4261 tỷ đồng để cấp tín dụng tạo việc là
cho 3.506.602 người. Bình quân suất vốn đầu tư chỉ chiếm xấp xỉ
1.300.000 đồng trên một việc làm mới là rất thấp. Con số này theo tính
toán của các chuyên gia kinh tế là trên 5 triệu đồng cho một việc làm
mới.
Thứ tư: Nợ quá hạn cho vay có xu hướng gia tăng: năm 1999 là
12,9% dư nợ nhưng năm 2000 chiếm 13,8%. Nguyên nhân tình trạng nợ
quá hạn ngày càng gia tăng có thể có nhiều vừa chủ quan, vừa khách
quan. Ngoại trừ yếu tố khách quan như thiên tai, rủi ro... thì không ít
nguyên nhân do chủ quan của phía các chủ thể điều hành, xét duyệt các
dự án. Thủ tục cấp tín dụng qua nhiều khâu, nhiều công đoạn đã tưởng
chừng như chặt chẽ nhưng thực chất là phức tạp, hình thức sơ hở trong
nội dung. Trong khi có nhiều thành viên tham gia quản lý nguồn vốn
nhưng trách nhiệm không xuyên suốt. Qua khảo sát nhiều địa phương
cho thấy việc xét duyệt dự án thường do ngành lao động đảm nhận.
Những kiểm tra vốn vay và thu nợ dành riêng cho khobạc Nhà nước
"ôm" trọn gói. Đã nhiều trường hợp nợ qúa hạn phát sinh, kho bạc phải
"vác cặp đi xin" ý kiến của bạn chỉ đạo và nhờ sự ủng hộ của các thành
viên xét cấp vốn. Một nguyên nhân khác cần được quan tâm và lý giải là
do áp dụng lãi suất (hiện nay là 0,5%/tháng) cho vay ưu đãi dẫn đến
không khuyến khích người vay trả nợ. Thậm chí một số người vay còn
cho rằng thà chịu trả lãi suất nợ quá hạn 0,5%/tháng còn hơn là trả rồi đi
vay ngân hàng chịu lãi suất 0,7 - 0,8%/tháng.
Thứ năm: Địa bàn tiếp cận của chương trình tín dụng tạo việc làm
quá rộng, trong khi đội ngũ nhân sự làm tín dụng của hệ thống kho bạc
lại quá mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Thứ sáu: Nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển cho chương
trình quốc gia giải quyêt việc làm hàng năm có hạn bởi do chưa đủ cân
đối ngân sách Nhà nước. Trong khi đó nhu cầu dự án ngày càng lớn, làm
cho vốn cho vay dàn quá mỏng, không đáp ứng được những dự án có
hiệu quả thu hút nhiều lao động.
2.2.1.2. Vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở
các xã đặc biệt khó khăn (gọi tắt là chương trình 135)
Sau 10 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách, chương trình, dự án và các giải pháp nhằm đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng,
tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc. Bên cạnh những chủ trương,
chính sách chung của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội
vùng đồng bào dân tộc miền núi, ngày 31/07/1998, thủ tướng chính phủ
đã có quyết định 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển
kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu và vùng xa
(gọi tắt là chương trình 135). Đây là một chương trình được cụ thể hoá
từ nội dung Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng thành một chương trình
kinh tế xã hội tổng hợp để vực dậy vùng khó khăn nhất của đất nước ta
với mục tiêu tổng quát là "Nâng cao nhanh đời sống vật chất tinh thần
cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu,
vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát triển
chung của cả nuớc; góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh
quốc phòng". Mục tiêu của chương trình gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn từ 1998 - 2000: về cơ bản không có hộ đói kinh niên,
mỗi năm giảm được 4 - 5% hộ đói nghèo. Bước đầu cung cấp cho đồng
bào nước sinh hoạt, thu hút phần lớn trẻ em trong độ tuổi đến trường,
kiểm soát được một số dịch bệnh hiểm nghèo; có đường giao thông dân
sinh đến các trung tâm cụm xã và phần lớn đồng bào được hưởng thụ
văn hoá thông tin.
Giai đoạn từ 2001-2005: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã đặc biệt
khó khăn xuống còn 25% vào năm 2005. Bảo đảm cung cấp cho đồng
bào đủ nước sinh hoạt, thu hút trên 70% trẻ em trong độ tuổi đến trường;
đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất và
đời sống; kiểm soát phần lớn các dịch bệnh xã hội hiểm nghèo có đường
giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các trung tâm
cụm xã; thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn.
Ngoài những mục tiêu trên, chương trình 135 còn có 5 nội dung
chủ yếu sau:
Một là: quy hoạch bố trí dân cư ở những nơi cần thiết, từng bước
tổ chức hợp lý đời sống sinh hoạt của đồng bào các bản, làng, phum, sóc, ở
những nơi không có điều kiện nhất là các vùng biên giới hải đảo, tạo điều
kiện để đồng bào nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống.
Hai là: Đẩy nhanh phát triển nông, lâm nghiệp, gắn với chế biến
tiêu thụ sản phẩm để khai thác nguồn tài nguyên và sử dụng lao động tại
chỗ, tạo thêm nhiều cơ hội về việc làm tăng thu nhập, ổn định đời sống,
từng bước phát triển sản xuất hàng hoá.
Ba là: Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp với quy
hoạch sản xuất và bố trí lại dân cư. Trước hết là hệ thống đường giao
thông; nước sinh hoạt; hệ thống điện ở những nơi có điều kiện, kể cả
thuỷ điện nhỏ.
Bốn là: Quy hoạch và xây dựng các trung tâm cụm xã, ưu tiên đầu
tư xây dựng các công trình về y tế, giáo dục, dịch vụ thương mại, cơ sở
sản xuất tiểu thủ công nghiệp và phát thanh truyền hình.
Năm là: Đào tạo cán bộ xã, bản làng, phum, sóc giúp cán bộ cơ sở
nâng cao trình độ quản lý hành chính, kinh tế để phục vụ yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội tại địa phương.
Từ mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của chuơng trình 135, 2 năm qua
dưới sự chỉ đạo của các ngành đã thu được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ.
Năm 1999 chương trình 135 tập trung đầu tư trực tiếp cho 2 nhiệm
vụ là xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo cán bộ trên địa bàn 1200 xã
(1012 xã đặc biệt khó khăn và 188 xã biên giới) thuộc 37 tỉnh. Năm
2000 hai nhiệm vụ này tiếp tục đầu tư thực hiện trên toàn bộ 1878 xã
đặc biệt khó khăn và biên giới; ba nhiệm vụ còn lại (quy hoạch dân cư,
phát triển sản xuất và xây dựng trung tâm cụm xã) hai năm qua được
thực hiện lồng ghép bằng các nguồn vốn của chương trình, dự án khác
trên địa bàn 1878 xã thuộc 49 tỉnh. Qua hai năm thực hiện tổng vốn đầu
tư từ ngân sách của trung ương và địa phương là 1254,2 tỷ đồng. Cơ cấu
vốn đầu tư được thể hiện trên biểu số 2 như sau:
Biểu số 2 : Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
ở các xã đặc biệt khó khăn
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000
Các công trình giao thông 38,78 45
Các công trình thuỷ lợi 18,72 19
Các công trình trường học 27 18
Các công trình nước sinh hoạt 7,3 7,2
Các công trình chợ, trạm xá, câp điện 8,2 10,8
Nguồn [7]
Chương trình 135 hai năm qua đó đã bố trí kế hoạch đầu tư được
trên 5200 công trình hạ tầng, đến nay đã có 4367 công trình hoàn thành
và đưa vào sử dụng. Trong đó 1098 công trình đường giao thông, 642
công trình trường học, 950 công trình thuỷ lợi, 208 công trình nước
sạch, 202 công trình điện hạ thế...
Các Bộ, các ngành, các địa phương đã tập trung chỉ đạo lồng ghép
các chương trình dự án khác trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn như
ngành giáo dục đã đầu tư hơn 50 tỷ đồng để xây dựng và sửa chữa
trường học, cung cấp trang thiết bị và đồ dùng học tập, thực hiện miễn
giảm học phí cho gần 300 ngàn học sinh nghèo với kinh phí miễn giảm
khoảng 400 triệu đồng; ngành y tế đầu tư 97 tỷ đồng để xây dựng trạm y
tế, cung cấp trang thiết bị y tế, các loại thuốc thiết yếu và đào tạo cán bộ
y tế xã. Qua báo cáo của các tỉnh, thành phố đã mua trên 1,1 triệu thẻ
bảo hiểm y tế cho người nghèo với kinh phí khoảng trên 30 triệu đồng,
cấp giấy chứng nhận miễn giảm phí cho hơn 2 triệu người, khám chữa
bệnh miễn giảm phí cho trên 800.000 lượt người, với kinh phí 50 tỷ
đồng. Chương trình định canh định cư đầu tư vào 304 xã đặc biệt khó
khăn 49.770 triệu đồng chiếm 38,91% vốn chương trình; chương trình
trồng 5 triệu ha rừng đầu tư vào 122 xã đặc biệt khó khăn 71.361 triệu
đồng chiếm 26,15% tổng mức đầu tư, chương trình nước sạch đầu tư
12.242 triệu đồng để đầu tư vào 737 dự án cấp nước ở các xã đặc biệt
khó khăn; chương trình trung tâm cụm xã đầu tư trên 200 tỷ đồng xây
dựng nhiều trung tâm cụm xã trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn... và
nhiều chương trình dự án trong và ngoài nước đã ưu tiên đầu tư vào khu
vực này. Có được kết quả này là do cơ chế quản lý chỉ đạo lồng ghép từ
TW đến địa phương và yếu tố có ý nghĩa quyết định là sự chỉ đạo sát sao
của các ngành, các cấp, hướng các nguồn lực, các chương tình dự án
lồng ghép vào địa bàn các xã thuộc chương trình 135.
Từ những kết quả trên cho thấy ở nhiều địa phương, chương trình
135 đã khơi dậy sức dân tham gia xây dựng các công trình, đã tạo ra một
phong trào lao động sản xuất khá sôi nổi nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát
triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt khó khăn
này.
Việc thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ chủ yếu của chương trình
135, các ngành các cấp đã chú trọng đào tạo bồi dường nâng cao năng
lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở để từng bước vươn lên vận hành chương
trình có hiệu quả. Năm 2000 tỉnh Cao Bằng có số lượng học viên cao
nhất 5000 người tham gia học tập trong đó có 750 là cán bộ huyện và
cán bộ tăng cường xuống xã, 4250 là cán bộ xã, bản, làng (8). Các tỉnh
Hoà Bình, Quảng Ngãi, Đắc Lắc đã mở rộng đối tượng đào tạo đến tận
hộ nông dân. Ngoài ra một số Bộ, ngành, các đoàn thể Trung ương như
thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh... đã tập huấn và hướng
dẫn đội ngũ cán bộ ở các cấp về cơ chế vận hành chương trình 135. Bên
cạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở, các tỉnh có các xã đặc biệt khó
khăn đã chú trọng việc tăng cường có thời hạn cán bộ công chức về các
xã làm công tác xoá đói giảm nghèo. Năm 2000 đã có hơn 1000 cán bộ
xuống các xã đặc biệt khó khăn giúp phát triển kinh tế xã hội, ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng và trực tiếp tham gia chỉ đạo
chương trình 135. Phần lớn đội ngũ cán bộ tăng cường cho cơ sở đều có
trình độ và kinh nghiệm công tác, có tinh thần trách nhiệm, đã sớm hoà
nhập vào cuộc sống ở cơ sở, góp phần tích cực vào việc thực hiện những
nhiệm vụ chủ yếu của địa phương và chương trình 135.
Có được những kết quả trên trước hết chương trình 135 là một chủ
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, hợp lòng dân; được vận hành
theo cơ chế của dân, do dân và vì dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ
và tích cực tham gia thực hiện, các cấp các ngành đã tích cực năng động
chỉ đạo sát sao các bước triển khai công tác với phong trào giúp dân,
cùng dân tháo gỡ khó khăn, đó vừa là kết quả vừa là nguyên nhân quan
trọng thúc đẩy quá trình thực hiện có hiệu quả chương trình.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, chương trình đã
bộc lộ những hạn chế nhất định đó là.
Thứ nhất: huy động nguồn lực cho chương trình còn ít, chưa tạo ra
được phong trào rộng khắp cả nước giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn,
các tỉnh có điều kiện, các Tổng công ty giúp đỡ các địa phuơng chưa đều
và chưa tương xứng với khả năng. Bên cạnh đó còn một số Bộ, ngành,
Tổng công ty được Chính phủ phân công giúp đỡ tỉnh nghèo lại uỷ
quyền cho Sở, ngành đại diện tại địa phương thực hiện chiếu lệ, chưa
đem lại kết qủa thiết thực.
Thứ hai: Chương trình 135 triển khai trên các xã đặc biệt khó
khăn, phân cấp toàn bộ việc quản lý đầu tư xây dựng cho Uỷ ban nhân
dân tỉnh quyết định, tỉnh phân cấp cho huyện, trong khi trình độ cán bộ
cơ sở còn nhiều hạn chế, không thể nào tránh khỏi quá trình lúng túng
trong quá trình triển khai chương trình. Một số địa phương chưa xác
định đầy đủ ý nghĩa chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của
chương trình, chưa tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện chương trình, mà
chỉ đạo chương trình thuần tuý như đầu tư xây dựng cơ bản một số công
trình bằng nguồn vốn Trung ương. Có tỉnh đến nay vẫn chưa cấp kinh
phí làm quy hoạch cơ sở hạ tầng, không có cơ sở chuẩn bị đầu tư cho kế
hoạch năm 2001; quá trình lập, thẩm định, xét duyệt thiết kế, dự toán
quá chậm, không đảm bảo được tiến độ kế hoạch; quy mô cấp hạng mục
kỹ thuật công trình chưa phù hợp, có tuyến đường đến một xã vùng cao,
dự toán lên tới 5 tỷ đồng, nếu chỉ đầu tư bằng vốn của chương trình 135
đến khi kết thúc chương trình (năm 2005) vẫn chưa hoàn thành, không
có vốn đầu tư cho các công trình khác của xã này.
Một số địa phương chưa thực hiện đầy đủ nội dung dân chủ công
khai, hoặc thực hiện hình thức chiếu lệ, giao toàn bộ khối lượng cho các
nhà thầu mà không giao cho dân làm những công việc có thể làm được.
Đã có hàng trăm doanh nghiệp tư nhân vốn ít, kỹ thuật kém nhưng vẫn
được địa phương chỉ định thầu các công trình của chương trình 135, khó
tránh khỏi những tiêu cực thông qua việc chỉ định thầu các công trình.
Một số huyện với địa bàn rộng, công trình nhiều không đủ sức kiểm tra,
giám sát, phó mặc cho các nhà thầu, dẫn đến bớt xén khối lượng, chất
luợng công trình kém.
Thứ ba: Việc sửa đổi bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế chậm, ảnh huởng
đến việc cấp phát vốn chương trình, nhất là việc tổ chức sắp xếp lại Ban
chỉ đạo chương trình mục tiêu của tỉnh và ban quản lý dự án các công
trình ở huyện.
Thứ tư: Một số địa phương mới chỉ tập trung thực hiện nhiệm vụ
xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, chưa
thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án khác trên địa bàn các xã
thuộc chương trình để thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, đem lại hiệu quả
kinh tế xã hội tổng hợp của chương trình.
2.2.1.3. Vốn thực hiện chương trình "phủ xanh đất trống đồi núi trọc".
Ngày 15/9/1993 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 327/CP về
thực hiện chương trình "phủ xanh đất trống đồi núi trọc". Nguồn vốn
được cấp ra từ ngân sách Nhà nước Trung ương và giao cho hệ thống
kho bạc Nhà nước thực hiện dưới 2 phương thức: cấp phát và cho vay
không thu lãi. Qua 5 năm thực hiện chương trình 327, cùng với các
chính sách định canh định cư và giao đất giao rừng đã đạt được những
kết quả nhất định về tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện môi
trường, môi sinh... ở các vùng kinh tế mới, vùng cao và đồi núi.
Với tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển cho chương trình
trong 6 năm 1993-1998 (hiện nay chuyển sang 5 triệu ha rừng) là 2363
tỷ đồng không kể vốn vay; đến hết 31/12/1998 kho bạc Nhà nước đã cấp
vốn cho hàng nghìn dự án với tổng số vốn cấp ra là 2277 tỷ đồng. Nhờ
có số vốn từ chương trình này đã làm tăng năng lực phòng hộ, chuyển
dịch cơ cấu nông thôn, giải quyết việc làm, chuyển đồng bào dân tộc từ
du canh du cư phá rừng làm rẫy sang bảo vệ, khoang nuôi, trồng rừng,
phát triển chăn nuôi và trông cây công nghiệp vườn đồi.
Biểu số 3: Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội đạt được của chương trình 327.
Chỉ tiêu Đơn vị tính Kết quả
Bảo vệ rừng ha 1.600.000
Khoang nuôi tái sinh ha 700.000
Rừng trồng mới ha 640.000
Trồng cây công nghiệp + cây ăn quả ha 88.730
Mở rộng trường học, trạm xá m
2
103.300
Đường giao thông km 5.000
Số hộ di dãn dân hộ 92.430
Nguồn [9]
Kết quả tổng thể về kinh tế, xã hội của chương trình 327 đã đóng
góp tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà
nước. Nhờ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn 327 mà thu nhập các hộ vườn
đồi trong vùng dự án tăng lên rõ rệt. Ông Nguyễn Ngọc Sơn giám đốc
lâm trường Trương Bát Hà Tĩnh cho biết: nhờ nguồn vốn 327 đầu tư vào
nên đã giảm tỷ lệ nghèo đói từ 15% năm 1993 xuống còn 8% năm 1998,
có nhiều xóm không còn hộ nghèo đói [10]. Một minh chứng khác, dự án
thanh ninh (Bắc Hà Trung - Thanh Hoá) sau những năm thực hiện, nhiều
hộ dân trước đây nghèo khổ phải xin trợ cấp, nay có thể mua máy thu
hình, xe máy.
Tuy nhiên qua khảo sát một số dự án khác cũng như tổng kết cuả
kho bạc Nhà nước cho thấy việc triển khai chương trình 327 còn nhiều
khiếm khuyết. Do chương trình rải quá rộng, quy trình đầu tư, định mức
kinh tế kỹ thuật thực hiện dự án không theo sát thực tế, dẫn đến có dự án
thừa vốn, có dự án lại thiếu vốn. Mặt khác vai trò kiểm tra kiểm soát bị
hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn chưa được tương xứng với vốn đầu tư.
Mô hình đầu tư dự án 327 theo hộ gia đình chưa được mở rộng, tác động
của chương trình làm đổi mới đời sống nông thôn còn hạn chế.
2.2.1.4. Các loại vốn khác từ nguồn ngân sách Nhà nước.
Có thể kể đến các loại vốn thuộc loại này như sau:
- Vốn để hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông -
lâm - ngư (gọi chung là khuyến nông): kinh phi bố trí là 7,2 tỷ đồng đã
sử dụng để xây dựng 150 mô hình trình diễn kỹ thuật với 10.000 hộ
tham gia, tập huấn 180 lớp khuyến nông với 18.000 lượt người, in
12.000 bản tài liệu, phát hành hàng trăm số báo chuyên đề. Ngoài ra các
địa phương đã bố trí kinh phí để tổ chức hàng ngàn lớp tập huấn cách
làm ăn cho trên 100.000 lượt người nghèo. Thông qua hướng dẫn người
nghèo cách làm ăn bằng các mô hình cây trồng, vật nuôi, câu lạc bộ
khuyến nông, giống mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho sản
xuất... góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhiều hộ nghèo đã biết vay
vốn để tổ chức sản xuất, tăng thu nhập, thoát đói giảm nghèo.
- Ngoài ra ngân sách Nhà nước phải sử dụng các khoản chi khác để
trợ cấp đột xuất khắc phục thiên tai hoả hoạn để ổn định cuộc sống dân
cư các khu vực này.
Các khoản chi từ kênh ngân sách Nhà nước để sử dụng vào các
mục đích nói trên không phải là toàn bộ hỗ trợ trực tiếp cho người
nghèo. Nhưng nó đã có tác động tích cực hỗ trợ phát triển nông thôn,
miền núi... nâng cao mức sống người dân tạo điều kiện cho họ vượt qua
cảnh nghèo đói. Sự hỗ trợ cần thiết này phản ánh tính định hướng xã hội
trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên chuơng trình hỗ
trợ này thực sự chưa quản lý chặt chẽ, có một số khoản mang nặng tính
trợ cấp từ thiện, có khi là biện pháp tình thế nên việc sử dụng nó hiệu
quả chưa cao.
2.2.2. Hỗ trợ vốn từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
2.2.2.1. Tín dụng cho hộ nông dân nghèo từ nguồn vốn kinh
doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngày 28/6/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là chính phủ) có quyết
định 202/HĐBT, theo đó giao cho ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam thực hiện cho vay chủ yếu đối với hộ sản xuất thiếu
vốn. Từ năm 1991 đến 31/12/2000, ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam đã cho trên 30 triệu lượt hộ vay vốn, với doanh số
trên 100 nghìn tỷ đồng trong đó dư nợ cho vay theo chính sách là gần 10
nghìn tỷ đồng bao gồm: hộ nghèo 4400 tỷ đồng, tôn nền làm sàn nhà
trên cọc 1300 tỷ đồng, khắc phục hậu quả thiên tai lũ lụt 1200 tỷ đồng,
cho vay ưu đãi vùng sâu vùng xa gần 3000 tỷ đồng. Theo số liệu thống
kê mới 30% nhu cầu vay vốn của hộ nông dân được đáp ứng, 70% hộ
nông dân phải đi vay tư nhân và các nguồn vốn khác.
Đối với hộ nông dân nghèo vay vốn vẫn chịu lãi suất như các hộ
nông dân bình thường. Riêng vùng núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được
miễn giảm lãi suất so với lãi suất cho vay cùng loại. Để tạo điều kiện
cho hộ nông dân nghèo không có tài sản thế chấp, ngày 30/2/1999 thủ
tướng Chính phủ đã có quyết định số 67/1999/QĐ-TTg theo đó các hộ
nông dân khi cần vay vốn thì chỉ cần làm đơn có xác nhận của địa
phương và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi đến ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Sau 10 năm cho vay, chương trình tín
dụng này đã đạt được kết quả đáng khích lệ nhưng cũng cần đánh giá một
số mặt tồn tại là:
Về phương thức cho vay. Mặc dù ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn là tổ chức tín dụng thực hiện chính sách cho vay ưu đãi
nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng cơ chế hoạch toán của ngân