Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Những vấn đề lý luận về cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.93 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
N
gày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, Khi toàn cầu hóa
về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền
kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách.Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết
với các quốc gia khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu
thế chung của thế giới
Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự cạnh tranh,Việt Nam của chúng ta cũng vậy. Là
một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế
giới đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội, cũng như nhiều thách thức. Sức
cạnh tranh là một yếu tố cần thiết, cấp bách và không thể thiếu đối với bất kỳ quốc
gia, hay bất kỳ dân tộc nào.
Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa
bỏ rào cản,chấp nhận tự do buôn bán,vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong
nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù
hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam (về chất lượng và giá cả) .Nhưng làm sao và làm
thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta hiện nay đang là vấn đề
hết sức nan giải và có thể nói là đầy khó khăn, đang được nhiều người quan tâm.
Với trình độ và khả năng hiểu biết của mình còn hạn chế, em xin trình bày đề
tài: “Những cơ hội và thách thức của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Giải pháp để vượt qua những thách thức" .



1
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH

1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan


Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá bao gồm
các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị trường các
nhà sản xuất, người tiêu dùng, những người hoạt động buôn bán kinh doanh, quan
hệ với nhau thông qua hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá. Như vậy thực chất thị
trường là chỉ các hoạt động kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi, lưu thông
hàng hoá và mối quan hệ về kinh tế giữa người với người.
Hình thức đầu tiên của nền kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá. Kinh tế h là
một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi và
buôn bán trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là hình thứuc phát triển cao của nền
kinh tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều
được qui định bởi thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn muốn có được
những điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất như: thuê được lao động rẻ mà có
kĩ thuật, mua được nguyên nhiên vật liệu rẻ, có thị trường các yếu tố đầu ra tốt.
Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dể chiếm lấy, nắm giữ lấy
những điều kiện thuận lợi. Sự cạnh tranh này chỉ kết thúc khi nó được đánh dấu bởi
một bên chiến thắng và một bên thất bại. Tuy vậy cạnh tranh không bao giờ mất đi
trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự sống còn của các doanh nghiệp. Muốn
tồn tại được buộc các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
mình bằng cách: nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi phí sản
xuất để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa học kĩ thuật… Điều này sẽ thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, đồng thời cũng làm cho xã hội phát triển nhờ kinh tế phát triển,
khoa học - kĩ thuật phát triển do đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động của doanh
nghiệp, cải tiến khoa học - kĩ thuật.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi
sản xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn. Tạo ra lợi ích xã hội cao
hơn, mọi người sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng

2
của sản phẩm và dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng, cho

người tiêu dùng.
Như vậy cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh
tranh giúp cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho
xã hội. Cạnh tranh có thể được xem như là quá trình tích luỹ về lượng để từ đó thực
hiện các bước nhảu thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc
thang của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển di lên, tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn tại của
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất kinh doanh
với nhau để giành giật lấy những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá,
nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vừa là
môi trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai
trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua một số chức năng sau:
Thứ 1: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh: cạnh tranh trong nội
bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành là sự cạnh
tranh nhằm giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về sản
phẩm. Do đó kết quả của sự cạnh tranh này là hình thành nên giá trị thị trường của
từng loại mặt hàng. Đó là giá trị của hàng hoá được tính dựa vào điều kiện sản xuất
trung bình của toàn xã hội. Nếu như doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất dưới
mức trung bình sẽ bị thiệt hại hay bị lỗ vốn. Còn những doanh nghiệp có điều kiện
sản xuất trên mức trung bình của xã hội sẽ thu được lợi nhuận thông qua sự chênh
lệch về điều kiện sản xuất.
Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành với
nhau. Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác nhau.
Mục đích của cạnh tranh này là tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Các doanh nghiệp tự do
di chuyển TB của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh tranh này dẫn đến hình


3
thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản
xuất.
Việc hình thành nên giá thị trường của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình
quân là điều quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Với giá trị thị trường của hàng
hoá cho biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ đó sẽ có
những thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ suất lợi nhuận
bình quân cho biết lợi nhuận của các nhà tư bản sẽ là như nhau cho dù đầu tư vào
những ngành khác nhau với lượng TB như nhau.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả
nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay một số loại hàng hoá cạnh tranh
nhau về giá bán, hình thức sản phẩm, chất lượng sản phẩm trong quá trình cạnh
tranh đó doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao động cao hơn
thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các nguồn nguyên vật
liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội cao hơn. Nếu cứ để cho
các doanh nghiệp kém hiệu quả sử dụng các loại nguồn lực thì sẽ lãng phí nguồn
lực xã hội trong khi hiệu quả xã hội đem lại không cao, chi phí cho sản xuất tăng
cao, giá trị hàng hoá tăng lên không cần thiết.
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích thích
thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu
tư vào sản xuất trên thị trường, khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng hoá thì
làm cho giá cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu được của các doanh
nghiệp sẽ giảm xuống. Nếu như giá cả giảm xuống dưới mức hoặc bằng chi phí sản
xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những
doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì doanh
nghiệp đó mới thu được. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại được thì phải
giảm chi phí sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động bằng cách tích cực ứng
dụng đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất.
Ngược lại khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của thị
trường điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của hàng

hoá tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều này kích thích
các doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng dụng khoa học -

4
công nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có được lượng hàng hoá tung
ra thị trường. Điều này làm tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nâng
cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Điều này quan trọng là động lực này hoàn
toàn tự nhiên không theo và không cần bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ
quan quản lý nhà nước.
Thứ tư: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không chỉ có cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những người lao
động với nhau, để có được một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp. Điều đó khiến
cho mọi người trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề của mình.
Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn thiện hơn, cạnh tranh đóng
góp một phần trong việc hình thành nên con người mới trong xã hội mới thông
minh, năng động và sáng tạo.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ thắng và
người thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả. Kẻ yếu thì bị
phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực.
Bởi vì có như vậy thì các nguồn lực của xã hội mới được chuyển sang cho những
nơi làm ăn hiệu quả. Việc nâng cao các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự
lãng phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu quả sản xuất của xã hội cao
buộc chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá
sản này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà đó là sự huỷ diệt sáng tạo.
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh trong kinh doanh
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá luôn muốn tự mình quyết định đến việc
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá - dịch vụ của mình. Nhưng cạnh tranh trên thị trường
đã không cho phép họ làm như vậy. Do đó các doanh nghiệp luôn muốn xoá bỏ
cạnh tranh đã ra đời để đáp ứng yêu cầu của họ. Độc quyền trong kinh doanh là
việc một hay nhiều tập đoàn kinh tế với những điều kiện kinh tế chính trị, xã hội

nhất định khống chế thị trường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Độc
quyền thường dẫn đến xu hướng cửa quyền, bạo lực và trong một số trường hợp nó
cản trở sự phát triển của khoa học kĩ thuật, làm chậm thâm chí lãng phí các nguồn
lực xã hội. Bởi lẽ với thế độc quyền các doanh nghiệp sản xuất không cần quan tâm
đến việc cải tiến máy móc kĩ thuật, không cần tìm cách nâng cao năng suất lao động

5
mà vẫn thu được lợi nhuận cao nhờ vào độc quyền mua và độc quyền bán. Độc
quyền là sự thống trị tuyệt đối trong lưu thông và sản xuất nên dễ nảy sinh giá cả
độc quyền, giá cả lũng đoạn cao,... Do vậy, sự phục vụ của người tiêu dùng nói
riêng và cho xã hội nói chung là kém hiệu quả hơn so với cạnh tranh tự do. Trong
nhiều trường hợp độc quyền áp đặt sự tiêu dùng làm cho xã hội. Chính do cung
cách ấy mà độc quyền thường làm cho xã hội luôn luôn ở tình trạng khan hiếm hàng
hoá, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng kinh
tế.
Độc quyền hình thành biểu hiện sự thất bại của thị trường. Để có sự cạnh
tranh hoàn hảo, nhiều quốc gia đã coi chống độc quyền và tạo nên cạnh tranh hoàn
hảo là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước. Để tạo nên cạnh tranh lành
mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh thì cần phải có những điều kiện nhất
định.
a) Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh doanh
Để có sự cạnh tranh trong nền kinh tế thì cần phải hoạt động sản xuất kinh
doanh. Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng cao thì các thể chế pháp lý
không chỉ do nhà nước ban hành mà nó còn được ban hành bởi các tổ chức quốc tế
hoặc do một khu vực kinh tế gồm nhiều quốc gia ban hành. Yếu tố pháp lý thể chế
nhân tố quan trọng trong hình thành nên môi trường kinh doanh - là đất sống của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Mõi yếu tố pháp lí - thể chế đều tác động vào một
lĩnh vực nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nó được dùng để điều
chỉnh các hành vi hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các chủ thể kinh tế
muốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nào đều phải dựa

vào các thể chế - pháp lí đã được ban hành đối với lĩnh vực nào đó để tham gia hoạt
động kinh tế. Như vậy sẽ hình thành nên một môi trường kinh doanh ổn định khoa
học.
b) Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân
Các tổ chức quốc tế, các hiệp hội cũng như nhà nước khi ra các qui định pháp
lí - thể chế đều phải dựa vào điều kiện và tình hình thực tế, điều này đảm bảo tính
sát thực của các qui định. Nhà nước dựa vào các qui định để điều hành quản lý nền
kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của quản lý, chỉ đạo giám

6
sát thực hiện các qui định pháp lí là hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho việc các qui
định pháp lí - thể chế được thực hiện. Do vai trò hết sức quan trọng đó mà việc quản
lý kinh tế của nhà nước đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước phải có đủ trình độ chuyên
môn, năng lực trong quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường với môi trường
cạnh tranh gay gắt. Việc các công ty hoặc các tổ chức độc quyền hình thành là điều
dễ dàng. Do vậy để chống độc quyền và tạo nên sự cạnh tranh thì với bộ máy quản
lý kinh tế non kém thì nhà nước sẽ không thể quản lí được nền kinh tế, các bản qui
định không thể đưa vào áp dụng trong thực tế, hoặc nếu có đưa vào áp dụng được
thì khó lòng mà giám sát, chỉ đạo việc thực hiện. Điều này sẽ gây ra việc làm thất
thoát, lãng phí tài sản quốc gia, tình hình kinh doanh bất ổn định, tạo điều kiện cho
các tổ chức độc quyền hình thành. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: trong xây dựng cơ
bản việc đầu tư dàn trải không có trọng điểm gây lãng phí vốn đầu tư. Trong các dự
án, công trình xây dựng việc thất thoát vốn là rất lớn do việc câu kết thông đồng, ăn
dơ với nhau giữa các chủ đầu tư và xây dựng. Tất cả các điều trên phần lớn là do bộ
máy quản lý còn non kém. Chưa đưa ra được những qui định pháp lí - thể chế để
điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Việc các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thuốc
đầu cơ, thông đồng với nhau tạo ra sự khan hiếm giả tạo để đẩy giá thuốc lên cao.
Điều này cũng tương tự đối với thị trường bất động sản.
Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới nên
việc nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để tạo nên

cạnh tranh .
c) Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các chủ
thể kinh doanh
Các chủ thể kinh tế là đối tượng tác động của các văn bản pháp lí - thể chế.
Nhà nước ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các qui định
của văn bản pháp lí - thể chế. Để các qui định được thực hiện tốt thì ngoài vai trò
quản lí tốt của Nhà nước còn có hành vi thực hiện của các chủ kinh doanh và nhân
dân. Ý thức thực hiện các qui định văn bản của các chủ thể khi tham gia hoạt động
kinh tế là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh trong kinh doanh. Năng lực của các cơ
quan quản lí là có hạn cho nên trong quá trình quản lý không thể khong mắc những
sai lầm, thiếu sót. Khi đó sẽ là điều kiện tốt cho những tình trạng cạnh tranh không

7

×