Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Khảo sát đình ở phố cổ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.74 KB, 10 trang )

Mơn: Tơn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam

Đề tài: Khảo sát đình ở phố cổ Hà Nội

Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đơ thị có từ lâu
đời của Hà Nội nằm ở ngồi hồng thành Thăng Long. Khu đơ thị này tập trung
dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên
những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân
thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai
muốn tìm hiểu về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Khu "Hà Nội 36 phố phường" là một cách gọi khơng chính xác của khu phố
cổ, vì 36 phố phường là một cách gọi ước lệ khu vực đô thị cổ, nằm bên trong và
bên ngoài cả khu phố cổ. Trong khu vực phố cổ có rất nhiều di tích lịch sử lâu đời,
gồm đình, đền, chùa, hội qn.
Đình là một cơng trình kiến trúc cổ truyền ở làng quê Việt Nam, là nơi
thờ Thành hoàng và cũng là nơi hội họp của người dân.
Về lịch sử, trước kia theo tình hình chung của cả nước, đình của các làng mạc
Việt Nam chỉ là quán để nghỉ. Năm 1231 Trần Nhân Tông xuống chiếu cho đắp
tượng Phật ở đình qn.
Ngơi đình làng với chức năng là nơi thờ thành hoàng và là nơi hội họp của
dân chúng có lẽ bắt đầu vào thời Lê sơ và định hình vào thời nhà Mạc. Có lẽ sự
phát triển của Nho giáo vào cuối thế 15 đã cấy dần Thành hồng vào đình làng.
Khởi đầu là đình Quảng Văn (1489). Nhưng hiện nay dấu vết sớm nhất của đình


làng thì Thành hồng chỉ gặp từ thế kỷ 16. Trước đây đình thường chỉ có 3 gian và
2 trái. Gian giữa khơng có sạp, trong gian thờ Thành hồng. Cuối thế kỷ 17 từ gian
giữa và kéo dài về sau gọi là chi vồ, tạo cho đình làng mang kiểu chữ Đinh. Cuối
thế kỷ 17, nhất là thế kỷ 19, đình làng được bổ sung tịa tiền tế.
Về kiến trúc, kiến trúc truyền thống được xây dựng dựa trên những nguyên tắc
của thuật phong thủy. Địa điểm của đình khác đền chùa. Trong khi chùa và đền


chuộng địa điểm tĩnh mịch, có khi u tịch, khuất lối thì đình làng chủ yếu lấy địa
điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thống đãng nhìn ra sơng nước.
Nếu khơng có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt
nước phía trước đình cho đúng thế "tụ thủy" vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho
làng. Kiểu xây dựng bằng gỗ bao gồm các yếu tố nghiêng về trang trí và chạm
khắc.
Đình làng thường là một ngơi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn
to thẳng tắp đặt trên những hịn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang, xà dọc của đình
cũng làm tồn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài,
hai đầu hồi xây bít đốc hoặc làm bốn góc đầu đao cong. Trên nóc đình là hai
con rồng chầu mặt nguyệt, tục gọi là "lưỡng long triều nguyệt" hay "lưỡng long
tranh châu".
Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc
hình con nghê.
Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành
hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp
ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính cơng việc của làng.


Khu phố cổ Hà Nội - khu vực đặc thù của thủ đơ, trái tim văn hóa lịch sử của
cả nước - là nơi còn lưu giữ được một mạng lưới các cơng trình tơn giáo tín
ngưỡng với nhiều ngơi đình có giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc. Khu phố cổ
hiện vẫn còn lưu giữ danh sách của 59 ngơi đình, chiếm một tỉ lệ lớn trong số 112
các cơng trình tơn giáo tín ngưỡng đã từng có tại đây. Các ngơi đình trong khu phố
cổ phản ánh yếu tố lịch sử của một khu đô thị có nguồn gốc nơng thơn - nơng
nghiệp. Khơng gian kiến trúc của các ngơi đình trong khu phố cổ Hà Nội cũng có
những nét đặc trưng riêng, phản ánh rõ nét quá trình hình thành và phát triển của
khu phố cổ, góp phần tạo nên bản sắc của Thăng Long - Đơng Đơ - Hà Nội.
Đình ở mỗi phố nghề thường có một đình để thờ tổ nghề hoặc thành hồng
làng ngun qn. Đình ở khu này đặc biệt là tầng dưới vẫn làm cửa hàng cho

thuê, tầng trên mới làm nơi thờ cúng. Qua thời gian, các đình bị lấn chiếm nhiều,
rất khó tìm ra dấu.
Khu phố cổ được hình thành từ một hệ thống các bến chợ nằm xen lẫn các
làng nơng nhiệp. Do vậy, các ngơi đình trong khu phố cổ phản ánh các yếu tố lịch
sử của một khu vực đơ thị có nguồn gốc từ các làng xã. Chức năng chính của các
ngơi đình trong khu phố cổ là thờ Thành hoàng - vị thần bảo hộ cho người dân
trong khu vực, nhiều ngơi đình cịn thờ các vị thần được tơn vinh là Thành hồng
của kinh thành Thăng Long như thần Tơ Lịch - thần sông, thần Bạch Mã - thần
Ngựa Trắng và thần Thiết Lâm - thần rừng, những vị thần đã có công giúp Lý Thái
Tổ xây dựng Kinh thành và bảo hộ cho đế đơ. Nhiều ngơi đình thờ Vua, gia đình
hồng tộc - những người có cơng lớn trong việc trị vì đất nước (như tướng quân
Trần Lựu, Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn, anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt,
tướng quân Nguyễn Trung Ngạn…) và cũng được tôn vinh Thành hồng, thể hiện
sự tơn thờ Vua và chính thể qn chủ. Bên cạnh đó, nhiều ngơi đình được lập để
thờ vọng, thờ các tổ sư nghề của dân tứ trấn. Khu phố cổ Hà Nội là nơi xuất hiện


những ngơi đình thờ tổ nghề từ rất sớm và với số lượng nhiều nhất trong một khu
vực diện tích 100 ha. Có 14 ngơi đình thờ tổ nghề, đó là các ngơi đình: đình Kim
Ngân, đình Trương Thị (thờ tổ nghề kim hồn); đình Lị Rèn (thờ tổ nghề rèn);
đình Trúc Lâm (thờ tổ nghề da); đình Hải Tượng (thờ tổ nghề giày); đình Hàng
Quạt (Xuân Phiến Thị) (thờ tổ nghề quạt); Đình Thuận Mỹ, đình Hà Vĩ (thờ tổ
nghề sơn); đình Hoa Lộc Thị (thờ tổ nghề nhuộm): đình Tú Thị (thờ tổ nghề thêu);
đình Kiếm Hồ (thờ tổ nghề vơi); đình Trang Lâu (thờ tổ nghề mộc); đình Nhị Kê
(thờ tổ nghề tiện); đình Phúc Hầu (thờ tổ nghề gương); đình Hàng Thiếc (thờ tổ
nghề thiếc)...
Các ngơi đình thờ tổ nghề là nơi tụ hội những người cùng họ tộc, hay cùng
quê, cùng làng xã, góp phần tăng thêm tính gắn kết của mối quan hệ họ tộc và cộng
đồng trong khu phố cổ. Hiện nay, nhiều ngơi đình thờ tổ nghề trong khu phố cổ vẫn
là đầu mối gặp gỡ, tạo quan hệ cộng đồng gắn kết dựa trên mối liên hệ với làng quê

gốc, tích hợp được những tinh hoa của nhiều làng nghề ở miền Bắc:Làng gốm Bát
Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), làng nghề vàng bạc Châu Khê (Hải Dương), Đồng Xâm
(Thái Bình), Định Cơng (Thanh Trì, Hà Nội), làng mộc Phương Lâm, Cúc Bồ (Hải
Dương), Phụng Công(Thanh Oai, Hà Tây), làng chạm khắc Nhị Khê (Thường Tín,
Hà Tây), Liễu Chàng (Gia Lộc, Hải Dương), làng chế tác mây tre đan Giới Tế
(Yên Phong, Bắc Ninh), làng mộc Hà Vĩ (Thường Tín, Hà Tây), làng thêu Hướng
Dương, Quất Động (Thường Tín, Hà Tây)…
Đặc trưng về mặt vật thể của các ngơi đình trong khu phố cổ:
Quy hoạch mặt bằng và cấu trúc không gian
Do đặc điểm về hình thái kiến trúc đơ thị trong khu phố cổ, cấu trúc ô phố,
nên cấu trúc không gian của các ngơi đình trong khu phố cổ có những điểm khác
biệt so với các ngơi đình truyền thống. Dễ nhận nhất là sự vắng mặt của hồ nước,
sân ngồi. Hầu hết các ngơi đình trong phố có cổng hay tam quan được xây sát hè


phố, trơng ra mặt đường (đình Thanh Hà, đình n Thái, đình Nhân Nội Linh Từ,
đình Kim Ngân, đình Tân Khai...). Sơ đồ cấu trúc không gian của các ngôi đình
trong khu phố cổ như sau: Phố, ngõ - Cổng đình (nghi mơn) - Sân trong - Khu
chính đình (tiền tế, đại bái)- Phương đình (có thể có hoặc khơng)- Hậu cung
Như vậy, khơng gian sân phía ngồi đình của các ngơi đình truyền thống
thường vắng mặt trong cấu trúc khơng gian đình khu phố cổ. Thay vào đó là các
không gian đường phố, ngõ tiếp cận với các ngôi đình, chính những khơng gian
này được sử dụng cho các hoạt động sinh hoạt cộng đồng trong các dịp tế, lễ. Kiến
trúc phương đình cũng khơng phổ biến tại nhiều ngơi đình trong khu phố cổ, do sự
hạn chế về diện tích sử dụng. Các khu vực tả vu, hữu vu cùng với các khu vực phụ
trợ cũng bị biến thể trong cấu trúc khơng gian các ngơi đình khu phố cổ.
Theo quan niệm phong thủy và tín ngưỡng của người Việt, các ngơi đình
thường quay về hướng Nam và hướng Tây. Tuy nhiên trong khu phố cổ, hướng của
đình bị chi phối bởi hướng của các tuyến phố nên thường không tuân thủ đầy đủ
các nguyên tắc. Theo điều tra khảo sát của nhóm chúng tơi, nhiều ngơi đình hướng

về các sông, hồ, nguồn nước đã từng tồn tại, hoặc đang tồn tại trong khu vực - thể
hiện tâm thức của cư dân nông nghiệp, không lệ thuộc vào các yếu tố phong thủy
phức tạp của người Trung Quốc. Trong khu phố cổ, có một số ngơi đình có hướng
quay ra hướng nam hoặc đơng nam, nhìn ra hướng sơng Hồng và hồ Lục Thủy (hồ
Hồn Kiếm ngày nay) như đình Yên Thái, đình Trung Yên, đình Tân Khai ...
Quy hoạch mặt bằng kiến trúc các đình ở khu phố cổ Hà Nội khá đa dạng. Dựa vào
mặt bằng kiến trúc, có thể nhận ra các loại bố cục mặt bằng chủ đạo:
- Loại mặt bằng hình chữ cơng: đình Thanh Hà (10 Ngõ Gạch), đình Tân Khai (44
Hàng Vải), đình Yên Thái (8 ngõ Tạm Thương)...; loại mặt bằng hình chữ nhị: với
2 lớp nhà ngang, nối với nhau bởi khoảng sân trong mà ta có thể thấy tại mặt bằng
đình Phất Lộc (46 ngõ Phất Lộc), đình Hà Vĩ (11 Hàng Hịm)...; loại mặt bằng kiểu
nhà hình ống: chiếm phần lớn (trên 60% tổng số các ngôi đình trong KPC), điển


hình là đình Trung Yên (10 ngõ Trung Yên), đình Đồng Lạc (38 Hàng Đào), đình
Đức Mơn (38b Hàng Đường), đình Vũ Du (42 Hàng Da), đình Lị Rèn (1 Lị Rèn),
đình Trương Thị...
Các cơng trình nằm trong khu phố cổ có quy mơ tương đối nhỏ, rất ít ngơi
đình có tổng thể hồn chỉnh như ở nơng thơn, nhiều cơng trình phải đơn giản bớt
các hạng mục, bố cục gọn gàng, quy mô nhỏ hẹp. Hiện nay nhiều ngôi đình chỉ cịn
phần hậu cung hoặc chỉ cịn phần bệ thờ, một số ngơi đình chỉ cịn lại 1 phần thờ
cúng đặt trên tầng 2 của ngơi nhà...
Hình thức kiến trúc, các chi tiết kiến trúc, điêu khắc
Phần lớn các ngơi đình được xây dựng vào thời kỳ cuối Lê, đầu Nguyễn hoặc
thời Nguyễn, mang phong cách kiến trúc đặc trưng của các thời kỳ này.
Hình thức kiến trúc, nghệ thuật trang trí của các ngơi đình trong khu phố cổ không
đặc sắc và ở mức tuyệt tác như các ngơi đình làng cổ tại nơng thơn miền Bắc (đình
Tây Đằng, Đình Chu Quyến...) nhưng vẫn thể hiện phong cách dân gian truyền
thống, tỉ lệ cơng trình rất phù hợp kích thước thửa đất và với các cơng trình xung
quanh. Các ngơi đình có cấu tạo mái ngói nhiều lớp, tạo hình ảnh đẹp, đặc trưng

của đơ thị. Nghệ thuật chạm khắc tập trung chủ yếu trên các bức cửa võng, cuốn
thư, hương án, các chi tiết kết cấu mái bằng gỗ, chi tiết kết cấu gỗ của nhà tiền đình
... làm tăng thêm vẻ đẹp cho cơng trình, giảm bớt sự nặng nề cho bộ khung kiến
trúc như đình n Thái, đình Nhiễm Thượng...). Trang trí kiến trúc của các ngơi
đình rất phong phú, đề tài là các linh vật, văn thực vật, văn triện và tượng nghê.
Những mảng trang trí này mang tính thẩm mỹ cao, phần lớn thuộc nghệ thuật thời
Nguyễn như phương đình đình Đơng Thành, đình Thanh Hà ...). Phần lớn các ngơi
đình cịn lưu giữ được các di vật văn hóa với nhiều chủng loại và chất liệu khác
nhau, thể hiện tài hoa của các nghệ nhân: sơn mài, hội họa, điêu khắc. Trên các di
vật của đình như hương án, long ngai, hồnh phi, cuốn thư, cửa võng bát bửu... ,


các đề tài được chú ý diễn tả là tứ linh, tứ quý, rồng chầu mặt trời, hoa chanh, cánh
sen, hoa dây vân mây đan xen…
Đặc điểm kết cấu, kỹ thuật xây dựng thể hiện ở hệ kết cấu chịu lực mái. Phần
lớn các ngơi đình có bộ khung kết cấu chịu lực làm bằng gỗ, với các bộ vì được kết
cấu theo kiểu “chồng rường con nhị”, “chồng rường hai hàng chân” (đình Thanh
Hà), kiểu “vì kèo” (đình Đức Mơn). Trong một số kiến trúc có vịm “vỏ cua” nối
các nếp nhà (đình Hương Tượng, đình Đức Mơn). Hiện nay, chỉ cịn một số các
ngơi đình giữ được hệ kết cấu chịu lực bằng gỗ (đình Tân Khai, đình Yên Thái,
đình Quan Đế, đình Thanh Hà ...), phần lớn đã bị sửa chữa, bị thay thế một phần
hay toàn bộ…
Các giá trị phi vật thể gắn liền với sự hình thành và phát triển của các ngơi
đình trong khu phố cổ:
Giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống:
Các ngơi đình gắn liền với các di tích và địa danh cụ thể của kinh thành Thăng
Long xưa, tồn tại và phát triển cùng với sự hưng thịnh của kinh thành. Đình Đức
Mơn cùng với chùa Cầu Đơng - phố Hàng Đường là dấu ấn sâu đậm của một trong
bốn cửa của Hồng thành thời Lý. Ngơi nhà số 8 Hàng Cân cịn ghi ba chữ “Đơng
Mơn đình”, là ngơi chùa cổ Cầu Đơng hay cịn gọi là chùa Đơng Mơn cùng với

đình Đức Mơn chính là phía Cửa Đơng thành Thăng Long cũ. Do vậy đình Đức
Mơn - chùa Cầu Đông mang tên gắn với địa danh là Đông Môn (cửa Đơng).
Ngồi ra, các ngơi đình tổ nghề trong khu phố cổ phản ánh được hầu hết các nghề
thủ công truyền thống trên đất Thăng Long xưa.Việc thờ tổ nghề của các ngơi đình
trong khu phố cổ Hà Nội có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tìm hiểu về quy
hoạch, dân cư, kinh tế xã hội trong đô thị cổ Hà Nội.
Giá trị tâm linh - gắn kết cộng đồng:
Các ngơi đình trong khu phố cổ đã thể hiện các giá trị gắn kết văn hóa tinh
thần và tâm linh của người dân trong khu vực. Mặt khác, sự tồn tại của các ngôi


đình này cịn là minh chứng của tâm linh người Hà Nội cũ: tìm cách hịa đồng với
thế giới tâm linh, vì cùng với một khơng gian đơ thị vật chất, cịn tồn tại một khơng
gian đơ thị huyền thoại, ẩn chìm và thiêng liêng, ở đó có thể giao hịa cùng q khứ
và tìm được một nguồn sinh lực khác.
Giá trị kiến trúc cảnh quan hấp dẫn - thu hút tham quan du lịch:
Kiến trúc của các ngơi đình trong khu phố cổ được xây dựng lên từ trí tuệ và
công sức của cả một cộng đồng dân cư với lịng thành kính và quyết tâm, với
những vật liệu và kỹ năng tuyệt vời của những bàn tay tài hoa nhất. Chính vì vậy,
nhiều ngơi đình có giá trị thẩm mỹ cao với các yếu tố: đắc địa, kiểu dáng kiến trúc
độc đáo, hài hịa gắn bó với thiên nhiên tạo quần thể kiến trúc đẹp, sinh động hấp
dẫn (như: đình Thanh Hà, đình n Thái, đình Đức Mơn, đình Đồng Lạc....)
Tại khu phố cổ, tổ hợp kiến trúc gốc (khi chưa bị lấn chiếm) của những ngơi
đình có mật độ xây dựng thấp, trên 50% các ngơi đình có thể tiếp cận từ các tuyến
phố và có thể nhận biết hình thức mặt đứng từ các tuyến phố chính, tạo kiến trúc
cảnh quan đẹp cho tuyến phố. Các ngơi đình có đường nét kiến trúc dun dáng, tỷ
lệ vừa phải - gần gũi với tỷ lệ của con người. Đây chính là các yếu tố phá bỏ sự
đơn điệu của phố xá, tạo ra những khoảng mở, khoảng trống, những lá phổi xanh
và sự đa dạng không gian trong cấu trúc đơ thị.
Thực trạng một số ngơi đình ở phố cổ hiện nay:

Được lập ra để thờ tổ nghề, gắn với các nghề truyền thống của cư dân từ khắp
các làng quê lên Kinh thành buôn bán, sản xuất, nhưng qua thời gian cũng như sự
phát triển kinh tế - xã hội, cơng năng của đình có sự thay đổi. Bên cạnh số ít di tích
vẫn giữ được vẻ đẹp vốn có, rất nhiều đình làng - ngơi nhà chung trong phố cổ Hà
Nội đã bị lãng quên, và bị triệt để tận dụng, lấn chiếm, cải tạo, hủy hoại, làm biến
dạng các kiến trúc đặc sắc của đình, đến giờ rất nhiều ngơi đình là nơi ở của các hộ
dân sống chen chúc...


Đình Kiếm Hồ toạ lạc tại số 7 Hàng Vơi nơi thờ ông tổ nghề vôi và thờ vọng
Lê Lợi ngày nay là một ngôi nhà hiện đại cao hơn 10 tầng. Cịn đình Hoa Thị nằm
trên con phố Hàng Đào trước đây là nơi thờ cúng ông tổ nghề nhuộm chỉ cịn một
dấu tích duy nhất cịn sót lại là dịng Hán tự.
Ngơi đình Tử Dương ở số 8 Hàng Buồm nay biến thành một qn bar. Cịn
đình Hàng Quạt tại số 4 Hàng Quạt, trước đây thờ ông tổ nghề Quạt, do biến thiên
của lịch sử, phần hậu cung của đình nay đã biến thành nơi kinh doanh nhà nghỉ. Và
cịn nhiều ngơi đình khác cũng đang trong tình trạng tương tự.
Và nhiều ngơi đình khác đã phải biến mất để nhường chỗ cho những ngôi nhà
cao tầng và những thứ gì đó thiết thực hơn việc thờ cúng, hội họp.
Xưa kia, các đình tổ nghề đều có khơng gian, khn viên, trước mặt có ao, hồ.
Nay, chỉ thấy những nhà cao cửa rộng, cột điện, dây điện, biển quảng cáo, xe cộ,
người qua lại tấp nập. Những ngơi đình ấy đã khơng cịn các điều kiện cần thiết
cho sự tồn tại của nó.
Nạn xâm phạm khơng gian di tích lịch sử, trong đó có các ngơi đình, cùng với
nạn trùng tu vô tổ chức làm biến dạng di sản, sự thiếu quan tâm, thiếu hiểu biết
khiến cho di sản bị tách ra khỏi đời sống.
Phố cổ Hà Nội được bao quanh bởi những di tích và người dân sống nơi đây
là một phần linh hồn của Hà Nội. Nhưng khi Hà Nội trở nên đông đúc, quá tải thì
nhu cầu bảo tồn, gìn giữ, quy hoạch lại không gian khu phố cổ càng trở nên bức
thiết.

Hiện nay, đơ thị đang phát triển một cách nhanh chóng, kiến trúc của các ngơi
đình là yếu tố góp phần tích cực vào việc tạo ra sự đa dạng, phong phú cho bộ mặt
kiến trúc đô thị, tạo nét đặc trưng cho khu phố cổ. Nó tạo nên sự chuyển đổi không
gian mềm mại và uyển chuyển, tạo mối liên kết về hình ảnh của Quá Khứ - Hiện
Tại – Tương Lai.


Việc duy trì và gìn giữ các khơng gian kiến trúc và chức năng gốc của các
ngơi đình cịn gặp rất nhiều khó khăn thách thức, mà tiêu biểu là áp lực của sự phát
triển (tăng dân số, nhu cầu về nhà ở, nhu cầu tăng khả năng kinh tế, yêu cầu nâng
cấp hạ tầng kỹ thuật), sự thay đổi phương thức, lối sống của con người, và mâu
thuẫn giữa việc duy trì bảo tồn các giá trị kiến trúc truyền thống với sự phát triển
đô thị trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay.
Đình làng có lẽ sẽ là nơi để giáo dục di sản cho học sinh Hà Nội một cách
hiệu quả nhất. Khi được tìm hiểu, tiếp cận và trải nghiệm thực tế, học sinh sẽ được
nâng cao hiểu biết với những di tích đồng thời có thái độ và hành vi đúng đắn có ý
thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa của quê hương. Điều này
rất có ý nghĩa khi những giá trị truyền thống đang bị mất dần bởi một thành phố
đang dần hiện đại.
Hết



×