Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Điều chỉnh chính sách thương mại của trung quốc trước và sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

----------

TRẦN THỊ HỒNG NGÂN

ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
CỦA TRUNG QUỐC TRƯỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
Chuyên ngành: KTTG&QHKTQT
Mã số: 60 31 07

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS BÙI TẤT THẮNG

Hà Nội - 2008


LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài luận văn
Vào khoảng những năm 90 của thế kỷ XX, quá trình tồn cầu hóa bước vào thời
kỳ có những thay đổi mạnh mẽ. Hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước
lớn đều đã điều chỉnh chính sách kinh tế để phù hợp với q trình tồn cầu hóa nhanh
chóng. Q trình điều chỉnh đang tiếp tục sang những năm đầu của thế kỷ XXI. Việc
tổ chức lại cơ cấu kinh tế của các nước đã và đang thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển.
Cũng giống như các quốc gia, Trung Quốc đã có những điều chỉnh quan trọng trong
chính sách thương mại của mình để thích hợp với những thay đổi đó.
Sự điều chính chính sách thương mại của Trung Quốc phản ánh xu thế chung của


kinh tế thế giới, đó là xu thế tồn cầu hóa kinh tế. Điều này chịu sự tác động của tình
hình kinh tế, chính trị quốc tế và khu vực, đó là: chiến tranh lạnh kết thúc; các cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính diễn ra trong những năm 1990; sự phát triển nhanh
chóng của khoa học cơng nghệ; nhịp độ tồn cầu hóa tăng nhanh; chính trị thế giới và
quan hệ quốc tế nảy sinh những vấn đề mới… Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định:
“mục tiêu cải cách thể chế ở Trung Quốc là xây dựng thể chế thị trường xã hội chủ
nghĩa” và hội nhập kinh tế thế giới. Có thể nói, sự điều chỉnh chính sách thương mại ở
Trung Quốc từ sau năm 1986 (thời điểm Trung Quốc nộp đơn xin gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới) là sự tiếp nối công cuộc cải cách mở cửa bắt đầu từ năm 1978. Và
nhờ vậy, Trung Quốc đã có những bước tiến quan trọng mang tính đột phá trong việc
điều chỉnh chính sách kinh tế, bước đầu đã xây dựng được thể chế kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa, và đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới
năm 2001. Để phù hợp với những yêu cầu của WTO, Trung Quốc tiếp tục điều chỉnh
chính sách thương mại của mình để thực thi các cam kết sau khi gia nhập WTO.
Sự điều chỉnh trong chính sách thương mại nhằm đảm bảo cho nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, giải quyết những thách thức của tiến trình tồn cầu hóa đem lại. Chính
điều này đã đem lại cho Trung Quốc những thành cơng ngồi dự kiến. Sau 5 năm gia
nhập WTO, Trung Quốc ln là nước có mức tăng trưởng thương mại nhanh nhất thế
giới. Họ trở thành nước có giá trị thương mại lớn thứ 3 sau Liên minh châu Âu (EU)
và Mỹ; Kim ngạch mậu dịch từ chỗ chiếm 40% GDP trong năm 2001, đến năm 2006
chỉ tiêu này đã chiếm tới 80%...


3
Như vậy, vấn đề đặt ra là Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách của họ như thế
nào từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới để đạt được những thành công
như vậy? Và Việt Nam học hỏi được những gì từ kinh nghiệm điều chỉnh chính sách
thương mại tạo nên sự phát triển nhanh của Trung Quốc? Đặc biệt là sau khi Việt Nam
đã trở thành thành viên chính thức của WTO (11/2006) và lộ trình thực thi các cam kết
và quy định của WTO đang là vấn đề hoàn toàn mới, đặt ra các yêu cầu cấp thiết mà

chúng ta phải quan tâm. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Điều chỉnh chính sách
thương mại của Trung Quốc trước và sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO)” có ý nghĩa hết sức quan trọng và là một hướng nghiên cứu mới.
2. Tình hình nghiên cứu
Trung Quốc hiện đang được nhìn nhận như một nền kinh tế tăng trưởng năng động
nhất thế giới. Vì vậy, những nghiên cứu khơng chỉ của các tác giả Trung Quốc mà cả trên
toàn thế giới về nền kinh tế Trung Quốc nói chung, về sự điều chỉnh chính sách kinh tế
của Trung Quốc nói riêng là hết sức phong phú. Điển hình là những cơng trình như:
Ở nước ngoài: Supachai Panitchpakdi và Mark L.Cliford (2002) với: “Trung
Quốc và WTO - Trung Quốc đang thay đổi, thương mại thế giới đang thay đổi”;
Anderson K., Huang J., and Ianchovichina E (2004): “The impacts of WTO Accession
on Chinese Agriculture an Rural Poverty”. In Battasali, Li, Martin (eds). China and
the WTO: Accession, Policy Reform, and Poverty Reduction Strategies; Changhong
Pei (2005), “Analysis of China’s Foreign Trade Growth and Discussion of Related
Policies”, China & World Economy, Vol. 13, No. 2, pp. 26-38 v.v…
Ở Việt Nam: Cho đến nay, đã có một số cơng trình viết về sự điều chỉnh chính
sách kinh tế của Trung Quốc như: “Trung Quốc gia nhập WTO. Kinh nghiệm với Việt
Nam” (2005), của TS. Đỗ Tiến Sâm (Chủ biên) ;“Trung Quốc gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới - Thời cơ và thách thức” (2004), của PGS. TSKH. Võ Đại Lược
(Chủ biên); Dự án VIE 01/012 của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung Ương
(CIEM) và UNDP: “Chính sách phát triển kinh tế - Kinh nghiệm và bài học của Trung
Quốc”; “Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung Quốc (giai đoạn 1992-2010)”
(2004), của TS. Nguyễn Kim Bảo (Chủ biên) v.v…
Nhìn chung, các cơng trình trên đã phân tích về các nhân tố địi hỏi Trung Quốc
phải điều chỉnh chính sách kinh tế và tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO


4
đối với bản thân Trung Quốc trên các lĩnh vực: cải cách chính sách kinh tế vĩ mơ, cơ
cấu ngành kinh tế chủ chốt, khu vực doanh nghiệp, các vấn đề xã hội, hoàn thiện hệ

thống luật pháp và tác động đến các nền kinh tế trên thế giới. Như vậy, theo sự tìm
hiểu của tác giả, hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu riêng về sự điều chỉnh
chính sách thương mại của Trung Quốc trong q trình từ sau khi nước này nộp đơn
gia nhập WTO cho đến nay một cách chi tiết, hệ thống. Mặt khác, sau khi Việt Nam
chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới, việc điều chỉnh
chính sách thương mại của chúng ta sao cho phù hợp với tình hình mới là điều mà
khơng chỉ giới nghiên cứu quan tâm. Do đó, luận văn này được viết với mục đích tìm
hiểu những nội dung chính trong việc điều chỉnh chính sách thương mại của Trung
Quốc trước và sau khi gia nhập WTO và rút ra một số kinh nghiệm trong q trình
điều chỉnh chính sách thương mại mà Việt Nam có thể tham khảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh chính sách thương mại của
Trung Quốc trước và sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), luận văn
đề xuất một số khuyến nghị, gợi ý chính sách cho Việt Nam nhằm giảm những tác
động bất lợi từ quá trình hội nhập đem lại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu một số nội dung cơ bản về thương mại trong khuôn khổ WTO.
Thứ hai, xem xét q trình điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc
trước và sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Và,
Thứ ba, trên cơ sở đó, đưa ra một số gợi ý cho Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc trước và sau
khi ra nhập WTO.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu về quá trình điều chỉnh chính
sách thương mại của Trung Quốc.



5
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ khi Trung
Quốc nộp đơn gia nhập WTO (1986) đến khi gia nhập WTO (2001); và tư khi gia nhập
WTO đến năm 2007.
- Về không gian: Luận văn chỉ nghiên cứu về chính sách thương mại của Trung Quốc Đại
lục chứ không nghiên cứu thêm cả chính sách thương mại của Hồng Kơng, Ma Cao…
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân
tích quá trình điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc.
Bên cạnh đó, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp được sử dụng
nhằm làm nổi bật hiệu quả của q trình điều chỉnh chính sách thương mại ở Trung
Quốc trước và sau khi gia nhập WTO. Tác giả cũng sử dụng phương pháp so sánh để
cho biết Trung Quốc đã thành công đến đâu trong công cuộc điều chỉnh chính sách
thương mại và vị trí của quốc gia này trên thế giới. Đồng thời, luận văn sử dụng
phương pháp thống kê, thu thập, xử lý tài liệu như là một cơng cụ phân tích số liệu để
minh chứng cho các vấn đề nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn cũng còn sử dụng phương
pháp chuyên gia tức là tham khảo các ý kiến đánh giá của các chuyên gia kinh tế, đặc
biệt là các chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa q trình điều chỉnh chính sách thương mại của Trung
Quốc trước và sau khi gia nhập WTO, bước đầu đưa ra một số gợi ý cho Việt Nam.
7. Nội dung và kết cấu của đề tài
Ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 Chương sau
đây: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thương mại trong khuôn khổ WTO.
Trọng tâm của phần này là hệ thống hóa một số vấn đề liên quan đến những quy định
về thương mại và chính sách thương mại trong khn khổ của WTO.
Chương 2: Điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc để gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), chương này tập trung nghiên cứu những điều chỉnh
trong hệ thống các chính sách thương mại của Trung Quốc từ khi Trung Quốc nộp đơn
gia nhập WTO (1986) đến khi Trung Quốc được kết nạp vào WTO (tháng 11/2001).

Chương 3: Điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc để thực hiện
các cam kết với WTO và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam. Trong phần này,


6
luận văn sẽ tập trung phản ánh về quá trình điều chỉnh chính sách thương mại của Trung
Quốc từ sau khi gia nhập WTO (2001) và đưa ra những kinh nghiệm của Trung Quốc
trong q trình điều chỉnh chính sách thương mại mà Việt Nam có thể tham khảo.


7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI TRONG
KHUÔN KHỔ WTO.
1.1. Vài nét về Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
1.1.1. Khái quát về WTO
1.1.1.1. Giới thiệu về WTO
Nói một cách đơn giản, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là nơi đề ra những
quy định điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mơ tồn thế giới.
Trước tiên, WTO là một khn khổ để đàm phán. WTO là diễn đàn, nơi các quốc gia
thành viên thương lượng giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương
mại giữa họ. Bước giải quyết tranh chấp đầu tiên là thỏa thuận. WTO ra đời từ các cuộc
đàm phán và tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán.
Các hoạt động mà WTO đang xúc tiến hiện nay chủ yếu xuất phát từ những cuộc đàm
phán diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, mang tên vòng đàm phán Uruguay, và từ
những cuộc đàm phán trước đó trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT). Đối với những nước gặp phải những rào cản trong thương mại và
muốn vượt qua chúng, thì đàm phán góp phần thúc đẩy tự do hóa thương mại. Tuy nhiên
WTO khơng chỉ tập chung vào tự do hóa thương mại, trong một số trường hợp, WTO
còn đề ra những quy định ủng hộ việc duy trì rào cản thương mại, ví dụ như trong
trường hợp bảo vệ người tiêu dùng hay ngăn chặn sự lan tràn của một dịch bệnh nào đó.

WTO là tập hợp những quy định. Nịng cốt của tổ chức là các hiệp định WTO,
được phần lớn các cường quốc thương mại trên thế giới đàm phán và ký kết. Những văn
bản này tạo thành quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế. Đó chủ yếu là
những hợp đồng, theo đó chính phủ các nước cam kết duy trì chính sách thương mại
trong khuôn khổ những vấn đề đã thỏa thuận. Mặc dù do các chính phủ đàm phán và ký
kết, song mục tiêu của những hợp đồng này là giúp đỡ các nhà sản xuất hàng hóa, dịch
vụ cũng như các nhà sản xuất, nhập khẩu triển khai các hoạt động của mình, đồng thời
vẫn cho phép chính phủ các nước đáp ứng được những mục tiêu xã hội và môi trường.
Mục tiêu trọng tâm của hệ thống là góp phần tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
tự do hóa thương mại mà vẫn tránh được những tác hại không mong muốn. Đó là xóa
bỏ những rào cản, thơng báo những quy định thương mại hiện hành trên thế giới cho
các cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đồng thời đảm bảo với họ rằng sẽ


8
khơng có thay đổi đột ngột nào trong các chính sách đang được áp dụng. Nói cách
khác, các quy định phải “minh bạch” và dễ dự đoán…
Và cuối cùng, WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp. Đây chính là hoạt
động quan trọng thứ ba của WTO. Quan hệ thương mại thường làm nảy sinh những lợi
ích mâu thuẫn nhau. Tất cả các hiệp định, kể cả những hiệp định đã được các nước
thành viên WTO đàm phán một cách kỹ lưỡng, đều cần phải được giải thích. Cách tốt
nhất để giải quyết chanh chấp là đưa ra một thủ tục trung gian dựa trên cơ sở pháp lý
đã thỏa thuận. Đây chính là mục tiêu của q trình giải quyết chanh chấp nêu trong các
hiệp định của WTO.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm
1995, tại thời điểm đó, tổng số các Bên ký kết GATT là 128 nhưng chỉ có 76 nước
trong số này trở thành Thành viên WTO. Số còn lại sau thời điểm trên mới tham gia
WTO (12/1995). Hiện nay đã có 152 nước và vùng lãnh thổ tham gia tổ chức này,
chiếm 97% GDP và 85% giá trị thương mại hàng hóa và 90% giá trị thương mại dịch
vụ toàn cầu. Khác với GATT, trước kia chỉ bao quát thương mại hàng hóa, sau khi

thành lập, WTO đã mở rộng phạm vi điều tiết hoạt động thương mại toàn cầu từ lĩnh
vực chủ yếu là thương mại hàng hoá sang các lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ,
thương mại liên quan đến đầu tư và thương mại liên quan đến các quyền sở hữu trí
tuệ…WTO thúc đẩy q trình tự do hố thương mại tồn cầu theo các ngun tắc như:
minh bạch hóa chính sách thương mại, đối xử tối huệ quốc, thương mại không phân biệt
đối xử, đối xử quốc gia và mở của thị trường hàng hoá và thị trường dịch vụ để thương
mại tồn cầu phát triển thơng qua đàm phán. Mục đích của tổ chức này là thúc đẩy tự do
thương mại nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, nâng cao mức sống của người
dân thông qua việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan; xoá bỏ các loại trợ
cấp làm méo mó thương mại; nới lỏng các hạn chế về đầu tư; cho phép các dòng vốn
được tự do di chuyển giữa các quốc gia… cũng như các cơ quan giải quyết các tranh
chấp thương mại làm cho thương mại quốc tế minh bạch hơn và cơng bằng hơn.
1.1.1.2. Lược sử hình thành và phát triển
Tư tưởng về tự do thương mại do WTO theo đuổi có xuất xứ từ rất lâu. Tại Hội
nghị Bretton Woods, bang New Hamsphire, Hoa Kỳ năm 1944, cùng với sự ra đời của 2
tổ chức tài chính quốc tế là Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (nay gọi là Ngân


9
hàng Thế giới – World Bank – WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Money Fund
– IMF), một tổ chức chung về lĩnh vực thương mại cũng được đề xuất thành lập với tên
gọi Tổ chức Thương mại Quốc tế (International Trade Organization - ITO).
Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại
và Việc làm tại La Havana (Cuba) tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, do không được tất cả
các quốc hội của các nước phê chuẩn nên ITO, với tư cách là một tổ chức đã khơng thể
hình thành. Mặc dầu vậy, tinh thần cơ bản của Hiến chương ITO về điều chỉnh thương
mại quốc tế vẫn tồn tại thông qua sự hình thành định chế thương mại quốc tế Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Từ khi ra đời (1-1-1948 với 23 nước tham
gia thỏa thuận ban đầu), GATT đóng vai trị là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống
thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm (đến hết năm 1994). Các nước tham gia

GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Tại
vòng đàm phán thứ 8 của GATT khai mạc ở Punta del Este, Urugoay – Vòng đàm phán
Urugoay, bắt đầu năm 1986 và kết thúc vào năm 1994, các bên tham gia GATT đã nhất
trí thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc
và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý và mở rộng.
Tuy là một hiệp định có vai trị bao trùm trong đời sống thương mại quốc tế,
trong đó đề ra những nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế và những nguyên tắc
đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay, nhưng GATT lại chưa bao giờ là một tổ chức. Sự
điều hành GATT khiến người ta có cảm giác đây như là một tổ chức. GATT điều hành
các vòng đàm phán kéo dài nhiều năm, với sự tham gia của hàng chục quốc gia từ
khắp các châu lục. Do tầm vóc lớn lao của nó cũng như giá trị những khối lượng
thương mại mà nó điều tiết, GATT có riêng một Ban Thư ký để theo dõi, giám sát việc
thực hiện Hiệp định. Và để điễn tả hình thức tồn tại này của GATT, có người đã gọi
GATT là một “định chế”. Về điểm này, WTO không giống như GATT, vì WTO thực
sự là một tổ chức, ra đời thay thế GATT, nhằm thể chế hóa GATT, biến GATT thành
một tổ chức thực sự và có cơ cấu tổ chức hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Vì
thế mà các nước tham gia GATT chỉ được gọi là các “bên kí kết”, cịn các nước, các
bên tổ chức và vùng lãnh thổ tham gia WTO thì được gọi là “thành viên”.


10

Trong lịch sử tồn tại 47 năm của mình, GATT đã trải qua 8 vòng đàm phán với các nội dung cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Các vòng đàm phán của GATT
Trị giá
Chủ đề đàm phán
thương mại
được tính

Vịng đàm phán


Thời gian

Số nước

Geneva

1974

23

Thuế quan

Annecy

1949

33

Thuế quan

Torquay

1950

34

Thuế quan

Geneva


1956

22

Thuế quan

Dillon

1960 - 61

45

Thuế quan

10 tỷ USD
Khơng có số
liệu
Khơng có số
liệu
10 tỷ USD
Khơng có số
liệu
Khơng có số
liệu

Bình qn
cắt giảm
thuế quan
35%

35%
35%
35%
35%

Bình qn thuế
quan sau đó
Khơng có số
liệu
Khơng có số
liệu
Khơng có số
liệu
Khơng có số
liệu
Khơng có số
liệu

Thuế quan và các biện pháp chống
35%
8,7%
phá giá
Thuế quan, các biện pháp phi thuế
Tokyo
1973 - 79
99
2,5 tỷ USD
34%
6,3%
quan, các hiệp định khung thuế quan

Các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ,
Uruguay
1986 - 94
123
sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, 4,9 tỷ USD
38%
3,9%
nơng nghiệp, hàng dệt may, v.v...
Nguồn: Jonh H. Jackson. (Phạm Việt Phương và Huỳnh Văn Thanh dịch). Hệ thống thương mại thế giới – Luật và chính sách
về các quan hệ kinh tế quốc tế. NXB Thanh niên, 2001; tr.114.
Kenedy

1962 - 67

48


11
1.1.2. Vai trị của WTO
Mặc dầu khó tính tốn mức độ đóng góp của WTO, nhưng có thể khẳng định
rằng, sau hơn 10 năm thành lập, WTO đã có những đóng góp đáng kể đối với tăng
trưởng kinh tế, tăng trưởng thương mại và đầu tư, giải quyết nhiều vụ tranh chấp kinh
tế căng thẳng, góp phần ổn định thế giới. Gia nhập WTO đã trở thành xu thế phổ biến
đối với các nước trên thế giới.
1.1.2.1. Thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng của kinh tế - thương mại tồn cầu
WTO tạo ra một mơi trường chung lành mạnh cho phát triển thương mại tồn cầu
và qua đó đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Thông qua việc cắt giảm
thuế quan, phi thuế quan, cải cách thể chế thương mại theo hướng minh bạch, khơng
phân biệt đối xử, nhờ đó thúc đẩy sự trao đổi hàng hố, dịch vụ, vốn, cơng nghệ, lao
động trên phạm vi toàn cầu, tạo điều kiện cho sản phẩm phát triển nhanh hơn.

Trải qua 52 năm phát triển từ GATT đến WTO (1948-2000), thương mại hàng
hoá thế giới tăng 6%/năm, gấp 22 lần; sản xuất hàng hoá tăng 4%/năm, gấp 7 lần;
GDP bình quân đầu người tăng 2%/năm, gấp 3 lần. Đặc biệt từ sau khủng hoảng tài
chính ở Châu Á đến nay, thế giới đã chứng kiến một thời kỳ hồi phục kinh tế mới, như
nhận định của Diễn đàn kinh tế Thế giới tổ chức tại Davos (Thuỵ Sỹ) tháng 12/2006
với mức tăng trưởng kinh tế - thương mại cao và ổn định. Mức tăng trưởng kinh tế thế
giới bình quân giai đoạn 2002-2005 tăng 3%/năm, thương mại tăng 6,7%/năm.
Ngay sau khi kết thúc vòng đàm phán Urugoay, với sự ra đời của WTO, phạm vi
điều tiết của các hiệp định WTO đã được mở rộng đáng kể. WTO đã đạt được các hiệp
định về tự do hố các dịch vụ tài chính, viễn thơng và các sản phẩm công nghệ thông tin
– những lĩnh vực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế thế giới ngày nay.
1.1.2.2. Thể chế hóa khung khổ pháp lý, điều tiết thương mại toàn cầu
Các nguyên tắc và Hiệp định của WTO là luật chơi chung đối với các nước
tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Đây là định chế thương mại quan trọng nhất và có
hiệu lực nhất hiện nay. Sau năm 1995, WTO đã thể chế hố luật chơi chung của thế
giới mà trước đó chưa từng có. Chính vì vậy, gia nhập WTO là xu thế chung đặc biệt
đối với các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi.
Hiện nay có trên 40 tổ chức kinh tế thế giới và khu vực, WTO là tổ chức kinh tế
toàn cầu lớn nhất. Ngồi 152 thành viên chính thức, WTO cịn có gần 30 đối tác đang
đàm phán gia nhập. Như vậy, tổng số thành viên chính thức và quan sát viên WTO lên


12
tới 180 nước và vùng lãnh thổ, gần bằng số thành viên của Liên Hợp quốc (Liên Hợp
quốc có 192 thành viên). Thực tế qua hơn 10 năm thành lập, đến nay WTO đã mang
lại cơ hội phát triển cho các nước gia nhập, đặc biệt là các nước đang phát triển và các
nền kinh tế chuyển đổi. Trong WTO hiện nay có 110 thành viên là các nước đang và
chậm phát triển. Hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển đổi sau khi hệ thống XHCN
Đông Âu sụp đổ đã gia nhập WTO. Các nước khác như Cộng hoà Liên bang Nga,
Belarus, Kazakhstan, Uzebekistan, Lào đang đàm phán gia nhập. Thực tế cải cách kinh

tế của các nước có nền kinh tế chuyển đổi cho thấy, WTO đẩy nhanh quá trình chuyển
nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, làm cho các nước này nhanh chóng
thốt khỏi khủng hoảng và tăng trưởng kinh tế nhanh.
1.1.2.3. Góp phần duy trì ổn định kinh tế - chính trị thế giới
Có thể đánh giá thành cơng lớn nhất của WTO từ khi thành lập đến nay là góp
phần duy trì sự ổn định thế giới. WTO thể chế hố các quy định điều tiết kinh tế
thương mại tồn cầu theo các ngun tắc chung do đó tạo mơi trường thuận lợi cho
hợp tác và phát triển. WTO giải quyết vấn đề này thông qua việc giải quyết các xung
đột về quyền lợi kinh tế giữa các thành viên làm hạn chế tối đa khả năng xung đột về
quyền lợi kinh tế dẫn tới các xung đột về quân sự như đã từng xảy ra trong nửa đầu
của Thế kỷ XX. Để tăng cường vai trò này, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã
được ra đời và khơng ngừng phấn đấu hồn thiện. Số lượng các vụ kiện về tranh chấp
được giải quyết thông qua WTO ngày càng tăng chứng tỏ vai trò ngày càng lớn của tổ
chức này trong việc giải quyết tranh chấp thương mại tồn cầu.
Một đóng góp khác của WTO đối với ổn định thế giới là phát động được vòng
đàm phán Doha, trong đó dành quan tâm đặc biệt giải quyết các quyền lợi phát triển
của các nước đang và chậm phát triển. Sự cần thiết phải phát động vòng đàm phán mới
là do địi hỏi của q trình tồn cầu hố kinh tế với những đặc trưng mới, đặc biệt là
sau khủng hoảng tài chính châu Á; xử lý các vấn đề mới nảy sinh trong thương mại
quốc tế mà vòng đàm phán trước đó chưa giải quyết được liên quan đến lợi ích của các
nước đang phát triển như vấn đề trợ cấp nông nghiệp của các nước phát triển, vấn đề
thuế quan đối với hàng công nghiệp, mở cửa thị trường dịch vụ, tiêu chuẩn mơi
trường, sở hữu trí tuệ và đầu tư…; đối phó với nguy cơ khủng hoảng kinh tế sau vụ
khủng bố 11/9/2001 và sự trì trệ của nền kinh tế thế giới.


13
Theo tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng WTO tháng 9/2001 tại Doha, Quatar,
Vịng đàm phán Doha đã được chính thức phát động với một chương trình đàm phán
tự do hố thương mại nhằm đáp ứng lợi ích của các nước thành viên, đặc biệt là các

nước nghèo. Cho tới nay, trải qua hơn 6 năm với nhiều phiên đàm phán phức tạp, các
thành viên WTO vẫn chưa nhất trí về một số vấn đề trong Tuyên bố nói trên và không
thể kết thúc theo dự kiến. Tuy nhiên, đã đạt được một sự nhất trí về một số vấn đề
nhằm tự do hoá thương mại hơn nữa, đặc biệt quan tâm đến lợi ích của các nước đang
phát triển. Các hội nghị Bộ trưởng của Vòng Doha cho thấy vai trò của các nước đang
phát triển ngày càng được nâng cao trong các cuộc đàm phán.
1.1.2.4. Một số quan điểm khác về vai trò của WTO
Hiện nay vẫn còn một số Tổ chức (như Oxfam, Các tổ chức phi chính phủ NGOs…) có quan điểm tương đối khác về mục tiêu và đóng góp của WTO. Họ cho
rằng gia nhập WTO hiện nay của các nước thành viên mới là không công bằng. Nước
gia nhập sau luôn ở vị thế bất lợi và trên thực tế có nhiều trường hợp các nước thành
viên WTO đưa ra các yêu cầu quá cao trong quá trình đàm phán. Các nước phát triển
đang áp dụng một số biện pháp bảo hộ, trong một số trường hợp, trái với các nguyên
tắc thương mại tự do có lợi cho mình như trợ cấp nơng nghiệp, tiêu chuẩn môi trường,
áp thuế chống bán phá giá…
Một số quan điểm khác cho rằng tồn cầu hố hiện nay làm phân hoá sâu sắc hơn
chênh lệch giầu nghèo, phân chia lợi ích bất bình đẳng giữa các nước và các nhóm xã
hội, làm nảy sinh các vấn đề khác như ơ nhiễm mơi trường, xung đột văn hố, xã hội,
tồn cầu hố hiện nay là tồn cầu hố TBCN, phục vụ lợi ích cho các nước phát triển.
Quan điểm khác nhau về tồn cầu hố và tự do hoá thương mại là một thực tế
khách quan. Ngay cả trong nước Mỹ, nước được coi là thành viên sáng lập WTO, đại
diện cho xu thế tồn cầu hố, hai Đảng Dân chủ và đảng Cộng hồ cũng có quan điểm
khác nhau về tự do hoá thương mại. Trong khi, đảng Cộng hồ ủng hộ tư tưởng tự do
hố thương mại, thì đảng Dân chủ có xu hướng ủng hộ chính sách bảo hộ.
Tóm lại, mặc dù cịn có nhiều quan điểm khác nhau về vai trị và đóng góp của
WTO, tuy nhiên, như Peter Gallagher, tác giả cuốn sách “The first Ten Years of WTO:
1995-2005” nhận định: “Sau 10 năm thành lập, có thể thấy rõ ràng rằng, nếu khơng
có WTO, thị trường thế giới sẽ trở nên nhỏ bé hơn, cơ hội thương mại sẽ trở nên ít ỏi


14

hơn, sẽ có ít hơn các quốc gia thành cơng từ hội nhập và những nước chậm phát triển
sẽ có ít sự lựa chọn hơn cho sự phát triển của mình”.
1.2. Những quy định thương mại của WTO
1.2.1. Những nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại
Các hiệp định của WTO rất dài và phức tạp vì đó là những văn bản pháp lý quy
định rất nhiều lĩnh vực hoạt động như: nông nghiệp, hàng dệt may, hoạt động ngân
hàng, viễn thông, thị trường công, tiêu chuẩn công nghiệp, tính an tồn của sản phẩm,
quy định liên quan đến an toàn vệ sinh của sản phẩm, sở hữu trí tuệ, và cịn rất nhiều
lĩnh vực khác nữa… Tuy nhiên, có một số nguyên tắc đơn giản và cơ bản là kim chỉ
nam cho tất cả các lĩnh vực này, và trở thành nền tảng của hệ thống thương mại đa biên.
1.2.1.1. Thương mại không phân biệt đối xử
 Quy chế tối huệ quốc (MFN – Most Favoured Nation): đối xử bình đẳng với
các nước khác.
Theo các hiệp định của WTO, về nguyên tắc, các quốc gia không thể phân biệt
đối xử với các đối tác thương mại của mình. Nếu bạn trao cho một nước nào đó một
đặc quyền thương mại (ví dụ như giảm thuế nhập khẩu đối với một số các sản phẩm
của nước này) thì bạn cũng phải đối xử tương tự như vậy với tất cả các thành viên còn
lại của WTO. Đây là ngun tắc quan trọng vì nó được quy định ngay tại điều đầu tiên
của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Nguyên tắc này dùng để
chỉ sự không phân biệt đối xử. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc Tối huệ quốc là: Mỗi
thành viên phải đối xử với các thành viên khác trong tổ chức một cách công bằng, như
những đối tác thương mại “ưu tiên nhất”. Nếu một nước dành cho một đối tác thương
mại của mình một số ưu đãi thì nước đó phải đối xử tương tự như vậy với tất cả các
thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia đều “được ưu tiên nhất”.
 Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT – National Treatment): đối xử bình đẳng
giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa.
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (dành cho các nước khác chế độ đãi ngộ tương tự
như chế độ đãi ngộ trong nước) chỉ ra rằng: hàng nhập khẩu và hàng nội địa phải được
đối xử bình đẳng, ngay sau khi hàng nhập khẩu đã thâm nhập vào thị trường. Nguyên
tắc này cũng được áp dụng đối với lĩnh vực dịch vụ, thương hiệu, bản quyền, bằng

sáng chế nước ngoài cũng như trong nước. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia cũng được thể


15
hiện trong cả 3 hiệp định chính của WTO (Điều 3 của GATT, Điều 17 của GATS và
Điều 3 của TRIPS).
1.2.1.2. Tự do hóa thương mại: từng bước và bằng con đường đám phán
Một trong những biện pháp hiển nhiên nhất nhằm khuyến khích mậu dịch là
giảm bớt các rào cản thương mại, ví dụ như hàng rào thuế quan và những chiêu bài
như cấm nhập khẩu hay hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế định lượng nhập khẩu.
Theo định kỳ, những vấn đề khác như thủ tục hành chính rườm rà và các chính sách
hối đối cũng được đưa ra xem xét. Thời kỳ đầu, các vòng đàm phán của GATT chủ
yếu xoay quanh vấn đề cắt giảm thuế áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu. Sang đến
thập niên 1980, phạm vi đàm phán đã được mở rộng, bao trùm cả những vấn đề liên
quan tới hàng rào bảo hộ phi thuế quan cản trở thương mại hàng hóa, rồi cả những lĩnh
vực mới như thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
Mở cửa thị trường có thể đem lại nhiều lợi nhuận, nhưng nó cũng địi hỏi phải
có một số điều chỉnh nhất định. Các hiệp định của WTO cho phép các quốc gia thành
viên từng bước thay đổi chính sách của mình, thơng qua “lộ trình tự do hóa từng
bước”. Các nước đang phát triển thường được hưởng một thời hạn dài hơn trong việc
thực hiện nghĩa vụ.
1.2.1.3. Dễ dự đoán: nhờ ràng buộc cam kết cùng chính sách minh bạch
Có lẽ đơi khi lời hứa không tăng thêm rảo cản cũng quan trọng không kém lời
hứa giảm rào cản thương mại, bởi vì điều này giúp doanh nghiệp thấy được rõ hơn khả
năng phát triển của mình trong tương lai. Chính sách ổn định và minh bạch sẽ khuyến
khích đầu tư, tạo việc làm; người tiêu dùng cũng tận dụng được nhiều lợi thế từ tự do
cạnh tranh, nghĩa là họ có thêm nhiều cơ hội lựa chọn và được hưởng một mức giá
thấp. Hệ thống thương mại đa biên cụ thể hóa những nỗ lực của chính phủ các quốc
gia thành viên nhằm tạo một môi trường thương mại ổn định và dễ dự đoán.
Đối với WTO, việc các quốc gia thành viên thỏa thuận mở cửa thị trường hàng

hóa hay dịch vụ đồng nghĩa với việc ràng buộc các cam kết. Trong lĩnh vực hàng hóa,
ràng buộc cam kết thể hiện ở mức ấn định mức thuế suất tối đa. Hiện nay, trong lĩnh
vực nông nghiệp, tất cả hàng nông sản đều được áp dụng mức thuế ràng buộc. Nhờ
vậy thị trường trở nên ổn định hơn rất nhiều đối với các bên đàm phán cũng như với
các nhà đầu tư.


16
WTO đã rất nỗ lực trong việc sử dụng nhiều biện pháp khác nhằm tăng cường tính
minh bạch và ổn định. Rất nhiều hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ các quốc gia
thành viên công bố trên phạm vi tồn quốc hoặc thơng báo cho WTO những giải pháp và
biện pháp được thông qua. Việc thường xuyên giám sát chính sách thương mại của từng
nước thành viên thơng qua Cơ chế Rà sốt chính sách thương mại cũng là một biện pháp
nhằm tăng cường tính minh bạch trên cả bình diện quốc gia lẫn bình diện thế giới.
1.2.1.4. Thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng
Một số người cho rằng WTO là một thể chế mậu dịch tự do, nhưng điều này
khơng hồn tồn chính xác. Hệ thống này cho phép áp dụng thuế nhập khẩu, thậm chí
trong một số trường hợp nhất định, nó cịn cho phép áp dụng một số hình thức bảo hộ
khác. Như vậy sẽ là chính xác hơn nếu nói rằng đây là một hệ thống những quy định
nhằm đảm bảo cạnh tranh mở, bình đẳng và khơng có sai phạm.
Những quy định liên quan đến nguyên tắc không phân biệt đối xử cũng như quy
định về việc bán phá giá và trợ cấp nhằm mục tiêu đảm bảo những điều kiện thương mại
bình đẳng. Đối với những vấn đề phức tạp như thế này, các quy định của WTO giúp xác
định trường hợp nào là bình đẳng và trường hợp nào là khơng bình đẳng, cũng như biện
pháp trả đũa mà chính quyền có thể sử dụng, bằng cách thu thuế nhập khẩu phụ thu để
có thể bù đắp những tổn thất do các biện pháp thương mại khơng lành mạnh gây ra.
WTO cũng có nhiều hiệp định khác nhằm tăng cường cạnh tranh bình đẳng,
như trong lĩnh vực nơng nghiệp, sở hữu trí tuệ và dịch vụ. Hiệp định về chi tiêu chính
phủ mở rộng các quy định về cạnh tranh đối với những thị trường có sự tham gia của
hàng nghìn thực thể có tư cách “chính phủ” tồn tại trong nhiều quốc gia.

1.2.1.5. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế
Hệ thống của WTO góp phần vào q trình phát triển của các quốc gia. Tuy
nhiên, các nước đang phát triển cần một thời hạn linh động hơn trong việc thực hiện
các hiệp định của hệ thống. Bản thân các hiệp định của WTO ngày nay cũng đều lấy
lại những điều lệ của GATT trước đây, theo đó quy định việc dành một sự trợ giúp đặc
biệt và các chính sách thương mại thuận lợi cho các nước đang phát triển.
Các nước đang phát triển và các nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm
hơn ¾ số nước thành viên của WTO. Trong suốt gần tám năm hoạt động của Vòng đàm
phán Urugoay, hơn 60 nước trong số các nước này đã triển khai một cách tự chủ các
chương trình tự do hóa trong lĩnh vực thương mại. Cũng tại vòng đàm phán này, các nước


17
đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã giữ vai trị tích
cực và có trọng lượng hơn so với những vịng đàm phán trước, và hiện nay, trong khn
khổ Chương trình Doha về phát triển, vai trò này còn được tăng cường hơn nữa.
Kết thúc Vòng đàm phán Urugoay, các nước đang phát triển đã được động viên
đảm đương phần lớn những nghĩa vụ thuộc phận sự của các nước phát triển. Tuy
nhiên, các hiệp định cũng đề ra một số thời hạn cho các nước đang phát triển, đặc biệt
là các nước nghèo có thể dần dần thích nghi trong thời kỳ chuyển đổi với những điều
khoản không mấy phổ biến, và thậm chí cịn khó hơn cả Hiệp định về WTO. Một
quyết định cấp bộ trưởng được thông qua tại các cuộc đàm phán cũng quy định rằng
các nước giầu phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện cam kết cho phép hàng hóa của các
nước kém phát triển thâm nhập thị trường nước mình, ngồi ra các nước kém phát
triển cũng được hưởng một sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật ngày càng tăng. Mới đây, các
nước phát triển đã bắt đầu đồng ý miễn thuế nhập khẩu và không áp dụng hạn ngạch
đối với hầu hết các sản phẩm đến từ các nước kém phát triển.
1.2.2. Các chính sách thương mại trong WTO
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hoạt động dựa trên các luật lệ và thể hiện
qua các hiệp định đã được đàm phán.

1.2.2.1. Khái quát chung
Các hiệp định của WTO điều chỉnh thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và
sở hữu trí tuệ. Chúng đề ra những nguyên tắc về tự do hóa và những ngoại lệ được phép
áp dụng; nêu lại cam kết của từng nước về giảm thuế quan và các rào cản thương mại
khác, về mở cửa và duy trì mở cửa thị trường dịch vụ; quy định thủ tục giải quyết tranh
chấp; quy định các nước đang phát triển phải được đối xử đặc biệt; buộc các chính phủ
phải đảm bảo minh bạch trong chính sách thương mại bằng cách thơng báo cho WTO
biết những luật lệ hiện hành và các biện pháp được áp dụng trong nước, song song với
các báo cáo định kỳ của Ban thư ký về chính sách thương mại của các nước.
Các hiệp định này thường được gọi là các luật lệ thương mại của WTO và
WTO thường được miêu tả là một hệ thống hoạt động dựa trên các luật lệ. Luận văn sẽ
tập trung phân tích các quy định thương mại của WTO trong các hiệp định của vòng
đám phán Urugoay, nền tảng của toàn bộ hệ thống WTO hiện nay. Hiện WTO đang
tiến hành một số cuộc đàm phán bổ sung trên cơ sở những quyết định của các Hội nghị


18
Bộ trưởng, đặc biệt là Hội nghị Bộ trưởng Doha tháng 11-2001, hội nghị khởi động
cho những cuộc đàm phán mới.
Việc giải quyết tranh chấp dựa trên các hiệp định và cam kết cùng với việc xem
xét một cách công khai các chính sách thương mại chính là nền tảng của WTO.
Tóm lại, cấu trúc cơ bản của các hiệp định WTO nhằm mục đích kết hợp hài
hịa sáu lĩnh vực chính (Hiệp định khung về WTO, hàng hóa, dịch vụ, sở hữu trí tuệ,
giải quyết tranh chấp và đánh giá chính sách thương mại), được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1.2: Cấu trúc các Hiệp định của WTO
Khuôn khổ
Hàng hóa
Các nguyên tắc cơ bản
GATT
Chi tiết bổ sung

Các hiệp định
khác và phụ lục
liên quan đến
hàng hóa
Các cam kết về mở cửa Danh mục cam
thị trường
kết của các nước

Dịch vụ
GATS
Các phụ lục liên quan
đến dịch vụ

Sở hữu trí tuệ
TRIPS

Danh mục cam kết của
các nước (và các lĩnh
vực được miễn áp
dụng nguyên tắc MFN)
Giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp
Đảm bảo sự minh bạch Kiểm tra chính sách thương mại của các nước thành viên
Một số hiệp định quan trọng khác không được nêu trong bảng trên: đó là hai
hiệp định (liên quan đến máy bay dân sự và chi tiêu chính phủ), được “nhiều bên”
(không phải là tất cả các thành viên của WTO) ký kết.
Các hiệp định trên đôi khi được đàm phán lại và có thể được bổ sung bằng
những hiệp định mới. Hiện nay, nhiều hiệp định đang được đàm phán trong khn khổ
Chương trình Doha về phát triển (chương trình được các Bộ trưởng Thương mại của
các nước thành viên WTO phát động tại Doha (Qatar) vào tháng 11 – 2001).

1.2.2.2. Quy định về Thuế quan
Kết quả quan trọng nhất của Vịng đàm phán Urugoay chính là 22.500 trang
danh mục cam kết của các nước đối với một số loại hàng hóa và dịch vụ cụ thể, nhất là
các cam kết giảm thuế và “xác định mức thuế trần” đối với nhập khẩu hàng hóa. Trong
một số trường hợp, thuế quan được giảm xuống cịn khơng. Đồng thời có thêm rất
nhiều mức thuế “trần”, tức là những mức thuế đã được cam kết tại WTO và các nước
khó có thể nâng trở lại.


19
Các nước phát triển chấp nhận giảm từng bước phần lớn thuế quan trong vòng
năm năm kể từ ngày 1-1-1995. Kết quả là thuế nhập khẩu đối với sản phẩm công
nghiệp của các nước này đã giảm 40%, từ trung bình 6,3% xuống cịn 3,8%. Và giá trị
các sản phẩm công nghiệp được nhập khẩu vào các nước phát triển mà không phải
chịu thuế sẽ tăng mạnh, từ mức 20% lên tới 44%.
Đồng thời, số lượng sản phẩm phải chịu thuế suất cao sẽ giảm đi. Nói chung, tỷ
lệ các sản phẩm nhập khẩu vào các nước phát triển phải chịu thuế suất cao hơn 15% sẽ
giảm từ 7% xuống cịn 5%. Tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu của các nước đang phát triển
sang các nước cơng nghiệp hóa đang phải chịu thuế suất trên 15% sẽ giảm từ 9%
xuống còn 5%.
Kết quả của Vòng đàm phán Urugoay đã được đẩy lên một bước. Ngày 26-31997, 40 nước, chiếm hơn 92% giá trị bn bán tồn cầu các sản phẩm công nghệ
thông tin, đã thỏa thuận giảm thuế nhập khẩu và các loại thuế khác đánh vào các sản
phẩm này từ lúc này đến năm 2000 (đến 2005 đối với một số trường hợp). Tương tự
như đối với các cam kết thuế quan khác, mỗi nước tham gia thỏa thuận sẽ áp dụng
đồng nhất cam kết của mình đối với hàng hóa nhập khẩu của tất cả các nước thành
viên WTO, ngay cả với những nước thành viên chưa đưa ra cam kết.
Các nước phát triển đã gia tăng số lượng hàng hóa nhập khẩu phải chịu mức
thuế trần, từ 78% lên đến 99% các loại mặt hàng. Các nước đang phát triển cũng tăng
thêm không kém từ 21% lên tới 73%. Mức tăng của các nước có nền kinh tế chuyển
đổi, là từ 73% lên 98%. Như vậy là đối với các doanh nhân và nhà đầu tư, thị trường

đã trở nên an toàn hơn rất nhiều.
Thuế quan đánh vào tất cả các sản phẩm nông nghiệp hiện đều ở mức “trần”.
Hầu hết các biện pháp hạn chế nhập khẩu khác, như quota chẳng hạn, đều được
chuyển thành thuế suất. Đây cịn được gọi là q trình “thuế hóa”, giúp nâng cao rõ rệt
khả năng dự báo đối với các thị trường sản phẩm nông nghiệp. Những cam kết về mở
cửa thị trường trong lĩnh vực nông nghiệp cũng dẫn đến việc xóa bỏ cấm nhập khẩu
đối với một số hàng hóa.
Ngồi ra, các danh mục này cũng nêu lại cam kết của các nước giảm hỗ trợ
trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp.
1.2.2.3. Quy định về nông nghiệp


20
Vòng đàm phán Urugoay đã cho ra đời hiệp định đa phương đầu tiên về lĩnh
vực nông nghiệp, bao gồm cam kết tiếp tục cải tổ trên cơ sở tiến hành các cuộc đàm
phán mới. Hiệp định này đánh dấu một bước phát triển đáng kể, hướng tới lập lại trật
tự và cạnh tranh lành mạnh.
Hiệp định về nông nghiệp có mục tiêu cải cách thương mại trong lĩnh vực nơng
nghiệp và củng cố vai trị của thị trường trong việc định hướng thực thi các chính sách.
Điều này sẽ giúp nâng cao khả năng phán đoán và mức độ an toàn cho các nước nhập
khẩu cũng như cho các nước xuất khẩu.
Hiệp định về nông nghiệp cho phép các chính phủ được hỗ trợ cho khu vực
nơng thơn, nhưng nên bằng những biện pháp tác động tối thiểu đến cạnh tranh. Hiệp
định cũng tỏ ra mềm dẻo đối với việc triển khai các cam kết. Các nước đang phát triển
không bị buộc phải giảm trợ cấp hoặc thuế suất bằng với mức của các nước phát triển
và lại có thêm thời gian để thực hiện các cam kết của mình. Tại vịng đàm phán
Urugoay, các nước đã thỏa thuận được về mức độ giảm trợ cấp và bảo hộ đối với sản
phẩm nông nghiệp như sau:
Bảng 1.3: Mức độ giảm trợ cấp và bảo hộ sản phẩm nông nghiệp
Các nước phát triển

Các nước đang phát triển
6 năm (1995-2000)
10 năm (1995-2005)
Thuế quan
Mức giảm trung bình đối
với tất cả các sản phẩm
-36%
-24%
nông nghiệp
Mức giảm tối thiểu đối với
-15%
-10%
mỗi sản phẩm
Hỗ trợ trong nước
Giảm tổng mức hỗ trợ đối
với toàn bộ lĩnh vực (giai
-20%
-13%
đoạn được tính làm cơ sở:
1986-1990)
Xuất khẩu
Giá trị trợ cấp
-36%
-24%
Khối lượng được trợ cấp
(giai đoạn được tính làm cơ
-21%
-14%
sở: 1986-1990)
Các nước kém phát triển không phải đưa ra cam kết nào về giảm thuế hoặc

giảm trợ cấp. Cơ sở để tính mức độ giảm thuế là thuế suất trần trước ngày 1-1-1995,
hoặc đối với những mức thuế chưa được cam kết, thì là thuế suất được áp dụng thực tế
vào tháng 9-1986, khi bắt đầu vòng đàm phán Urugoay.


21
Nguyên tắc mới đối với mở cửa thị trường nông nghiệp là “chỉ áp dụng thuế
quan mà thơi”. Trước Vịng đàm phán Urugoay, việc nhập khẩu một số hàng nông sản
bị hạn chế bởi các hạn ngạch và các biện pháp phi thuế quan khác. Tuy nhiên, các biện
pháp này đã được thay thế bằng thuế quan. Thuế quan cho phép bảo đảm một mức bảo
hộ tương đương: nếu biện pháp trước đây sẽ làm tăng 75% giá hàng hóa trên thị
trường nội địa so với giá trên thị trường thế giới, thì thuế suất mới áp dụng có thể lên
đến 75%. Hiệp định cũng quy định rằng những hàng hóa đã được nhập khẩu trước khi
Hiệp định có hiệu lực có thể vẫn tiếp tục được nhập khẩu và, nhờ vào một hệ thống
“hạn ngạch thuế quan”, hiệp định bảo đảm sẽ không áp dụng mức thuế quá cao đối với
một lượng hàng hóa nhập khẩu bổ sung nào đó.
Những cam kết mới về thuế quan và hạn ngạch thuế quan được áp dụng cho tất
cả các sản phẩm nơng nghiệp và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1995. Các nước tham gia
Vòng đàm phán Urugoay đã thỏa thuận rằng các nước phát triển sẽ giảm trung bình
36% thuế (còn đối với thường hợp sử dụng hạn ngạch thuế quan, thì phải giảm mức
thuế suất cao nhất đánh vào lượng hàng hóa vượt quá hạn ngạch) chia đều trong các
năm. Các nước đang phát triển sẽ giảm thuế 24% trong 10 năm.
Đối với những sản phẩm trước kia bị hạn chế bằng hạn ngạch nay bị đánh thuế,
các nước được phép áp dụng những biện pháp khẩn cấp đặc biệt nhằm bảo về nông
dân trước việc giá cả sụt giảm đột ngột hay việc hàng nhập khẩu tăng mạnh. Tuy
nhiên, hiệp định cũng nêu rõ khi nào và như thế nào thì các biện pháp khẩn cấp này có
thể được áp dụng (ví dụ như các biện pháp này không được áp dụng đối với hàng nhập
khẩu theo chế độ hạn ngạch thuế quan).
Mặt khác, các nước buộc phải giảm bớt những biện pháp có tác động trực tiếp
tới sản xuất và trao đổi hàng hóa. Các nước phát triển đã chấp nhận giảm 20% trong

vòng sáu năm kể từ năm 1995. Các nước đang phát triển thì cam kết giảm 13% trong
vòng 10 năm. Các nước kém phát triển không bị bắt buộc phải giảm.
Về trợ cấp xuất khẩu, Hiệp định về nông nghiệp cấm việc trợ cấp cho xuất khẩu
nông sản, trừ phi chúng được nêu rõ trong các danh mục cam kết của các nước thành viên.
Trong trường hợp đó, các nước sẽ bị buộc phải giảm đồng thời mức trợ cấp và khối lượng
hàng hóa xuất khẩu được trợ cấp. Với cơ sở là mức trợ cấp trung bình của giai đoạn 19861990, các nước phát triển chấp nhận giảm 36% giá trị các khoản trợ cấp xuất khẩu trong
vòng 6 năm kể từ năm 1995 (24% trong vòng 10 năm đối với các nước đang phát triển).


22
Các nước phát triển cũng thỏa thuận giảm 21% khối lượng hàng hóa xuất khẩu được trợ
cấp trong vịng 6 năm (14% trong vòng 10 năm đối với các nước đang phát triển). Cịn
các nước kém phát triển khơng cần phải có bất cứ cam kết gì về vấn đề này.
1.2.2.4. Các quy định về tiêu chuẩn, kỹ thuật và an toàn
Điều 20 Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) cho phép các
nước được can thiệp vào trao đổi hàng hóa nhằm bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con
người và động vật hoặc bảo tồn các lồi thực vật, với điều kiện các nước khơng được
phân biệt đối xử và không được lạm dụng nhằm bảo hộ trá hình. Ngồi ra, WTO có
riêng hai hiệp định điều chỉnh mức độ an toàn của lương thực, sức khỏe và sự an toàn
cho các loài động thực vật, cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật đối với một số sản phẩm.
Thứ nhất, các quy tắc nền tảng về vấn đề này đã được nêu trong Hiệp định về
các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS - Sanitary and Phytosanitary Standards) một hiệp định chuyên biệt về an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ đối
với động thực vật. Hiệp định cho phép các nước xây dựng cho mình những tiêu chuẩn
riêng song cũng quy định các tiêu chuẩn này phải có căn cứ khoa học. Các quy định về
vệ sinh dịch tễ chỉ có thể được áp dụng trong chừng mực cần thiết để bảo vệ sức khỏe
của con người và các loài động thực vật. Hiệp định cịn có các điều khoản về thủ tục
kiểm tra, giám định và công nhận độ an tồn. Chính phủ các nước phải thơng báo
trước những quy định mới hoặc được sửa đổi về vệ sinh dịch tễ mà mình sẽ áp dụng và
thiết lập một cơ sở thông tin quốc gia.
Thứ hai, Hiệp định về những rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT Technical Barries to Trade) có mục đích làm sao để các quy định pháp luật, tiêu chuẩn

và quy trình thử nghiệm không gây ra những trở ngại không cần thiết.
Hiệp định thừa nhận quyền của các nước được đưa ra những chuẩn mực mà họ cho
là thích hợp, chẳng hạn để bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người và động vật, để
bảo tồn các loài thực vật, bảo vệ môi trường hay các quyền lợi khác của người tiêu dùng.
Hiệp định cũng bao gồm một bộ luật ứng xử quy định việc soạn thảo, thông qua
và áp dụng các tiêu chuẩn của các cơ quan trung ương của các nước thành viên. Trong
hiệp định này cịn có các quy định về cách thức các cơ quan địa phương và các tổ chức
phi chính phủ được áp dụng các quy định riêng của mình: nói một cách tổng quát thì
họ phải tuân thủ các nguyên tắc được áp dụng cho các cơ quan trung ương.


23
Hiệp định quy định rằng các quy trình đánh giá liệu một sản phẩm có tuân thủ
các tiêu chuẩn của một nước hay không phải được tiến hành một cách công bằng và
thỏa đáng. Hiệp định quy định không áp dụng các phương pháp thiên vị đối với các
sản phẩm trong nước. Hiệp định cũng khuyến khích các nước cơng nhận các quy trình
thử nghiệm của nhau. Như thế thì một sản phẩm có thể được đưa ra thử nghiệm ngay
trong nước sản xuất nhằm đánh giá xem liệu nó có tuân thủ các tiêu chuẩn của nước
nhập khẩu hay không.
Các nhà sản xuất và xuất khẩu cần phải được biết về các tiêu chuẩn mới được
ban hành tại những thị trường mà họ đang tìm cách thâm nhập. Để việc tiếp cận các
thông tin này được dễ dàng, các nước thành viên WTO phải thiết lập các cơ sở thông
tin quốc gia.
1.2.2.5. Về dệt may
Cũng giống như nông sản, hàng dệt may là một trong những nội dung đàm phán
gay gắt nhất tại WTO cũng như trong hệ thống GATT trước kia. Hiện nay, hàng dệt may
đang ở trong giai đoạn thay đổi căn bản, trải dài trong 10 năm theo một lịch trình đã
được đặt ra tại Vịng đàm phán Urugoay. Hệ thống các hạn ngạch nhập khẩu, từng thống
trị buôn bán trong lĩnh vực này từ đầu những năm 1960, nay đang dần được xóa bỏ.
Từ năm 1974 đến cuối Vòng đàm phán Urugoay, thương mại sản phẩm dệt chịu

sự điều chỉnh của Hiệp định Đa sợi (MFA). Hiệp định này tạo khung pháp lý cho việc
thiết lập các hạn ngạch nhập khẩu trên cơ sở các thỏa thuận song phương hoặc bằng
các biện pháp đơn phương, nhằm hạn chế nhập khẩu vào các nước mà ngành sản xuất
có nguy cơ bị đình đốn do sự lan tràn của hàng nhập khẩu.
Các hạn ngạch là phần nổi nhất của hệ thống này. Chúng đi ngược lại nguyên tắc
chung của GATT – đó là khuyến khích áp dụng thuế quan hơn là các biện pháp hạn chế
định lượng. Chúng cũng tạo nên một ngoại lệ đối với nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa
tất cả các đối tác thương mại trong hệ thống của GATT, bởi chúng quy định rõ khối
lượng hàng hóa mà nước nhập khẩu có thể chấp nhận đối với từng nước xuất khẩu.
Các nước đã xây dựng một lịch trình xóa bỏ hạn ngạch nhập khẩu đánh vào hàng
dệt may thành bốn giai đoạn trong vòng 10 năm (và đưa ngành này hòa nhập vào hệ
thống các quy định của GATT), cũng như tiến trình nới rộng những hạn ngạch hiện nay.


24
Bảng 1.4: Lịch trình xóa bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với dệt may

Giai đoạn

Giai đoạn 1:
1/1/1995 - 31/12/1997

Tỷ lệ hàng hóa phải đưa
vào hệ thống GATT (kể
cả những hàng hóa mà
hạn ngạch nhập khẩu bị
xóa bỏ)
6% (tỷ lệ tối thiểu tính
trên hàng hóa nhập khẩu
năm 1990)


Hệ số gia tưng của các
hạn ngạch còn lại, nếu
hệ số áp dụng năm
1994 là 6%

6,96% mỗi năm

Giai đoạn 2:
17%
8,7% mỗi năm
1/1/1998 – 31/12/2001
Giai đoạn 3:
48%
11,05% mỗi năm
1/1/2002 – 31/12/2004
Giai đoạn 4: 1/1/2005
Đưa những hạn ngạch cuối
cùng vào hệ thống GATT (tỷ
49% (tối đa)
Xóa bỏ hồn tồn
lệ tối đa và xóa bỏ hồn tồn
các hạn ngạch). Hiệp định
Dệt may chấm dứt hiệu lực.
Công thức áp dụng trên thực tế đối với việc tăng hàng nhập khẩu chịu hạn ngạch là
như sau: 0,1 x hệ số gia tăng trước năm 1995 đối với giai đoạn đầu; 0,25 x hệ số gia
tăng giai đoạn 1, đối với giai đoạn 2; và 0,27 x hệ số gia tăng giai đoạn 2, đối với giai
đoạn 3.
1.2.2.6. Về dịch vụ
Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) là tập hợp đầu tiên và duy

nhất những quy định đa biên điều chỉnh thương mại dịch vụ thế giới. Được đàm phán
trong Vòng đàm phán Urugoay, hiệp định được soạn thảo trong bối cảnh ngành dịch
vụ đạt mức tăng trưởng nhanh chóng trong vịng 30 năm qua và đang có thêm nhiều
tiềm năng phát triển nhờ cuộc cách mạng thông tin.
Dịch vụ là lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế thế giới; chiếm 60%
sản xuất trên toàn thế giới, tạo ra 30% việc làm và chiếm gần 20% giá trị thương mại.
Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) bao gồm ba phần: Văn bản
chính của hiệp định nêu ra những nghĩa vụ và quy định chung; Phần phụ lục bao gồm
các quy định được áp dụng cho các lĩnh vực khác nhau; và Cam kết cụ thể của các
nước nhằm đảm bảo mở cửa thị trường nội địa, kể cả những chỉ dẫn đối với trường
hợp các nước tạm thời từ bỏ nguyên tắc không phân biệt đối xử, nền tảng của nguyên
tắc tối huệ quốc.


25
Hiệp định chung về Thương mại và dịch vụ (GATS) được áp dụng cho tất cả
các loại dịch vụ được trao đổi trên thế giới, chẳng hạn như các dịch vụ ngân hàng, viễn
thông, du lịch, các dịch vụ chuyên nghiệp…
Theo nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN), trong khuôn khổ của GATS, nếu một
nước mở cửa một lĩnh vực cho cạnh tranh nước ngồi thì nước đó sẽ phải dành cơ hội
đồng đều cho các nhà cung ứng dịch vụ của tất cả các nước thành viên WTO. (Nguyên
tắc này được áp dụng ngay cả khi một nước không đưa ra cam kết cụ thể nào về mở
cửa thị trường của mình cho các cơng ty nước ngồi trong khn khổ WTO).
Cam kết của các nước về mở cửa thị trường nội địa và mức độ mở cửa trong
các lĩnh vực cụ thể chính là kết quả của các cuộc đàm phán. Các cam kết này được liệt
kê lại trong các “danh mục” các ngành mở cửa, mức độ mở cửa đối với mỗi ngành
(những hạn chế đối với sự tham gia của đối tác nước ngoài được nêu rõ nếu cần) và
các hạn chế có thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Những cam kết này được
quy định rõ ràng và được “ràng buộc”: cũng giống như các mức thuế quan “trần” trong
thương mại hàng hóa, các cam kết trong thương mại dịch vụ chỉ có thể được thay đổi

sau khi đã thương lượng với các nước liên quan. Do rất khó bị phá vỡ, các cam kết này
chính là sự đảm bảo đối với điều kiện hoạt động của các nhà xuất khẩu nước ngoài,
các nhà nhập khẩu dịch vụ trong nước cũng như các nhà đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ.
Các dịch vụ cơng được loại ra khỏi hiệp định và khơng có quy định nào của
GATS buộc các cơ quan công quyền phải tư nhân hóa các ngành cơng nghiệp dịch vụ.
GATS cũng không cấm độc quyền của Nhà nước và độc quyền của tư nhân.
Ngoại lệ này tạo thành một cam kết rõ ràng từ phía các chính phủ thành viên
WTO cho phép dùng công quỹ tài trợ cho các dịch vụ trong những lĩnh vực cơ bản
thuộc trách nhiệm của các chính phủ. Trong hiệp định, các dịch vụ cơng được định
nghĩa là các dịch vụ được cung ứng không mang tính thương mại hay cạnh tranh với
các nhà cung ứng dịch vụ khác. Các dịch vụ này không chịu sự điều chỉnh của GATS,
chúng không được đưa ra đàm phán, và các cam kết về mở cửa thị trường và đãi ngộ
quốc gia không được áp dụng cho các loại dịch vụ này.
Theo cách tiếp cận của GATS đối với các cam kết, các nước thành viên không
buộc phải đưa ra cam kết về tất cả các ngành dịch vụ. Một chính phủ có thể khơng
muốn cam kết về mức độ cạnh tranh nước ngoài trong một ngành nhất định, bởi họ
cho rằng đó là một chức năng cơ bản của chính phủ hoặc vì bất cứ lý do gì khác.


×