Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

ĐÀM NHÂN ÁI

Môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế ở Việt Nam
LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: Trần Nguyễn Tuyên

Hà nội - 2005


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..........................................................................................1
1. Sự cần thiết của đề tài .........................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .....................................................................4
6. Những đóng góp mới của luận văn......................................................4
7. Bố cục của luận văn ............................................................................5
CHƢƠNG 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
VÀ MÔI TRƢỜNG SINH THÁI ...............................................................6
1.1 Tổng quan về hội nhập kinh tế quốc tế .............................................6
1.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế ................................................................6
1.1.2 Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến các nước đang
phát triển.................................................................................................7
1.2 Hội nhập kinh tế và các vấn đề mơi trƣờng ......................................9
1.2.1 Phát triển bền vững dưới góc độ môi trường trong điều kiện hội


nhập kinh tế quốc tế ................................................................................9
1.2.2 Mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và môi trường. ...........14
1.3 Bài học kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới. ......................22
1.3.1 Trung Quốc ..................................................................................22
1.3.2 Thái Lan ......................................................................................28
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM ..............................30
2.1. Một số khía cạnh kinh tế - mơi trƣờng của Việt Nam trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ................................................30
2.1.1. Chủ trương và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam .30

i


2.1.2. Phát triển kinh tế và tác động của nó tới mơi trường trong q
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam .........................................35
2.1.3. Các vấn đề kinh tế - môi trường cấp bách ở Việt Nam hiện nay ..51
2.2. Đánh giá thực trạng giải quyết các vấn đề môi trƣờng trƣớc yêu
cầu phát triển bền vững .........................................................................53
2.2.1. Các chính sách mơi trường của Việt Nam liên quan đến phát triển
kinh tế ...................................................................................................53
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế ...........................................................56
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM .......60
3.1. Vấn đề kinh tế môi trƣờng trong Chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2010 ..............................................................60
3.1.1. Chiến lược bảo vệ môi trường ở nước ta giai đoạn 2001-2010 ....60
3.1.2. Dự báo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tác động đến môi trường
trong thời gian tới ....................................................................................68
3.2. Một số giải pháp nhằm bảo vệ mơi trƣờng trong q trình hội
nhập kinh tế quốc tế ...............................................................................71

3.2.1 Hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách Nhà nước ở tầm vĩ mơ ..71
3.2.2. Hồn thiện cơ chế quản lý – chính sách và biện pháp về mơi
trường và thương mại ...........................................................................73
3.2.3 Hồn thiện hệ thống chính sách và luật pháp bảo vệ mơi trường ..74
3.2.4. Hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về thương mại nhằm
góp phần bảo vệ mơi trường và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. .........................................................................................................78
KẾT LUẬN ................................................................................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................87

ii


PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Hội nhập kinh tế quốc tế hiện là một xu thế vận động tất yếu của các nền
kinh tế thế giới trong điều kiện tồn cầu hố ngày càng diễn ra mạnh mẽ dưới
tác động của cách mạng khoa học cùng với sự phát triển nhanh chóng của
thương mại, đầu tư và sự mở rộng của các công ty xuyên quốc gia. Hội nhập
kinh tế quốc tế đang trở thành một trong những đặc trưng chủ yếu chi phối đời
sống kinh tế của các quốc gia, khu vực và thế giới. Kinh nghiệm lịch sử cho
thấy, khơng một quốc gia nào có thể phát triển được với một nền kinh tế khép
kín (khơng có sự tham gia hội nhập kinh tế). Làn sóng hội nhập kinh tế quốc tế
thực sự mới được thúc đẩy đặc biệt mạnh mẽ kể từ nửa đầu những năm 90, khi
chiến tranh lạnh kết thúc, mở ra một giai đoạn mới của sự hợp tác và phát triển.
Nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển vì mục tiêu
phát triển lâu dài của mình đã tích cực tham gia và cổ vũ cho làn sóng hội nhập
kinh tế này. Đối với các nước đang và kém phát triển trong đó có Việt Nam thì
hội nhập kinh tế quốc tế là con đường phù hợp để rút ngắn tụt hậu so với các

nước khác. Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ có thể tranh thủ
được các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát huy tối ưu những lợi thế so sánh
của mình trong phân cơng lao động và hợp tác quốc tế.
Trong hơn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam thực hiện
chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với chủ trương xây dựng nền kinh
tế mở cửa, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Đảng
và Nhà nước ta đã khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là một bộ phận trong
tổng thể quan hệ Đổi mới - Hội nhập - Phát triển bền vững. Đại hội lần thứ IX
của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế hiện
nay là “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.
Nước ta thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập và tăng trưởng kinh tế đã mang lại những chuyển biến tích cực,
đặc biệt là thay đổi và nâng cao chất lượng và mức sống của các nước đang phát
triển. Tuy nhiên sự tăng trưởng diễn ra không đồng đều và nhiều nơi trên thế
giới vẫn đang trong mức nghèo khổ. Các nghiên cứu và thực tế cho thấy: hệ
thống kinh tế và hệ thống mơi trường có sự liên quan mật thiết hỗ trợ nhau song

1


cũng tạo ra những mâu thuẫn lớn. Đây là một trong những mâu thuẫn lớn rất
khó giải quyết khơng chỉ ở Việt Nam mà còn là vấn đề lớn trên thế giới.
Thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy các vấn đề liên quan đến môi trường
như ô nhiễm, dịch bệnh, biến đổi khí hậu tồn cầu, chất độc hại v.v... có ngun
nhân chính từ “sự phát triển kinh tế khơng tính tới các hậu quả mơi trường” ln
đe doạ sức khoẻ của con người và hệ sinh thái. Các nguồn tài nguyên thiên
nhiên như đất đai, nước, rừng... đang bị suy thoái ở mức báo động tại các nước
này. Môi trường hiện nay đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu. Tuy nhiên giải

pháp cho các vấn đề môi trường này ở các nước phát triển và đang phát triển có
sự khác nhau.
Ngày nay các nước đang phát triển ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề
môi trường, đặc biệt là về những ảnh hưởng do ô nhiễm, suy thoái và cạn kiệt
tài nguyên đối với khả năng phát triển bền vững. Các nước đang phát triển hiện
vẫn đang tiếp tục phải trả những chi phí về xã hội, kinh tế và con người cho
những hậu qủa môi trường để lại. Thiệt hại kinh tế của việc suy thối mơi
trường ước tính chiếm tới 4 - 8% trong tổng sản phẩm quốc dân hàng năm của
nhiều nước đang phát triển. Quan điểm về phát triển “tăng trưởng trước, môi
trường sau” hay “tăng trưởng bằng mọi giá” hiện nay đã chứng tỏ sẽ mang lại
những phí tổn rất lớn.
Phát triển bền vững là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội
lồi người, vì vậy đã được tồn thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương
trình nghị sự 21 và thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường
và Phát triển năm 1992 tại Brazil.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, tình hình kinh tế xã hội nước ta đã
có những bước phát triển với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm
khoảng trên 7%. Nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi theo hướng hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, quá trình phát triển này cũng làm
nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến môi trường.
Theo đánh giá của các nhà kinh tế môi trường, hai vấn đề môi trường nổi
bật hiện nay đang được quan tâm nhiều trên thế giới và Việt Nam là sự cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên và tình trạng ô nhiễm môi trường có chiều hướng gia
tăng mạnh trong những năm gần đây.
Mặc dù chính phủ Việt Nam đã tham gia chương trình nghị sự 21 về phát
triển bền vững, tuy nhiên trong những năm tới Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh quá
trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, điều này cũng có nghĩa là

2



chúng ta phải quan tâm giải quyết các vấn đề môi trường phục vụ cho mục tiêu
phát triển bền vững.
Trong bối cảnh đó, việc đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến môi trường sinh thái của Việt Nam và đưa ra các giải pháp để chúng ta vừa
có thể hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đồng thời vẫn bảo vệ được môi
trường là hết sức cần thiết để đạt được mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Trong thời gian qua, đã có một số các bài viết và cơng trình nghiên cứu
về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế và các tác động của nó xét theo khía cạnh
mơi trường nhằm mục tiêu nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn mơi
trường trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Một số trong số
đó là:
- Bộ Thương mại, Viện nghiên cứu thương mại (1999), Nhiệm vụ nhà
nước về bảo vệ môi trường: Cơ sở khoa học giải quyết mối quan hệ giữa chính
sách thương mại và chính sách mơi trường nhằm phát triển thương mại bền
vững ở Việt Nam;
- Một số dự án của Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện nay đang được
triển khai về vấn đề môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Các dự án, chương trình nghiên cứu nhằm đưa Tiêu chuẩn mơi trường
như là một điều khoản bắt buộc đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu trên mới chỉ đề cập hoặc các vấn đề
mơi trường nói riêng hoặc các tiêu chuẩn môi trường đặt ra trong hoạt động
thương mại mà chưa xem xét tới khía cạnh của sự tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế đến mơi trường. Vì vậy nghiên cứu đánh giá về khía cạnh này là một
mục tiêu đúng đắn và cần thiết. Đây là lý do chủ yếu để tôi lựa chọn đề tài
nghiên cứu: “Mơi trường sinh thái trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam”.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và tác
động của nó đến mơi trường, xem xét thực trạng của vấn đề này ở Việt Nam,

3


luận văn đề xuất những giải pháp chính sách nhằm giải quyết những vấn đề môi
trường liên quan đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế và môi trường sinh
thái, mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và môi trường sinh thái.

-

Phân tích kinh nghiệm của quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề
mơi trường trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế và rút ra những bài học
tham khảo đối với Việt Nam.
Phân tích thực trạng mơi trường của Việt Nam, làm rõ một số tác
động chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế đến môi trường của Việt Nam.
Định hướng và xây dựng một số giải pháp nhằm giải quyết mối
quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề môi trường, nhằm đảm bảo phát
triển bền vững.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Đối tượng nghiên cứu: Hội nhập kinh tế quốc tế và các vấn đề môi
trường liên quan đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,

các ảnh hưởng và phương án giải quyết các vấn đề môi trường của Việt Nam
trong thời gian gần đây.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình nghiên cứu để giải quyết nội dung của đề tài, luận văn sử
dụng các phương pháp dựa trên các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ
thống; điều tra kết hợp với ý kiến chuyên gia.
6. NHỮNG ĐĨNG GĨP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Hệ thống hố và đánh giá phân tích về những lý luận về tác động
của hội nhập kinh tế quốc tế đối với môi trường
Đánh giá tổng quan về thực trạng, giải pháp và các chính sách
nhằm giải quyết các vấn đề về mơi trường của Việt Nam trong q trình hội
nhập kinh tế quốc tế.

4


So sánh và đánh giá những thành tựu và hạn chế của Việt Nam so
với một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới trong việc giải quyết các vấn
đề môi trường.
Định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và gìn giữ phát triển mơi trường sinh thái để đảm bảo
phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Luận văn được kết cấu thành 3 chương (ngoài phần mở đầu và kết luận)
Chương 1: Mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và môi trường sinh
thái.

Chương 2: Một số vấn đề về mơi trường trong q trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp bảo vệ mơi trường trong q
trình hội nhập kinh tế của Việt Nam

5


CHƢƠNG 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
VÀ MÔI TRƢỜNG SINH THÁI
1.1 TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện là một xu thế vận động tất yếu của các nền
kinh tế thế giới trong điều kiện tồn cầu hố ngày càng diễn ra mạnh mẽ dưới tác
động của cách mạng khoa học, đặc biệt là công nghệ thông tin và sinh học. Cùng
với sự phát triển nhanh chóng của thương mại, đầu tư và sự mở rộng của các
công ty xuyên quốc gia, gia tăng lực lượng sản xuất, … dẫn tới sự thay đổi sâu
sắc cơ cấu sản xuất, phân phối, tiêu dùng và thúc đẩy q trình quốc tế hố, xã
hội hố nền kinh tế. Hơn thế nữa, nó thúc đẩy nhanh, mạnh quá trình tham gia
của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Hội nhập kinh tế
quốc tế hiện đang trở thành một trong những nhân tố quan trọng chi phối đời
sống kinh tế của các quốc gia, khu vực và thế giới. Đây là một trong những đặc
điểm quan trọng tạo ra sự liên kết ngày càng gắn kết giữa các quốc gia và khu
vực. Các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế đã được
hình thành và hồn chỉnh nhằm phục vụ cho q trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ đó việc hợp tác và tạo lập hành lang pháp luật chung trong lĩnh vực kinh tế để
các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề kinh tế lớn mà khơng
một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Hiện tại, xu thế hội nhập, tiến
trình hình thành hành lang pháp lý chung đã và đang được tiến hành theo một số

hướng lớn sau:
Xu hƣớng tăng cƣờng hợp tác đa phƣơng: Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) thành lập ngày 1/1/1995 là kết quả của Vòng đàm phán Urugoay kéo
dài suốt tám năm (1986-1994). Sự ra đời của tổ chức này nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển của thương mại thế giới, là sự kế thừa của Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT, 1947). Hiện nay, WTO có 148 thành viên, chiếm
85% tổng thương mại hàng hoá và 90% thương mại dịch vụ tồn cầu. Theo xu
hướng phát triển chung ngày càng có nhiều nước xin gia nhập WTO [18]. Trung
Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới, cũng đã gia nhập WTO vào 2001 và sự
kiện này tác động không nhỏ đến kinh tế thương mại thế giới. Việt Nam hiện
đang trong quá trình đàm phán để được gia nhập WTO.

6


Xu hƣớng tự do hoá và khu vực hoá: biểu hiện của xu hướng này là sự
hình thành các “Khu vực thương mại tự do” và các “Thoả thuận thương mại khu
vực” gia tăng nhanh chóng với mức độ ưu đãi và tự do hoá thương mại cao hơn
quy chế Tối huệ quốc. Xu hướng này tạo ra những thay đổi lớn trong cục diện
thương mại giữa các nước trong khu vực và trên Thế giới. Trong những năm gần
đây, làn sóng tự do hố thương mại diễn ra sơi động chưa từng có trên Thế giới
với khoảng 250 hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực đã được
thơng báo cho WTO. Trong số đó 130 hiệp định được thơng báo sau 1/1995. Tính
đến cuối năm 2005, các hiệp định thương mại tự do đang được đàm phán và nếu
được ký kết thì tổng số hiệp định thương mại tự do có hiệu lực có thể lên đến 300
hiệp định [18].
Thƣơng mại dịch vụ đóng vai trị quan trọng trong thƣơng mại thế
giới: sự thay đổi công nghệ và cơ cấu kinh tế sẽ biến trao đổi dịch vụ thành một
hình thức thương mại quan trọng trong thế kỷ 21. Sự thay đổi này có một ý nghĩa
đặc biệt vì dịch vụ là một bộ phận chi phí trong sản xuất hàng hố và các dịch vụ

khác. Bên cạnh đó, vấn đề sở hữu trí tuệ cũng sẽ trở thành nội dung chính trong
đàm phán thương mại song phương và đa phương.
Sự tăng cƣờng chính sách bảo hộ với các rào cản thƣơng mại hiện đại:
các nước ngày càng có xu hướng ít sử dụng những biện pháp bảo hộ mang tính lộ
liễu như áp đặt lệnh cấm, hạn chế số lượng hoặc áp đặt thuế suất nhập khẩu cao.
Thay vào đó, các biện pháp bảo hộ được lồng vào những lý do chính đáng như để
bảo vệ những ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương mại
không lành mạnh, bảo vệ sức khoẻ con người, kiểm sốt chất lượng, mơi trường,
quy định về an tồn thực phẩm, điều kiện lao động, kiểm sốt dịch bệnh, chống
bán phá giá, chống trợ cấp, ghi nhãn hàng hố.
1.1.2 Tác động của q trình hội nhập kinh tế quốc tế đến các nƣớc đang phát
triển.
Nhu cầu tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn Thế giới trước hết bắt
nguồn từ các nước cơng nghiệp phát triển, vì thế họ thường ở thế mạnh và áp đặt
các luật định và có xu hướng mong muốn tạo ra một thế giới theo hình dạng của
họ. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, khi mà các yếu tố sản xuất đã được quốc
tế hố một cách sâu sắc, khơng một quốc gia nào có thể đạt được tăng trưởng
kinh tế với tốc độ cao nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển mà khơng tham gia
vào q trình hội nhập kinh tế quốc tế. Q trình này cũng ln gắn liền với cải

7


cách cơ cấu kinh tế của mỗi nước dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các
nước.
Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế giới mới đảm bảo phân phối lợi ích công
bằng hơn, hợp lý hơn. Cùng với việc gia nhập Liên hợp quốc và đặc biệt là trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, các nước sẽ có quyền có
tiếng nói chính thức, thể hiện lập trường của mình về chương trình nghị sự kinh

tế tồn cầu.
Ngồi những lợi ích đã đề cập, việc tham gia vào quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế quốc tế cịn mang lại những cơ hội cho các nước, đó là tiếp cận được
với một thị trường rộng lớn để có thể tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. Việc thu hút
các nguồn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn viện trợ phát triển của các
nước và các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc
tế, tiếp nhận những công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý thông qua các dự án
đầu tư cũng là những cơ hội lớn mang lại cho mỗi nước.
Tuy nhiên, như đã đề cập, trong q trình tồn cầu hố, những nước phát
triển thường là những nước đề ra luật chơi, nên đi kèm với những cơ hội và lợi
ích là những khó khăn, đặc biệt đối với những nước đang phát triển, kinh tế cịn
yếu kém, doanh nghiệp quy mơ nhỏ bé, sức cạnh tranh thấp và trình độ cơng nghệ
và quản lý cịn thấp. Một trong những mặt trái của q trình này là sự phụ thuộc,
dễ bị tổn thương đối với nền kinh tế khi bị ảnh hưởng của kinh tế nước ngoài.
Một số biểu hiện chung thể hiện sự chi phối của các nước “lớn” lên nền kinh tế
của các nước đang và kém phát triển như:
Một là, sau một số năm tham gia tồn cầu hố, nợ nần của các nước đang
phát triển càng thêm chồng chất, hơn thế nữa ở một số nước gánh nặng nợ đã
kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế, điển hình là Braxin, Argentina, Indonesia,
v.v…
Hai là, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đang phát triển phụ
thuộc rất lớn vào xuất khẩu, nhưng khối lượng xuất khẩu lại tuỳ thuộc vào lợi ích
của các nước nhập khẩu và độ mở cửa của thị trường các nước “lớn”, phụ thuộc
vào sự ổn định của thị trường thế giới, do vậy chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, khó
lường trước.
Ba là, cùng với sự phát triển của kỹ thuật, sử dụng các công nghệ cao tiết
kiệm lao động, tài nguyên, sự lớn mạnh của kinh tế tri thức trong đó sở hữu trí
8



tuệ mới là sở hữu mang lại sự giàu có, thì những cái được coi là lợi thế của các
nước đang phát triển như tài nguyên thiên nhiên, chi phí lao động thấp đang ngày
càng bị mất đi hoặc bị các nước lớn lợi dụng, ưu thế về công nghệ và quản lý của
các nước phát triển lại tăng lên.
Bốn là, các nền kinh tế đang phát triển chưa đủ lực để đối mặt với “chu kỳ
kinh doanh”. Khi chu kỳ kinh doanh xảy ra, các nước phát triển có nhiều hình
thức quỹ phúc lợi để đối phó với thất nghiệp và phá sản các doanh nghiệp. Trong
khi đó các nền kinh tế đang phát triển, thực lực và kết cấu tư bản trong nước còn
thấp kém, nên chu kỳ kinh doanh nhiều khi đồng nghĩa với đói nghèo, bất ổn về
an ninh, chính trị và xã hội.
Năm là, nhiều nước đang phát triển đang và sẽ vấp phải những vấn đề về ô
nhiễm môi trường, tài nguyên bị khai thác q mức, sự bất bình đẳng về chuyển
giao cơng nghệ và gia tăng thất nghiệp, v.v…
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, khơng một quốc gia nào có thể phát triển
được với một nền kinh tế khép kín (khơng có sự tham gia hội nhập kinh tế). Làn
sóng hội nhập kinh tế quốc tế thực sự mới được thúc đẩy đặc biệt mạnh mẽ kể từ
nửa đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, mở ra một giai đoạn mới
của sự hợp tác và phát triển.
Nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển vì mục tiêu
phát triển lâu dài của mình đã tích cực tham gia và cổ vũ cho làn sóng hội nhập
kinh tế này. Đối với các nước đang và kém phát triển trong đó có Việt Nam thì
hội nhập kinh tế quốc tế là con đường phù hợp để rút ngắn tụt hậu so với các
nước khác. Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ có thể tranh thủ
được các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát huy tối ưu những lợi thế so sánh của
mình trong phân cơng lao động và hợp tác quốc tế.
1.2 HỘI NHẬP KINH TẾ VÀ CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƢỜNG

1.2.1 Phát triển bền vững dƣới góc độ mơi trƣờng trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
Kinh tế học là ngành khoa học ra đời từ lâu và đạt được những thành tựu

nghiên cứu, ứng dụng to lớn. Có thể nói, cuộc sống của con người trên hành tinh
này có được những bước tiến vượt bậc và hiện đại như ngày nay là nhờ vào
những phát kiến có tính quyết định của ngành khoa học này. Đến nay, tuy vẫn tồn
tại nhiều học thuyết kinh tế khác nhau, song những kết quả nghiên cứu theo các

9


học thuyết này đang được tiếp tục áp dụng nhằm không ngừng phát triển nền kinh
tế của các quốc gia và toàn thế giới. Như vậy, với sự phát triển kinh tế dựa trên
cơ sở các học thuyết này, cuộc sống của con người đang được cải thiện. Trong
quá trình nghiên cứu, chính những nhà kinh tế đã sớm chỉ ra rằng, song song với
phát triển kinh tế phải chú trọng tới bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, mãi tới vài
chục năm trở lại đây, một loạt vấn đề môi trường với quy mô khác nhau mới
được phát hiện và nghiên cứu một cách khoa học. Trước đây, các thành phần môi
trường cũng đã được nghiên cứu ở các ngành khoa học riêng như : Sinh vật học
(nghiên cứu sinh quyển), Khí tượng học (nghiên cứu khí quyển), Địa lý, Địa chất
(nghiên cứu thạch quyển) hay Thuỷ văn học (nghiên cứu thuỷ quyển). Hiện nay,
theo nghiên cứu của các nhà khoa học, nhiều vấn đề môi trường không nằm trọn
trong lĩnh vực nghiên cứu của một ngành khoa học cụ thể nào mà có quan hệ với
rất nhiều ngành khác kể cả khoa học tự nhiên và xã hội. Suy thối chất lượng mơi
trường sống (ơ nhiễm mơi trường, thủng tầng ơzơn, gia tăng khí nhà kính trong
khí quyển, …) và suy giảm, suy thoái tài nguyên với cường độ cao đang là những
vấn đề mang tính tồn cầu.
Sau một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới vào các năm
50 – 80 của thế kỷ XX, các nước đã nhận thấy rằng: thước đo về kinh tế chưa
phản ánh đầy đủ sự phát triển, và đưa ra nhiều chỉ số đánh giá khác như chỉ số
phát triển con người (HDI),.v.v… Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, sự gia tăng
nhanh chóng dân số thế giới trong những thập niên trước đã gây ra các áp lực đến
môi trường dẫn đến sự xem xét và đánh giá lại các mối quan hệ: con người và

khả năng chịu đựng của trái đất; phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Chúng
ta đã biết được rằng nguồn tài nguyên của trái đất không phải là vô tận, khơng thể
khai thác hay thống trị theo ý mình; khả năng đồng hố chất thải trong mơi
trường là có giới hạn, nên việc cần thiết là phải tính tốn đến lợi ích chung của
cộng đồng, của các thế hệ tương lai và các chi phí mơi trường cho sự phát triển.
Tất cả những yêu cầu trên dẫn đến sự ra đời một xu hướng mới trong quan niệm
về phát triển, đó là: “Phát triển bền vững”.
Khái niệm “Phát triển bền vững” được đưa ra vào năm 1992 trong hội nghị
“Thượng đỉnh về Môi trường” các nước trên thế giới tại Rio De Janeiro (Brazil).
Từ đó đến nay, Phát triển bền vững luôn được coi như một mục tiêu phấn đấu của
tất cả các quốc gia, dân tộc, của các nền kinh tế trên Thế giới.

10


CễNG NGHỆ SẠCH

SẢN PHẨM SẠCH

ÍT / KHễNG PHẾ THẢI

MƠI TRƢỜNG
SẠCH HƠN
Hỡnh 1: Sự tác động của cụng nghệ lên môi trƣờng sinh thỏi

Hỡnh 2: Phỏt triển kinh tế gắn liền với bảo
vệ môi trƣờng = phỏt triển bền vững

11



Phát triển bền vững có thể được đánh giá thơng qua nhiều thước đo và chỉ
số khác nhau như: chính trị, kinh tế, thơng tin, văn hố, xã hội… Theo F. Castri,
tác giả của “Điểm tựa của phát triển bền vững – The chair of sustainable
development”, sự phát triển bền vững có thể đặc trưng bằng ba độ đo chủ yếu:
kinh tế, mơi trường, xã hội và văn hố [4].
Độ đo kinh tế: tính trên giá trị GDP hoặc GNP. Tuy nhiên với cách tính
này, để phát triển kinh tế phải tiêu tốn tài nguyên và tạo ra các chất thải độc hại.
Do vậy trong độ đo này cần phải tính đến việc hạn chế tối đa nhu cầu tiêu thụ tài
nguyên không tái tạo và mức độ tái sinh tài nguyên, vật liệu từ các chất thải. Bên
cạnh các giá trị bình quân GDP, GNP, cần quan tâm đến sự chênh lệch các giá trị
đó ở các tầng lớp dân cư khác nhau.
Độ đo xã hội: trong giai đoạn hiện nay, phát triển bền vững đã trở thành
chiến lược chung của Liên hiệp quốc và các quốc gia trên thế giới. Do vậy phát
triển bền vững và bảo vệ mơi trường là mục tiêu mang tính chất chính trị của tất
cả các quốc gia trên thế giới. Phát triển bền vững địi hỏi sự tự do của cơng dân
về các thơng tin về kế hoạch phát triển của Chính phủ và chất lượng môi trường
họ đang sống, và sự cơng bằng về các quyền lợi như có việc làm, đảm bảo các
quyền lợi kinh tế và xã hội khác, giảm bớt sự chênh lệch người giầu nghèo.
Độ đo môi trường: đánh giá thông qua chất lượng các thành phần mơi
trường khơng khí, nước, đất, sinh thái; mức độ duy trì các nguồn tài nguyên tái
tạo; việc khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên không tái tạo; nguồn
vốn của xã hội dành cho các hoạt động bảo vệ mơi trường; khả năng kiểm sốt
của chính quyền đối với các hoạt động kinh tế xã hội tiềm ẩn các tác động tiêu
cực đối với môi trường.

12


Hệ Kinh tế


Phỏt
triển
Hệ Xó hội

bền vững

Hệ Tự nhiờn

Hình 3. Tương tác giữa ba hệ thống Tự nhiên - Kinh tế - Xã hội
và phát triển bền vững
Như vậy chất lượng về mơi trường chính là một trong những trụ cột và
một phần không thể tách rời trong phát triển bền vững. Bởi nếu chỉ đơn thuần
nhấn mạnh mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, và đặt mục tiêu phát triển kinh tế là
duy nhất thì thế hệ tương lai sẽ phải chịu những thiệt thòi do những hành động
của con người gây ra trong hôm nay.
Sự quan trọng của vấn đề môi trường trong phát triển bền vững là nội
dung chủ yếu trong chương trình nghị sự của nhiều hội nghị quốc tế, mà phải kể
đến là Hội nghị Rio-92 tổ chức ngày 3/6/1992 tại Rio De Janeiro (Brazil) với chủ
đề “Hội nghị Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển” đã thu hút được sự
tham gia của 172 quốc gia và nhiều tổ chức chính phủ và phi chính phủ. Trước
Hội nghị Rio-92 đã có hai văn kiện quan trọng:
Báo cáo của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (WCED) do
Thủ tướng Na Uy làm chủ tịch có tiêu đề “Tương lai chúng ta”. Trong
tài liệu xuất bản năm 1987 này, WCED đã lần đầu đưa ra ý tưởng về
phát triển bền vững.

13



Sách “Cứu lấy trái đất” do ba tổ chức UNEP, WWF, IUCN biên soạn
với sự tham gia của trên 200 nhà khoa học môi trường thế giới, xuất
bản năm 1991. Trong sách nêu lên các nguyên tắc để xây dựng một xã
hội phát triển bền vững và cá hành động bổ sung cho cuộc sống bền
vững.
Hội nghị Rio đã đưa ra tun bố về mơi trường và phát triển tóm tắt trong
những điểm sau:
Học thuyết trách nhiệm cộng đồng đòi hỏi các chính phủ phải hành
động để ngăn ngừa sự cố mơi trường khơng tính đến việc có luật hay
khơng.
Ngun lý phịng ngừa cho rằng phịng tránh sự cố mơi trường có lợi
hơn xử lý ơ nhiễm mơi trường nếu để cho chúng xảy ra.
Nguyên lý công bằng giữa các thế hệ, địi hỏi sự cơng bằng, sự đáp ứng
nhu cầu về tài nguyên và môi trường của thế hệ hôm nay với thế hệ
tương lai.
Nguyên lý người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các thiệt hại do ô nhiễm
gây ra.
Nguyên lý người sử dụng phải trả tiền cho các giá trị tài nguyên và môi
trường đã mất đi trong quá trình sử dụng.
1.2.2 Mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và môi trƣờng.
1.2.2.1 Các tác động tích cực
Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường tốt hay xấu phụ
thuộc vào chính sách phát triển kinh tế và bảo vệ mơi trường của từng quốc gia,
khu vực và rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu. Kết quả của các hoạt động này thể
hiện tính hiệu quả của các chính sách phát triển. Xu thế tồn cầu hố và sự hội
nhập kinh tế của mỗi quốc gia vào nền kinh tế tồn cầu đã tạo điều kiện cho các
quốc gia xích lại gần nhau, liên kết và xâm nhập lẫn nhau. Bên cạnh đó, yêu cầu
đối với các liên kết mang tính khu vực và bảo vệ quốc gia ngày càng cao hơn.
Một trong những cách để khẳng định chủ quyền và sức mạnh của từng quốc gia
là phải đề ra các chính sách và luật lệ nhằm duy trì, củng cố và tăng cường sức

mạnh của tài nguyên, môi trường. Thực tế phát triển cho thấy quốc gia nào có

14


tiềm năng về tài nguyên hay khả năng bảo vệ và duy trì tài ngun lớn thì thường
có tốc độ phát triển cao và trở thành những nước “lớn”.
Các quy định về mơi trường trong xu thế tồn cầu hố sẽ tạo ra cơ hội mới
và đặt ra những điều kiện bắt buộc cho các quốc gia, doanh nghiệp phải có chiến
lược và chính sách phát triển đúng đắn, có định hướng và biết cách sử dụng hợp
lý các công cụ kinh tế để quản lý mơi trường.
Ngồi ra, trong nền kinh tế “không biên giới” hiện nay, sự cạnh tranh giữa
các quốc gia, các ngành hàng và các sản phẩm rất cao, nên các quốc gia và các
doanh nghiệp thường cố gắng chuyển sang sử dụng các công nghệ cao sản xuất
những sản phẩm ngày càng tiết kiệm nguyên nhiên liệu, để tạo ra những sản
phẩm chất lượng tốt hơn và sạch hơn. Chẳng hạn như phần lớn các nhà máy sản
xuất điện từ than đá ở các nước phát triển đều được lắp đặt các thiết bị điện hoặc
cơ khí nhằm loại bỏ hầu hết bụi và bồ hóng từ khí đi ra ống khói. Phần lớn xe hơi
được bán ở các nước ngày nay đều chạy bằng xăng khơng pha chì. Tuy nhiên, tại
các nước đang phát triển, thiết bị thu hồi cặn bụi ở ống khói và bộ chuyển sử
dụng xúc tác ở xe hơi còn chưa phổ biến, do đó ơ nhiễm khơng khí có ngun
nhân từ hoạt động giao thơng vận tải vẫn cịn là mối nguy hại nghiêm trọng đối
với sức khoẻ con người. Bên cạnh đó các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển
cũng mở rộng rất nhanh, công nghệ sử dụng trong sản xuất mới, hiện đại nâng
cao khả năng bảo vệ môi trường. Xu thế ứng dụng công nghệ mới, công nghệ
“sạch hơn” này sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia bảo vệ môi trường tốt hơn và
dần tiến tới chỉ sản xuất và tiêu dùng những sản phẩm và công nghệ thân thiện
với môi trường.
Hơn nữa, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia phải thực
hiện các chính sách mở cửa thơng qua giảm bớt thậm chí là xố bỏ hàng rào thuế

quan và phi thuế quan. Điều này làm thơng thống dịng lưu chuyển và vận động
của hàng hố, vốn, cơng nghệ, dịch vụ và lao động giữa các nước ngày càng lớn.
Để tận dụng được công nghệ, vốn và thị trường nhằm phát triển kinh tế bền vững,
các nước vừa phải chủ động mở cửa, đồng thời phải đưa ra được những chính
sách vừa có lợi cho phát triển kinh tế nhưng vẫn bảo vệ môi trường và tài nguyên
thiên nhiên. Đây cũng là yếu tố quan trọng để đảm bảo các quốc gia có thể phát
triển bền vững trong xu thế hội nhập.
1.2.2.2 Các tác động tiêu cực

15


Giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ln có sự tương hỗ và xung
đột. Thế giới hiện nay có trên một tỷ người hiện bị thiếu dinh dưỡng và khoảng
hai tỷ người nghèo. Các con số này gia tăng hàng ngày mặc dù nỗ lực của các
nước là rất lớn. Vào thời điểm hiện nay tốc độ gia tăng dân số thế giới vào
khoảng 1,7% năm. Nếu lấy dân số thế giới năm 1999 là 6 tỷ và tốc độ gia tăng
hàng năm là 1,7%/năm thì vào năm 2100 dân số thế giới sẽ đạt con số lý thuyết là
34 tỷ người. Đây là con số mà mơi trường trái đất khơng thể chịu đựng được. Các
tính toán về năng lượng sơ cấp cho thấy trái đất chỉ có khả năng cung cấp năng
lượng cho khoảng 13-15 tỷ người [11].
Hiện nay trái đất đang phải chịu nhiều tác động tiêu cực có nguyên nhân từ
các hoạt động kinh tế gây ra, nhiều nơi môi trường đang bị suy thối một cách
nghiêm trọng. Hiện trạng mơi trường và tài nguyên thiên nhiên trên Thế giới hiện
nay sẽ cho chúng ta cái nhìn rõ hơn về vấn đề này.
Tài nguyên đất:
Khoảng 99% lương thực thực phẩm sử dụng trên Thế giới được lấy từ các
hệ sinh thái trên cạn, chỉ 1% từ các hệ sinh thái nước. Lương thực và cây có sợi
được gieo trồng trên 12% diện tích đất thế giới, 24% diện tích đất khác dùng làm
đồng cỏ chăn nuôi, 31% rừng, khoảng 3,2% đất dùng cho các khu bảo vệ, khoảng

34% đất thế giới khơng thích hợp để trồng trọt và chăn nuôi.
Bảng 1. Số liệu về sử dụng đất của các vùng chủ yếu trên thế giới năm 1991
(triệu ha)
Vùng

Tổng số

Đất canh
tác

Đồng cỏ

Rừng

Loại
khác

Châu Phi

2.965

184

792

688

1.301

Bắc Mỹ


2.139

274

368

684

813

Nam Mỹ

1.753

140

468

905

240

Châu Á

2.679

450

678


541

1.010

473

140

84

157

92

10.009

1.188

2.390

2.975

3.456

Châu Âu
Tổng

16



%

100

12

24

30

34

Nguồn: [11; tr. 52]
Theo tính tốn, để đảm bảo tiêu chuẩn dinh dưỡng, lương thực thực phẩm,
mỗi người dân trên trái đất cần có trung bình 0.5 ha đất. Chỉ có nước Mỹ gần đạt
con số này, trong khi bình quân thế giới chỉ có 0.27 ha. Việc thiếu đất canh tác là
nguyên nhân thiếu lương thực và nghèo đói. Ở Mỹ khoảng 1.374 kg sản phẩm
nông nghiệp dùng cho chăn ni/đầu người, trong khi đó Trung Quốc có
585kg/người/năm (trung bình Thế giới là 718 kg).
Việc suy thối đất canh tác và đồng cỏ đang xảy ra trên thế giới, trong đó
chủ yếu là xói mịn do nước và gió. Khoảng 10 triệu ha đất bị suy thoái và bỏ
hoang hàng năm. Mỗi năm cần phải có thêm 5 triệu ha đất dùng để nuôi sống
thêm 95 triệu người mới sinh. Phần lớn số 15 triệu ha đất canh tác mới trên được
mở rộng chủ yếu từ diện tích rừng. Theo tính tốn, 80% diện tích đất canh tác
được mở rộng do phá rừng.
Xói mịn đất và tốc độ xói mịn đất đang gia tăng: ví dụ ở Châu Phi tốc độ
xói mịn sau 30 năm tăng lên 20 lần. Lượng đất xói mịn trung bình trên một ha
đất trong thời gian một năm: ở Mỹ 17 tấn, ở Trung Quốc 40 tấn, trung bình tồn
thế giới 30 tấn.

Theo tính toán của các nhà khoa học, sự suy thoái đất nông nghiệp sẽ làm
giảm khoảng 10 – 20% sản lượng lượng lương thực thực phẩm của Thế giới trong
khoảng 25 năm tới. Để tăng sản lượng lương thực, con người tăng cường thâm
canh, tăng thêm phân bón, thuốc trừ sâu và các dạng năng lượng hoá thạch khác
cho hệ sinh thái nông nghiệp. Hậu quả tất yếu của các quá trình trên là gia tăng ơ
nhiễm đất, nước, khơng khí.
Tài nguyên nước:
Tài nguyên nước ngọt của trái đất có giới hạn, chiếm khoảng 0,6% tổng
lượng nước trên thế giới và phân bố không đều ở các khu vực lãnh thổ khác nhau,
trong đó 0,1% là nước mặt trong sơng hồ, 0,5% là nước ngầm. 24% lượng nước
ngọt trong các ao hồ bị bay hơi trong quá trình lưu chứa.
Lượng nước sử dụng cho nông nghiệp khá lớn, chẳng hạn với lúa mỳ có
sản lượng 7 tấn/ha cần tưới nước 4,2m3/ha. Theo số liệu thống kê 87% nước ngọt

17


trên thế giới được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, ở Mỹ là 85%. Nước sử
dụng cho các nhu cầu của con người: 3 lít/ngày cho uống, 90 lít/ngày cho nấu ăn
và giặt, 400 lít/ngày cho các nhu cầu khác [11].
Nước ngọt tiêu thụ bao gồm 50% nước mặt và 50% nước ngầm, trong đó
tốc độ khai thác nước ngầm lớn hơn tốc độ tái sinh nguồn nước. Do đó, việc khai
thác nước đang tác động mạnh tới trữ lượng nước ngầm, làm cho trữ lượng nước
ngầm ở nhiều nơi trên thế giới đang giảm mạnh, chẳng hạn như tại Bắc Kinh hiện
nay mực nước ngầm hạ thấp với tốc độ 1m/năm. Chất lượng các nguồn nước mặt,
nước ngầm đang bị suy giảm dưới tác động của sự ô nhiễm do hoạt động công
nghiệp, nông nghiệp, khu dân cư tập trung.
Tài nguyên sinh học:
Tài nguyên sinh học của trái đất bao gồm 1,7 triệu lồi đã được mơ tả và 3
– 111 triệu loài theo dự báo của các chuyên gia quốc tế. Hiện nay, do mất rừng, ô

nhiễm, thuốc trừ sâu, đơ thị hố và săn bắt của lồi người, hàng ngày có 150 lồi,
hàng năm có khoảng 40.000 – 50.000 loài bị tiêu diệt [13]. Các quá trình trên
cũng đồng thời làm mất đi các lồi sinh vật chưa được nghiên cứu và thống kê
trong các tư liệu khoa học có trong các khu rừng nhiệt đới, các khu vực biển sâu
và nhiều nơi khác trên thế giới.
Tài nguyên năng lượng:
Các số liệu về tiêu thụ năng lượng của Cục năng lượng Mỹ cho thấy 25%
dân cư các nước phát triển hiện đang tiêu thụ tới 80% nguồn năng lượng hố
thạch của lồi người, trong khi 75% dân cư các nước đang phát triển chỉ tiêu thụ
tới 20% nguồn năng lượng. Riêng với nước Mỹ, dân số chiếm khoảng 7% thế
giới, tiêu thụ số năng lượng chiếm 25% mức tiêu thụ năng lượng của toàn thế
giới.
Lượng dầu tiêu thụ hiện nay của thế giới vào khoảng 22 triệu tấn/ngày.
Theo dự báo của Cục Năng lượng Mỹ, dự trữ dầu mỏ Thế giới chỉ đủ cho nhu cầu
khai thác tối đa 35 năm, dự trữ than đá cho khoảng 150 năm nữa. Các dự báo trên
khơng tính đến tốc độ gia tăng dân số và nhu cầu tiêu thụ năng lượng cao ở các
nước phát triển. Sự gia tăng tiêu thụ năng lượng hoá thạch dẫn đến tăng phát xả
khí nhà kính CO2 và các chất ơ nhiễm khác. Việc sử dụng các nguồn năng lượng
khác như hạt nhân, địa nhiệt và năng lượng tái sinh có các giới hạn. Ví dụ như

18


năng lượng hạt nhân có khả năng giảm phát xả khí nhà kính, nhưng tạo ra chất
thải hạt nhân và nhiều nguy cơ gây ra các sự cố môi trường (rị rỉ chất phóng xạ,
tăng nhiệt độ các nguồn nước, sự cố cháy nổ, v.v…)
Việc cạnh tranh trong phát triển kinh tế và thương mại hướng đến gia tăng
các hoạt động phát triển kinh tế. Để phát triển kinh tế cần phải đẩy mạnh và đa
dạng hoá các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và tự do thương mại. Sự
phát triển đó chưa được quy hoạch và quản lý tốt đã dẫn tới nạn ô nhiễm ngày

một gia tăng. Hiện vẫn cịn có nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt các nước đang phát
triển, vẫn phát triển nền kinh tế chủ yếu dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên
sẵn có của mình. Điều đáng nói là, do trình độ phát triển công nghệ của các nước
này vẫn ở mức thấp, nên chủ yếu chỉ phát triển kinh tế dựa trên việc khai thác
nguồn tài nguyên và bán chúng ở dạng thơ. Điều này dẫn đến tình trạng khai thác
quá mức làm cạn kiệt nguồn tài nguyên dẫn tới mất cân bằng sinh thái, tăng
lượng chất thải ra môi trường. Một nguy cơ nữa đối với các nước đang phát triển
là việc nhập khẩu các máy móc cơng nghệ lạc hậu biến đất nước đó trở thành bãi
phế thải, ô nhiễm đất đai, nguồn nước, không khí, tiếng ồn, v.v… Tình trạng ơ
nhiễm và suy thối tài ngun gia tăng có thể ảnh hưởng lâu dài tới sự phát triển
bền vững.
Những năm đầu thập kỷ 90 được đánh dấu bằng mối những mối quan tâm
về các vấn đề môi trường tồn cầu như sự phá huỷ tầng ơ zơn của các chất CFC,
nguy cơ đối với khí hậu do sự tích luỹ các khí như CO 2 trong khơng khí, triển
vọng phát triển ở Nam Cực, sự biến mất của một số loài động thực vật của nhiều
vùng trên thế giới. Vấn đề môi trường đã trở thành những vấn đề quốc tế và tồn
cầu. Đơi khi nạn nhân của việc tàn phá môi trường của một số nước lại là những
nước lân cận. Chẳng hạn như: khí thải từ những nhà máy điện của Mỹ có thể gây
bệnh xoăn lá cây của Canada; nước thải của người Đức đổ xuống sơng Ranh có
thể bị trơi dạt sang bờ biển của Hà Lan.
Tại các nước nghèo, ô nhiễm môi trường hàng năm vẫn làm nhiều người
tử vong và làm cho một số lượng lớn hơn số người mắc các bệnh tật liên quan
đến môi trường ô nhiễm. Nước bẩn, nước thải khơng được xử lý, bụi, bồ hóng từ
các lị đốt than, chì trong khơng khí ở các đơ thị và tình trạng xói mịn đất đã gây
hại cho sức khoẻ của con người.
Hơn nữa, các tài nguyên môi trường nếu không được quản lý một cách lâu
dài sẽ giới hạn khả năng tăng trưởng kinh tế. Tại các nước đang phát triển điều

19



này dễ nhận thấy hơn ở các nước công nghiệp. Các chính sách mơi trường khơng
hợp lý có thể dẫn đến những tổn phí kinh tế. Mỗi năm nạn phá rừng và xói mịn
đất làm cho các nước phát triển bị thiệt hại khoảng từ 1 – 5% tổng sản phẩm quốc
dân trong khi đó các nước đang phát triển cịn phải chịu thiệt hại nặng nề hơn.
Ngồi ra cịn phải chịu những chi phí kinh tế do các bệnh tật có ngun nhân từ ơ
nhiễm nước và các hình thức ơ nhiễm mơi trường khác. Ví dụ điển hình nhất là
các nước Đông Âu, nơi các vấn đề môi trường không được chú ý đúng mức trong
thời gian dài, hậu quả là sức khoẻ người dân bị suy yếu, các cơng trình xây dựng
bị huỷ hoại, máy móc thiết bị bị ăn mịn do ơ nhiễm nước. Theo nhiều ước tính,
tổng chi phí do suy thối mơi trường là từ 10 – 15% thu nhập quốc dân [3].
Những tổn phí do thiệt hại mơi trường có thể thấy rõ ở những nước đang phát
triển, là nơi có rất nhiều người đang sống dựa vào mơi trường. Điển hình là các
ngành sản xuất căn bản như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và khai thác
khoáng sản. Chúng chiếm hơn một phần ba tổng sản phẩm quốc dân, hơn hai
phần ba số công ăn việc làm và hơn một nửa thu nhập từ hoạt động xuất khẩu.
Tài sản chính của các nước này là tài nguyên thiên nhiên. Thêm vào đó, cứ sau 13
năm lại có thêm một tỷ người cần được nuôi dưỡng. Những thiệt hại đối với môi
trường của các nước này cũng đồng nghĩa với những thiệt hại về nguồn thu nhập
lớn duy nhất của họ.
Bảng 2 : Những phí tổn đối với nền kinh tế quốc dân do sự phá huỷ tài
nguyên thiên nhiên vào những năm thập kỷ 80
Nƣớc

Loại tổn hại

% GNP

Ethiopia


Phá rừng

6.0 – 9.0

Burkina Faso

Tổn hại sinh khối

Ba Lan

Ô nhiễm

4.7 – 7.7

Đức

Ô nhiễm

4.6 – 4.9

Indonesia

Phá rừng

3.6

Mỹ

Tránh các thiệt hại do các luật mơi
trường


1.2

Na Uy

Ơ nhiễm

Indonesia

Xói mịn đất

0.4

Mali

Xói mịn đất

0.4

8.8

0.5 – 0.8

Nguồn: [3]
20


Việc không nhận ra được những tác động của sự phát triển đối với môi
trường đã làm cho khái niệm tăng trưởng kinh tế trở thành khơng có nhiều ý
nghĩa. Một quốc gia sẽ chẳng có lợi gì khi chặt phá những cánh rừng để phục vụ

cho lợi ích xuất khẩu hay để có thêm đất canh tác. Ngược lại, họ sẽ gặp phải
những hậu quả như xói mịn đất, thiếu gỗ dùng làm nhiên liệu, lũ lụt thêm trầm
trọng, đánh bắt cá bị thiệt hại. Và phần lớn những tổn thất này sẽ do người nghèo
gánh chịu. Như vậy sự tăng trưởng kinh tế dựa trên sự tàn phá mơi trường chỉ có
thể làm giàu cho một bộ phận nhỏ trong xã hội nhưng lại là gánh nặng hơn cho
người nghèo.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan mà trong điều kiện tồn
cầu hố nền kinh tế hiện nay, mỗi nước đều không thể đứng ngồi. Tuy nhiên,
khơng phải nước nào cũng có những cơ hội như nhau trong quá trình trao đổi này.
Đặc biệt các nước đang phát triển gặp rất nhiều khó khăn bởi những nguyên tắc
ngoại lệ của các hiệp định môi trường đa phương có thể bị các quốc gia phát triển
lợi dụng nhằm phục vụ mục đích bảo hộ. Trong thực tế một số quốc gia đang
phát triển không thể duy trì thị trường của mình do khơng thể đáp ứng được các
tiêu chuẩn về môi trường và tiêu chuẩn về sức khoẻ của con người do các quốc
gia phát triển đặt ra và do đó khơng thể tiếp cận được với thị trường để xuất khẩu
hàng hoá, phát triển kinh tế. Nhiều quốc gia phát triển đặt ra các tiêu chuẩn vệ
sinh dịch tễ, an toàn thực phẩm quá ngặt nghèo đến mức vơ lý, và biến nó trở
thành các rào cản trong thương mại và ngăn cản các quốc gia đang phát triển hội
nhập một cách bình đẳng vào nền kinh tế tồn cầu. Bên cạnh đó, quy trình kiểm
tra và chứng nhận chất lượng của họ đưa ra cũng gây tốn kém về chi phí và thời
gian cho các nước xuất khẩu.
Hơn nữa các nước đang phát triển đôi khi theo yêu cầu của các nước phát
triển phải đặt ra những yêu cầu về tiêu chuẩn quá nghiêm khắc và phức tạp hơn
so với những gì các cấp quản lý thơng thường có thể quản lý hoặc cưỡng chế thi
hành. Kết quả sẽ dẫn đến những tiêu cực và xáo trộn đối với các nước đó.
Từ đó có thể khẳng định rằng các tiêu chuẩn thân thiện môi trường được
một số quốc gia phát triển đưa ra có thể là những hàng rào ngăn cản tiến trình
tồn cầu hố. Do đó các quốc gia đang phát triển phải vận dụng và giải quyết rất
xác đáng các nguyên tắc thận trọng và ngoại lệ, nếu vận dụng kém thì tự họ sẽ
đóng cửa việc tiếp cận thị trường thế giới và làm chậm bước tiến trong tiến trình

hội nhập kinh tế quốc tế.

21


Nƣớc

Khụng khớ

Đất
v.v..
Khu

Rừng
MÔI TRƢỜNG

SINH THÁI

Biển

kinh tế
Khu
dân cƣ

Cỏc hệ
sinh thỏi

Hỡnh 4: Mụi trƣờng sinh thỏi, thành phần môi trƣờng sinh
thỏi và cỏc hoạt động ảnh hƣởng lên môi trƣờng sinh thỏi
1.3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI.


1.3.1 Trung Quốc
Quá trình tăng trưởng ở Trung Quốc đã nhanh chóng nâng cao mức sống
nhưng đồng thời cũng huỷ hoại môi trường. Song sự tăng trưởng trong tương lai
không nên bị đánh đổi với chi phí của sự ơ nhiễm ngày càng tăng. Bằng các chính
sách thúc đẩy thị trường, khuyến khích các giải pháp thay thế và tìm ra một khn
khổ điều tiết phù hợp, Trung Quốc có thể đạt được cả hai mục tiêu: tăng trưởng
kinh tế và bảo vệ mơi trường.
Khơng khí và nguồn nước ở Trung Quốc, đặc biệt là ở các đô thị, thuộc loại
bị ô nhiễm nhất thế giới. Sự tập trung bao trùm khắp nơi của hầu hết các chất gây ô
nhiễm vượt quá nhiều lần tiêu chuẩn quốc tế đã khiến Trung Quốc phải trả giá cao

22


×