Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Dạy học tác phẩm đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử từ hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THỦY ANH

DẠY HỌC BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ”
CỦA HÀN MẶC TỬ TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN
LỊCH SỬ PHÁT SINH VÀ TÂM LÍ HỌC SÁNG TẠO

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2013
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THỦY ANH

DẠY HỌC BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ”
CỦA HÀN MẶC TỬ TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN
LỊCH SỬ PHÁT SINH VÀ TÂM LÍ HỌC SÁNG TẠO
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: Lý luận và phƣơng pháp dạy học
(Bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 601410

Cán bộ hƣớng dẫn: PGS.TS Trần Khánh Thành


HÀ NỘI - 2013
2


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi tới PGS.TS Trần Khánh Thành, cán bộ hướng dẫn
khoa học, sự biết ơn sâu sắc. Thầy đã tận tâm giúp đỡ tôi trong q trình học tập và
thực hiện luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo giảng dạy các bộ mơn, Phịng
Đào tạo và cơng tác sinh viên của Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia
Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên tơi trong suốt khóa học.
Xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu trường Trung học phổ thông
Việt - Úc, Hà Nội và trường Trung học phổ thơng Đồn Thị Điểm, Hà Nội cùng
các bạn bè, đồng nghiệp, người thân và học sinh đã dành cho tôi sự chia sẻ q báu
trong q trình hồn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thủy Anh

3


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu


8

1.1.

Hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng tạo trong
nghiên cứu văn học

8

1.2.

Thực trạng dạy học bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” trong nhà trường
phổ thông hiện nay

16

Chƣơng 2. Những yếu tố lịch sử phát sinh và tâm lí sáng tạo cần khai
thác trong dạy học bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

22

2.1.

Những yếu tố ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của Hàn Mặc
Tử trong bài thơ

22

2.2.


Quá trình sáng tác “Đây thơn Vĩ Dạ” là q trình vận động tâm lí
sống động của nhà thơ Hàn Mặc Tử

32

2.3.

Con đường hướng đến các giải pháp thích hợp khi dạy bài thơ
“Đây thơn Vĩ Dạ”

39

2.4.

Những phương pháp thích hợp khi dạy học bài thơ “Đây thôn Vĩ
Dạ”

47

Chƣơng 3. Thực nghiệm sư phạm

67

3.1.

Thiết kế giáo án dạy học tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn
Mặc Tử

67


3.2.

Chọn địa điểm thực nghiệm, lớp thực nghiệm, lớp đối chứng

89

3.3.

Tổng hợp và phân tích kết quả thực nghiệm

89

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong bối cảnh của thời đại công nghệ với sự phát triển như vũ bão của văn
hóa nghe nhìn hiện nay đã ảnh hưởng ít nhiều đến văn hóa đọc của giới trẻ. Văn
học trong nhà trường cũng không là một ngoại lệ. Vì vậy để mỗi tác phẩm văn
chương trong nhà trường ln sống động với các chức năng vốn có của văn học, là

cánh cửa rộng mở đến tâm hồn của học sinh thì người thầy khơng chỉ đơn thuần
vững về chun mơn mà cịn mềm dẻo trong việc vận dụng các phương pháp dạy
học truyền thống và hiện đại để trang bị cho học sinh cách tiếp cận một tác phẩm
văn học và khơi dậy tình yêu đối với văn chương cũng như bồi dưỡng văn hóa đọc
ở những cơng dân thời hiện đại.
Mỗi một tác phẩm văn chương có đời sống riêng, là sản phẩm của hoàn cảnh
lịch sử và q trình tâm lí riêng. Dạy học các tác phẩm văn chương phải dựa vào
văn bản nhưng không thể bỏ qua các yếu tố liên quan chặt chẽ đến văn bản như
lịch sử phát sinh và quá trình tâm lí của người nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo.
Điều này cần được giải quyết linh hoạt và nghệ thuật trong quá trình dạy học Văn
để thu hút được niềm hứng khởi khám phá của học sinh khi đứng trước một tác
phẩm văn học.
1.2. Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca Việt Nam hiện đại, là một trong
những đỉnh cao của phong trào Thơ mới (1932 – 1945). Nhà thơ Chế Lan Viên đã
từng nhận định: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm
thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và cịn lại của cái thời kì này, chút gì đáng
kể đó là Hàn Mạc Tử”. Sau gần một thế kỉ đi qua, di sản thi ca của Hàn Mặc Tử
ngày càng chứng tỏ sức sống mãnh liệt và giá trị to lớn. Thi phẩm tuyệt bút Đây
thôn Vĩ Dạ của ơng được đưa vào chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn 11 ban cơ
bản và được nhiều thế hệ học sinh đón nhận u thích.
Tuy nhiên dạy học có hiệu quả tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ không hề đơn giản
vì tác phẩm này đa nghĩa, đa trị, thu hút nhiều cách tiếp cận khác nhau. Nếu chỉ
thuần túy cắt nghĩa tác phẩm từ văn bản chúng ta sẽ không hiểu hết được nội dung
và những giá trị tiềm ẩn của tác phẩm. Để tăng cường hiệu quả tiếp nhận tác phẩm
này cần phải có nhiều cách tiếp cận khác nhau, ngoài tiếp cận theo hướng thi pháp
học, cần phải tìm hiểu yếu tố lịch sử phát sinh và q trình tâm lí của thi nhân
5


trong quá trình sáng tạo tác phẩm. Nghiên cứu đề tài: “Dạy học bài thơ “Đây thôn

Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử từ hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng
tạo”, chúng tơi mong muốn triển khai một cách cụ thể hơn một hướng khám phá
còn tương đối mới cho tác phẩm, để học sinh có cái nhìn sâu sắc và trọn vẹn hơn
bài thơ đẹp đến nao lòng này.
2. Lịch sử vấn đề
Di sản Hàn Mặc Tử trở thành nguồn tìm hiểu và nghiên cứu chưa bao giờ
vơi cạn. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu quy mô về thi nghiệp, thi pháp thơ Hàn
Mặc Tử, mối quan hệ qua lại giữa cuộc đời và sự nghiệp của nguồn thơ đau thương
lạ lùng này đến những bài tìm hiểu về từng tác phẩm thơ Hàn Mặc Tử của những
tác giả cùng thời đến hiện nay.
Nghiên cứu về Hàn Mặc Tử, cần phải nhắc đến những tên tuổi như Võ Long
Tê, Lê Tuyên, Nguyễn Xuân Hoàng, Đặng Tiến, Thế Phong, Thái Văn Kiểm, Huy
Trâm, Châu Hải Kỳ, Lê Đình Bảng, Nguyễn Mộng Giác, Hồi Thanh, Hồi Chân
(viết về Hàn Mặc Tử và phong trào Thơ mới), Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Phan Cự
Đệ, Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Phan, Bùi Xuân Bào, Phạm Đán Bình, Phạm Xuân
Sanh, ...
Quãng những năm 1950 có các bài viết của Bửu Đình Ái Mỹ (Kỉ niệm Hàn
Mặc Tử), Nguyễn Thị Như Lễ (Những điểm sai lầm về Hàn Mặc Tử). Trong những
tư liệu hồi ức về Hàn Mặc Tử, quan trọng phải kể đến Đôi nét về Hàn Mặc Tử của
Quách Tấn. Bài viết này của Quách Tấn cùng với Hàn Mặc Tử, thân thế và thi văn
của Trần Thanh Mại là hai nguồn tư liệu quan trọng bậc nhất về Hàn Mặc Tử mà
không một ai nghiên cứu về thi nhân không phải truy cầu, sử dụng. Sau này có
thêm hồi kí của Nguyễn Bá Tín cũng rất quan trọng (Hàn Mặc Tử anh tôi, Hàn
Mặc Tử trong riêng tư). Đến những năm 70 có Hàn Mặc Tử hay là sự hiện hữu của
thơ của Huỳnh Phan Anh trong sách Đi tìm tác phẩm văn chương, NXB Đồng
Tháp, 1972; Hàn Mặc Tử đau thương và sáng tạo của Nguyễn Kim Chương trong
Văn học, số 196, 1974.
Gần đây các công trình tiêu biểu về Hàn Mặc Tử có Hàn Mặc Tử, Đau
thương của Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1995; Hàn Mặc Tử
hơm qua và hơm nay do Vương Trí Nhàn sưu tầm và biên soạn năm 1995; Thơ


6


Hàn Mặc Tử và những lời bình do Mã Giang Lân tuyển chọn và biên soạn năm
2003, … và rất nhiều bài viết về Hàn Mặc Tử đăng trên các tạp chí.
Nhìn tổng quan nghiên cứu về Hàn Mặc Tử có ba giai đoạn lớn với những
mốc thời gian tương đối xác định là: giai đoạn trước 1945, giai đoạn từ 1945 đến
1987 và giai đoạn sau 1987.
Trước 1945, hầu hết là các ý kiến thiên về khẳng định tài năng của Hàn Mặc
Tử trong cơng trình Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân, Nhà văn hiện
đại của Vũ Ngọc Phan, nhất là Hàn MặcTử, thân thế và thi văn của Trần Thanh
Mại cùng với nhiều bài viết trên các báo khác nhau ca ngợi Hàn Mặc Tử.
Từ năm 1945 đến năm 1987, nghiên cứu về Hàn Mặc Tử phân định rõ hai
khu vực: phía Bắc và phía Nam. Phía Bắc do điều kiện chiến tranh và quan điểm
nhìn nhận cịn khắt khe nên đánh giá cịn dè dặt. Trong khi đó ở phía Nam lại có
phần đề cao thái quá về thơ Hàn Mặc Tử.
Từ sau năm 1987 đến nay, khơng khí đổi mới đã đổi mới tư duy, khơi nguồn
sáng tạo cho cách nhà nghiên cứu phê bình văn học việc đánh giá các vấn đề văn
học cũng trở nên cởi mở và khách quan hơn. Thơ mới được đánh giá đúng với tinh
thần đổi mới. Tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử của Chế Lan Viên là một cơng trình cơng
phu nhất so với những cơng trình trước đó. Từ đây việc nghiên cứu thơ Hàn Mặc
Tử phát triển hưng thịnh. Cuộc đời và thi nghiệp của nhà thơ được đưa vào giảng
dạy trong trường Đại học và Phổ thông như một đại biểu sáng giá của phong trào
Thơ mới. Thơ văn Hàn Mặc Tử được tái bản nhiều lần. Những cơng trình nghiên
cứu, hồi kí, sưu tầm, chuyên khảo, chuyên luận, bình giảng về thơ văn Hàn Mặc
Tử lần lượt ra đời. Các nhà nghiên cứu đã tìm tịi, khám phá sâu sắc hơn về di sản
tinh thần của Hàn Mặc Tử và đặc biệt là tìm đến những miền thiêng liêng và bí ẩn
trong thơ ông.
Nghiên cứu về vấn đề giảng dạy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

trong nhà trường, có thể kể đến một số bài viết của Chu Văn Sơn trong cuốn Ba
đỉnh cao Thơ mới: Xuân Diệu – Nguyễn Bính – Hàn Mặc Tử, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 1997; Thơ Điên của Hàn Mặc Tử - thi học của cái “tột cùng”, Tạp chí văn
học, số 11, 2000, tr.39. Tác giả Lã Nguyên bình bài thơ trên tạp chí Văn hóa và
Đời sống tháng 5 năm 1991. Tác giả Đồn Minh Tâm viết Đây thơn Vĩ Dạ – một
giấc mơ về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Lý Toàn Thắng với bài Âm điệu trong thơ Hàn
7


Mặc Tử viết ở Quy Nhơn và hoàn thành ở Hà Nội vào tháng 8, năm 2006 đăng trên
Khoa học và Ngôn ngữ, 2009. Trần Trung với Đây thôn Vĩ Dạ - một bài thơ quen
và lạ viết ở Hà Nội vào tháng 7 năm 2009. Nguyễn Ái Học: Từ cấu trúc kép của
Đây thôn Vĩ Dạ trong cuốn Phương pháp tư duy hệ thống trong dạy học văn, xuất
bản năm 2010…
Bài bình giảng bài thơ được in trong sách Những bài giảng văn chọn lọc Phổ
thông trung học của giáo sư Lê Trí Viễn – Trần Thị Thìn, NXB Giáo dục 1995,
sách Giảng văn chọn lọc – văn học Việt Nam do tác giả Trần Đình Sử chủ biên.
Nhiều bài viết tìm hiểu về diễn biến tâm trạng của nhà thơ Hàn Mặc Tử và
mối tình Hàn Mặc Tử trong bài thơ, đơn cử như: Hàn Mặc Tử và bài thơ thôn Vĩ
của tác giả Đặng Viễn viết ở Orlean vào tháng 2 năm 2012, Sự thật về mối tình
Hàn Mặc Tử - Hồng Thị Kim Cúc trong bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu và phát triển. Nhiều bài viết và lời bình về bài thơ xuất hiện trên báo
chí: Về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đây thôn Vĩ Dạ - một tiếng thở
dài đáng quý trên báo Giáo viên nhân dân lần lượt số đặc biệt năm 1989, số đặc
biệt năm 1990; bài Góp thêm ý kiến về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trên báo Tuổi trẻ
chủ nhật số 1, tháng 1 năm 1990…
Gần đây có bài viết của Nguyễn Cẩm Xuyên: Hiểu về hình ảnh lá trúc che
ngang mặt chữ điền, năm 2009; Lê Tiến Dũng: Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn
Vĩ Dạ đăng trên Tạp chí ĐH Sài Gịn, Bình luận văn học, 2012; Nguyễn Thị Xuân
Yến với Đây thôn Vĩ Dạ - nỗi niềm của con người xa Huế đăng trên Tạp chí Khoa

học văn hóa và du lịch Saigonnact, 2013.
Có thể thấy, đã có nhiều góc nhìn, sự cảm nhận về Đây thơn Vĩ Dạ, một bài
thơ trữ tình đã trường tồn hơn nửa thế kỉ. Nhất là kể từ khi bài thơ được đưa vào
giảng dạy trong chương trình Phổ thông. Cuộc tranh luận “bách gia bách ý” xảy ra
với Hàn Mặc Tử nói chung và Đây thơn Vĩ Dạ nói riêng. Có tác giả xem đây là
một tiếng thở dài đáng quý của Hàn Mặc Tử. Nhiều người dựa hẳn vào mối tình
Hồng Cúc để cắt nghĩa tác phẩm. Trong khi đó có người dẹp mảng tiểu sử với cái
xuất xứ khơng ít quan trọng ấy sang một bên, chỉ tập trung phân tích khách thể
được thể hiện trong tác phẩm: thơn Vĩ Dạ, dịng sơng Hương và những cơ gái Huế.
Hay có nhà nghiên cứu nhận định bài thơ là nỗi niềm âu lo cho hạnh phúc, cho
khát vọng của cái Đẹp hóa giải trạng huống đau thương. Ngay cả những ý kiến
8


đồng lịng ngợi ca thi phẩm cũng rất phân hóa. Người thấy bài thơ là lời tỏ tình với
Hồng Cúc. Người thì cho rằng nó là tả cảnh (cảnh Huế và con người Huế). Có
người trung dung thì làm gạch nối: tình yêu – tình quê khi cắt nghĩa bài thơ. Người
bảo hướng ngoại, người nói hướng nội…
Thậm chí, những nhận định, những cảm nhận về bài thơ còn trái chiều, mâu
thuẫn.
Ở toàn thể tác phẩm là thế nhưng ở từng chi tiết trong tác phẩm cũng khơng
phải là ít ý kiến. Một câu “lá trúc che ngang mặt chữ điền” cũng gây tranh cãi. Chi
tiết “sương khói” làm “mờ nhân ảnh” là ở Vĩ Dạ hay ở chốn người thi sĩ đang
chịu bất hạnh cũng thật nhiều lí giải tạo thành cuộc tranh luận sôi nổi trên báo Giáo
dục và thời đại, báo Văn nghệ quãng những năm 80 của thế kỉ XX.
Thời gian sau, nhà giáo – nhà nghiên cứu Văn Tâm khi soạn cuốn Giảng văn
văn học lãng mạn (Nxb Giáo dục, 1991) đã điểm sâu hơn và điều này nhanh chóng
trở thành tâm điểm cho một cuộc đua chen hành hương về Vĩ Dạ, sang tận tờ Tập
văn thành đạo của giáo hội Phật giáo Việt Nam, thu hút ý kiến của những nhà
nghiên cứu và yêu thơ Hàn Mặc Tử cả trong và ngoài nước.

Tuy nhiên, nghiên cứu từ hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng
tạo đối với việc dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử cho học sinh
Trung học phổ thơng cịn là một mạch nguồn khá mới mẻ, cần được quan tâm khai
thác sâu hơn và tồn diện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu khoa học, các bài viết về bài thơ
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hoặc các tài liệu có liên quan đi đến tổng hợp rồi
tìm ra cách khai thác bài thơ này theo hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và tâm lí
học sáng tạo nhằm đưa ra phương án dạy học phù hợp, có hiệu quả, góp phần vào
việc đổi mới trong dạy học Ngữ văn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

9


Tìm hiểu về nhà thơ Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ với những yếu
tố phục vụ cho việc dạy học tác phẩm này từ hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và
tâm lí học sáng tạo.
Thơng qua việc khảo sát thực tiễn hoạt động dạy học và thực nghiệm sư
phạm, xác định tính khả thi của những biện pháp dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ
theo hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng tạo.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đưa ra được những đề xuất, khuyến nghị
tích cực, khả thi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Hoạt động dạy và học trong giờ học văn bản Đây thôn Vĩ Dạ bằng hình thức
tiếp cận lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng tạo của giáo viên và học sinh lớp 11
trong nhà trường Trung học phổ thông.
Phạm vi nghiên cứu là giáo viên dạy Ngữ văn 11 và học sinh lớp 11 Trung
học phổ thông; giờ học văn bản Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê: nhằm đánh giá những thành công và hạn
chế của việc dạy học văn bản trữ tình nói chung và tác phẩm Đây thơn Vĩ Dạ nói
riêng trong nhà trường Trung học phổ thông hiện nay.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở học sinh khối 11 của trường Trung học
phổ thông Việt – Úc, Hà Nội và khối 11 của trường Trung học phổ thông Đoàn Thị
Điểm, Hà Nội.
- Phương pháp đối chứng so sánh sau thực nghiệm.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, nội dung luận văn được trình bày trong ba chương.
10


Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Những yếu tố lịch sử phát sinh và tâm lí sáng tạo cần khai thác
trong dạy học bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

11


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Hƣớng tiếp cận lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng tạo trong nghiên cứu
văn học
1.1.1. Lí thuyết về hướng tiếp cận lịch sử phát sinh
Xuất phát từ quan điểm: “Mọi sự vật và hiện tượng không bao giờ tồn tại

một cách cô lập mà bao giờ cũng tồn tại trong một mối quan hệ phổ biến của nó”
nên khi nghiên cứu một tác phẩm văn học, một trào lưu, một khuynh hướng văn
học người ta phải đặt nó trong rất nhiều mối tương quan cũng như dưới nhiều góc
nhìn. Nghiên cứu văn học có nhiều cấp độ khác nhau, nhiều bình diện khác nhau
với những yêu cầu khác nhau để tránh nghiên cứu một cách phiến diện, đồng thời
đánh giá đúng giá trị của đối tượng nghiên cứu. Theo đó, nhiều phương pháp,
khuynh hướng nghiên cứu khác nhau ra đời. Viện sĩ Khrapsenco nói “Sự đa dạng
của các loại hình và hình thức văn học, tính phức tạp của những mối liên hệ giữa
văn học với đời sống xã hội tạo ra khả năng và tất yếu phải có những người nghiên
cứu khác nhau, tuy có sự thống nhất nhất định, do chi phối của phương pháp luận
macxit” [22. tr. 661]. Trong hệ thống đó khuynh hướng nghiên cứu lịch sử phát
sinh ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vai trò cơ bản.
Nghiên cứu tác phẩm văn học theo quan điểm lịch sử phát sinh là khi nghiên
cứu một nền văn học, các trào lưu văn học, tác gia, tác phẩm văn học người ta xuất
phát từ cội nguồn phát sinh của nó, từ đời sống xã hội để lí giải sự hình thành và
phát triển các hiện tượng văn học đó. Khuynh hướng này chủ trương giải thích sự
phát triển của văn học, sự đấu tranh của các trào lưu, sự kế thừa có đổi mới của
từng giai đoạn văn học từ những cội nguồn lịch sử xã hội, từ hiện thực khách quan.
Bởi nhà văn muốn phản ánh hiện thực khách quan vào tác phẩm thì nhất thiết phải
có hiện thực khách quan. Từ hiện thực khách quan thông qua hệ thống nhân vật và
phương diện chủ quan của nhà văn thì hiện thực đó mới đi vào tác phẩm, mới tiềm
ẩn trong đó những nội dung chủ quan mà nhà văn muốn hướng đến.
Nghiên cứu tác phẩm văn học theo khuynh hướng này ngày càng được hồn
thiện dần và nó có nhiều đóng góp đối với nghiên cứu khoa học nhưng khơng tránh
khỏi những hạn chế nhất định. Nó khơng lí giải được tồn bộ những vấn đề khác
12


của xã hội bên trong tác phẩm. Cuối thế kỉ XIX, nhà phê bình macxit đầu tiên của
Nga là Plêkhanơp cho rằng, nghiên cứu phê bình văn học “là nhằm chuyển tư

tưởng của tác phẩm nghệ thuật từ ngôn ngữ nghệ thuật sang ngơn ngữ xã hội học,
là nhằm tìm ra cái gọi là “tư tưởng xã hội học” của hiện tượng văn học này.
Khơng thể phủ nhận hồn tồn tính chất hiệu nghiệm của phương pháp này nhưng
rõ ràng nó khơng thể vận dụng trong nhiều trường hợp phức tạp đa dạng của văn
học” [22, tr.662]. Nó khơng thể giải thích được những hiện tượng khi sự phát triển
của văn học không trùng khớp với sự phát triển của xã hội.
Vì sao như vậy? Bởi vì chân lí nghệ thuật chỉ thống nhất chứ khơng đồng
nhất với chân lí đời sống. Văn học phát triển còn phụ thuộc vào quy luật nội tại của
nó. Lịch sử văn học cho thấy những thành tựu văn học đạt được là do những tài
năng văn học tạo nên. Tuy nhiên tài năng văn học không chỉ là sản phẩm của thời
đại nhà văn sống mà còn là sự kết tinh của nhiều thời đại khác nhau. Chỉ có điều,
thời đại nhà văn đang sống có những vấn đề bức bách mới mẻ đã trực tiếp kích
thích sự đột phá của thiên tài. Nhưng cho dù là thiên tài, họ cũng không thể nào
“sống hết” với mọi vấn đề của thời đại, mà chỉ là với một số khía cạnh cơ bản nào
đó mà thơi. Lênin đã từng nói rằng những nghệ sĩ vĩ đại cũng chỉ phản ánh vài ba
khía cạnh của cách mạng mà thôi [22, tr. 662]. Thành quả sáng tạo, do đó khơng
thể lí giải bằng cội nguồn phát sinh của văn học trong thời đại nhà văn đang sống.
Khi nghiên cứu một tác phẩm văn học là phải xem xét hồn cảnh sống cụ thể của
nhà văn, khơng quên xét đến sự chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp bởi bối cảnh thời
đại nói chung nhưng khơng sa đà mà phải có một cái nhìn biện chứng tồn diện.
Xét thuần túy về phương pháp mà nói, văn học phản ánh xã hội nên xem xét
văn học từ khía cạnh xã hội là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên sự phản ánh xã hội
của văn học có đặc điểm không phải là phản ánh hiện thực khách quan mà đã được
khúc xạ qua lăng kính tinh thần, tâm trạng, hồi ức… của nhà văn. Mác viết: “Vận
động của tư duy chỉ là sự phản ánh của vận động hiện thực được di chuyển vào và
được sự cải tạo trong đầu óc của con người”. Mặt khác, văn nghệ khơng chỉ phản
ánh thế giới khách quan, mà còn biểu hiện – theo nghĩa rộng của từ này – thế giới
chủ quan nữa [22, tr. 66]. Nói như phản ánh luận Mác – Lênin thì văn học là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nhiều khi nhà văn làm hiện ra trong tác
phẩm của họ những ước mơ, những hiện thực tưởng tượng khơng thấy có trong

thời đại họ đang sống. Nên nếu xét văn học trong mối quan hệ tương đương với xã
hội là cịn phiến diện. Có thể tìm thấy ánh sáng phương pháp luận cho vấn đề này
13


trong phát biểu sau đây của Mac: “Không nên tưởng rằng tất cả các đại biểu dân
chủ đều là chủ hiệu buôn hoặc là họ sùng bái bọn này. Họ có thể cách biệt với bọn
chủ hiệu bn bằng một vực thẳm. Điều làm cho họ trở thành đại biểu của giai cấp
tiểu tư sản, chính là vì bộ óc của họ không thể vượt qua được cái giới hạn mà bản
thân người tiểu tư sản trong đời sống cũng không thể vượt qua được” [22. tr. 81].
Những bước tiến về sau của khuynh hướng nghiên cứu lịch sử phát sinh đã khắc
phục được chỗ thiếu sót của lối đi tìm cái “tương đương xã hội học” khi nghiên
cứu văn học.
Trong lí luận văn học, có phương pháp tiếp cận văn học từ xã hội với những
quan điểm mới mẻ đó là phương pháp cấu trúc phát sinh. Phương pháp này cũng
hướng tới khía cạnh xã hội trong q trình nghiên cứu văn học. Lucien Goldmann
(1913 – 1970) là người thử nghiệm vận dụng các phạm trù xã hội học vào nghiên
cứu văn học, xây dựng chủ nghĩa cấu trúc phát sinh coi “Tính chất tập thể của
sáng tạo văn học đến từ sự kiện sau những cấu trúc của vũ trụ tác phẩm là đồng
đẳng với những cấu trúc tâm thức của những nhóm xã hội nào đó, tức là sự sáng
tạo một vũ trụ tương đương bị quy định bởi những cấu trúc này”. Phương pháp
này trước hết nhằm nghiên cứu những quan hệ giữa tác phẩm và các giai cấp xã
hội ở cái thời đại tác phẩm ra đời. Tác phẩm văn học, theo Goldmann, không chỉ là
cấu trúc ngơn ngữ thuần túy, mà cịn là một cấu trúc ý nghĩa. Cấu trúc ý nghĩa này,
đến lượt nó, lại liên quan đến cấu trúc tinh thần của một nhóm xã hội nhất định
chịu sự chi phối của những cấu trúc kinh tế - xã hội nào đó. Bởi vậy, nghiên cứu
một tác phẩm văn học, việc đầu tiên là tìm hiểu cấu trúc ý nghĩa của nó thơng qua
cấu trúc ngơn ngữ, sau đó đặt tác phẩm vào hồn cảnh kinh tế - xã hội mà nó ra đời
để tìm cho được sự tương ứng giữa cấu trúc ý nghĩa tác phẩm và cấu trúc tinh thần
của nhóm xã hội mà tác giả thuộc vào. Rồi dùng địa vị kinh tế xã hội của nhóm xã

hội này mà giải thích cái cấu trúc tinh thần của nó, tức cũng là qua đó lí giải thích ý
nghĩa của tác phẩm. Phương pháp cấu trúc phát sinh nếu chỉ dừng lại ở khía cạnh
xã hội tức là coi chủ thể tác phẩm văn học là một nhóm xã hội nào đó thì sẽ cịn
khiếm khuyết. Bởi lẽ, những sáng tạo, xét cho cùng, bao giờ cũng là sáng tạo của
cá nhân. Vì thế, Goldmann cịn giải thích cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm văn học
bằng những đặc điểm tiểu sử cá nhân tác giả, tức bổ sung thêm khía cạnh tâm lí
học của J.Piaget và phân tâm học của S.Freud.
Theo khuynh hướng lịch sử phát sinh, người nghiên cứu phải tuân thủ
“nguyên tắc lịch sử” và “nguyên tắc lơgic”, tức là phải nắm bắt được tồn diện đến
14


mức tối đa những hiện tượng lịch sử xã hội, ngun nhân, trình tự của nó và được
phản ánh theo tư duy lơgic. Ănghen nói: “Lịch sử thường diễn biến quanh co, nếu
bất cứ đâu cũng phải chạy theo nó thì tất yếu khơng những phải chú ý đến nhiều tư
liệu khơng quan trọng mà cịn làm gián đoạn tiến trình tư duy” [11, tr. 53].
Những hạn chế khuynh hướng lịch sử phát sinh lại là ưu thế của những
khuynh hướng khác. Ví dụ như khuynh hướng lịch sử phát sinh chưa chú ý đến vấn
đề tác động của văn học, nhưng đó lại là nhiệm vụ trung tâm của khuynh hướng
lịch sử hiệu năng. Vì thế khi nghiên cứu một tác phẩm văn học, một vấn đề văn
học hay tác giả, trào lưu văn học, … để tiếp nhận một cách hiệu quả đối tượng
nghiên cứu đòi hỏi người nghiên cứu biết phát huy những ưu điểm của khuynh
hướng lịch sử phát sinh nhưng tránh tình trạng tuyệt đối hóa và cần khai thác vấn
đề trong quan hệ tổng hịa với các khuynh hướng khác.
1.1.2. Lí thuyết về hướng tiếp cận tâm lí học sáng tạo
Nghệ thuật trong thực tiễn sáng tạo của mình là một hoạt động tâm lí, với tư
cách đó nó có thể và cần phải được phân tích theo lối tâm lí học. Dưới góc độ này
nó ngang bằng với mọi hoạt động khác của con người do các motive tâm lí chi
phối mà tâm lí học lấy làm đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu nghệ thuật, nghiên cứu văn học bằng phương pháp tâm lí từ lâu

đã trở thành một thao tác phổ biến của các nhà nghiên cứu và phê bình văn học. Có
tâm lí học sáng tác và tâm lí học tiếp nhận. Trong đó tâm lí học sáng tác cung cấp
cho chúng ta những phương pháp nghiên cứu nghệ thuật xây dựng tác phẩm về mặt
tâm lí của tác giả.
Tâm lí là toàn bộ những hiện tượng tinh thần diễn ra trong con người thể
hiện qua hoạt động của tình cảm và lí trí, gắn liền và chi phối hoạt động của con
người. Tình cảm là những biểu hiện tâm lí của con người, phản ánh mối quan hệ
giữa con người và các đối tượng trong q trình tiếp xúc. Có lúc nó được lưu giữ
trong tâm hồn, có lúc nó bộc lộ ra ngồi qua thái độ, ngơn ngữ, hành vi của con
người với các sắc thái cấp độ như: cảm xúc, tâm trạng, thái độ, khát vọng (hỉ mừng vui, nộ - tức giận, ái - thương yêu, ố - căm ghét, ai - đau thương, cụ - sợ hãi,
dục - ham muốn). Hoạt động lí trí thì biểu hiện qua các phương diện như: hồi ức,
tưởng tượng, suy lí, phán đốn. Đời sống tâm lí của con người vơ cùng phong phú
bên cạnh hoạt động của tình cảm, lí trí nó cịn bao gồm cả tư tưởng và tâm linh. Vì
15


thế tâm lí học có nhiệm vụ nghiên cứu về các hiện tượng tâm lí của con người
nhằm khám phá bản chất, quy luật hoạt động của nó.
Tâm lí học sáng tạo văn học là bộ mơn khoa học có tính chất liên ngành. Nó
nằm ở vùng giao thoa của nhiều ngành khoa học như tâm lí học, mĩ học, nghiên
cứu văn học. Nhiệm vụ của tâm lí học sáng tạo văn học là nghiên cứu quá trình
hoạt động tâm lí – thẩm mĩ – xã hội bên trong chủ thể sáng tạo văn học. Khác với
tâm lí học phổ quát, tâm lí học sáng tạo văn học chỉ giới hạn phạm vi và hướng tiếp
cận của nó ở đời sống tâm lí của nhà văn, những quy luật của quá trình sáng tạo tác
phẩm.
Nghiên cứu văn học theo tâm lí học sáng tạo là nghiên cứu bản thân q
trình sáng tạo của nhà văn, tức là quá trình vận động của tư duy nghệ thuật trong
trạng thái sống động của nó, từ khoảnh khắc thống hiện ý đồ sáng tạo cho đến
hồn thành tác phẩm có sự tác động qua lại giữa tâm lí của nhà văn với cơng việc
sáng tạo. Bản thân q trình sáng tạo đó của nhà văn có hàng loạt vấn đề từ rung

động nội tâm đến nhu cầu được giải thoát, tưởng tượng, ý thức và vô thức, nhập
thân, xúc cảm và cảm hứng, hư cấu và tái tạo…
Đối tượng của tâm lí học sáng tạo là quá trình bên trong của đời sống tâm lí
sáng tác nhưng tài liệu nghiên cứu nó lại là những thứ đã được cố định hóa, hữu
hình: bản thảo tác phẩm, nhật kí, hồi kí, thư từ, những lời phát biểu tâm sự về nghề
văn, về các tác phẩm cụ thể mà nhà văn đã viết, về những hiện tượng tâm lí, các sự
kiện dẫn đến hiện tượng tâm lí mà nhà văn kể lại với người thân bè bạn, hoặc từ
phía quan sát cảm nhận của người thân bè bạn… Từ những tài liệu đó người
nghiên cứu từng bước tìm đến đời sống tâm lí nhà văn và những giai đoạn trong
quá trình sáng tạo.
Khi tìm hiểu tác phẩm theo hướng tiếp cận tâm lí học người nghiên cứu có
thể vận dụng nhiều phương pháp của khoa học tâm lí để cắt nghĩa các hiện tượng
tâm lí sáng tạo. Trước hết phải kể đến phương pháp Phân tâm học
(Psychoanalysic) “thăm dị tâm lí nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa vô thức của các hành
vi” do bác sĩ tâm thần người Áo Sigmund Freud (1856 – 1939) sáng lập ra vào đầu
thế kỉ XX. Năm 1900, Freud cho in “Traumdeutung – Giải thích giấc mơ”, với các
thuyết về dồn nén, vơ thức và giấc mơ. Đó là tác phẩm đầu tay của ông và cũng là
nền tảng cho Phân tâm học. Freud cho rằng giấc mơ là sự thực hiện ước vọng [13,
16


tr. 18], có những ám ảnh nào đó được lưu giữ về mặt tâm lí bằng cách nào đó có
trong cái vô thức. Cái dồn nén đang tồn tại ở những sự tưởng tượng vơ thức có lẽ
là chất liệu cho tất cả mọi chiêm bao [13, tr. 23]. Freud dùng phương pháp này để
nghiên cứu một số hiện tượng tinh thần: tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức. Với hiện
tượng văn học nghệ thuật, Freud cho rằng xuất hiện cái vô thức trong sự va chạm
với cái ý thức, mơ mộng có quan hệ thân thiết với huyền thoại, với văn học và
nghệ thuật. Theo đó cắt nghĩa một tác phẩm giống như là lí giải một giấc mơ.
Những giấc mơ cần phải lí giải là những giấc mơ thể hiện có che đậy ước nguyện
đã bị dồn nén, các ý nghĩ được tiềm ẩn trong mơ. Chất liệu của các điều tưởng

tượng không được thể hiện nguyên như vậy trong nội dung giấc mơ mà được thế
chân bởi những ám chỉ, bóng gió và những cách thể hiện tương tự khác gọi là
những biểu tượng. Mặt khác “Không bao giờ Giấc mơ lại quan tâm tới những thứ
chẳng đáng quan tâm lúc ban ngày, và không bao giờ những vụn vặt chẳng đáng
bận lòng lúc ban ngày lại đeo đuổi chúng ta vào tận giấc mơ” [13, tr. 70], các ý
nghĩ trong mơ là một phức hợp tâm lí có mối liên hệ logic được thể hiện bằng các
biểu tượng. Vì thế nắm bắt được thế giới tâm lí của người viết sẽ là cơ sở giúp
chúng ta cắt nghĩa tác phẩm thông qua các biểu tượng. Nhiệm vụ của người nghiên
cứu là phải “lí giải tác phẩm văn học bằng các xung đột tâm lí vơ thức của con
người (mà đại diện là tác giả), hoặc tái tạo lại đời sống tâm hồn của tác giả thông
qua những điều phát tiết vô thức trong tác phẩm của anh ta” [15, tr.116]. Phương
pháp của Freud sau này được áp dụng vào nghiên cứu văn học và có ảnh hưởng
mạnh mẽ.
Đến K.G.Jung (1876 – 1961), nhà tâm lí học người Đức, thì cái vơ thức cá
nhân được thay thế bằng vơ thức tập thể trong lí thuyết tâm lí học. Vô thức tập thể
là lớp vô thức cá nhân tương đương với mọi người khác được lưu giữ đến một lúc
nào đó thì thể hiện thành các hình tượng nghệ thuật giống nhau gọi là cổ mẫu. Vô
thức tập thể được biểu hiện qua huyền thoại, mộng mơ, huyễn tưởng. Ngồi ra
Jung cịn chú ý đến vấn đề cá nhân hóa. Đây là sự chống lại vơ thức tập thể để
khẳng định cái tơi của mình. Điều này đặc biệt quan trọng trong sáng tạo nghệ
thuật để tạo nên những đóng góp cá nhân, tạo nên phong cách cá nhân. Jung cũng
phát hiện ra những kiểu tâm lí và hai dạng của nó là hướng nội và hướng ngoại,
cung cấp cho chúng ta những bộ khái niệm - công cụ để phân tích những hiện
tượng văn hóa, nghệ thuật, tâm lí. Ơng hướng sự quan tâm của mình vào vấn đề
tương phản giữa tư duy và văn hóa, các con đường phát triển văn hóa phương
17


Đơng và phương Tây, vai trị của di truyền sinh học và di truyền văn hóa trong đời
sống các dân tộc. Và cuối cùng, là phân tích những hiện tượng bí ẩn trong văn hóa,

làm sáng tỏ ý nghĩa của các huyền thoại, giấc mơ, truyền thuyết, cổ tích và những
huyền bí. Quan niệm này của Jung có ảnh hưởng cả đến lĩnh vực sáng tác văn học.
Từ những quan niệm khác nhau về chủ thể trữ tình, cái tơi thiên tài của
người nghệ sĩ ta có thể thấy vai trị của cái vơ thức, của tình cảm – cảm xúc trong
q trình sáng tạo văn học là khơng thể phủ nhận. Trong quan niệm thần bí về
thiên tài nghệ thuật xuất hiện từ thời kì cổ đại và tồn tại khá lâu trong đời sống tinh
thần của nhân loại, Platong cho rằng thi sĩ là một cái gì nhẹ nhàng, bay bổng và
thiêng liêng, anh ta chỉ có thể sáng tạo một khi đã được cổ vũ và trở nên cuồng
loạn khi anh ta khơng cịn lí trí nữa. Thực ra đây là trạng thái tâm lí khác thường
của thi sĩ khi cảm hứng sáng tạo đến. Nó được biểu hiện ra như một hiện tượng
thần nhập thần bí. Ngồi ra cịn có quan niệm bệnh lí và thiên tài. Theo quan niệm
này những biểu hiện bệnh lí tâm thần và biểu hiện của thiên tài có điểm tương
đồng. Moreau de Turs, một học giả Pháp thế kỉ XIX, đã chỉ ra sự giống nhau giữa
cảm hứng sáng tạo và trạng thái cuồng loạn. Sự giống nhau này biểu hiện qua
những trạng thái nhanh chóng và bất ngờ, qua tưởng tượng độc đáo và sống động,
qua cảm nhận tinh tế vượt quá mức bình thường. Trên thực tế thì sáng tạo nghệ
thuật là vật lộn với tất cả những gì bệnh hoạn, là sự tắm gội và thanh lọc của tâm
hồn, là lặp lại trật tự hài hòa của các yếu tố tiềm thức và ý thức. Sáng tạo nghệ
thuật đích thực chỉ có thể là sản phẩm của những bộ óc sáng suốt, những tâm hồn
trong sáng, cao thượng.
Giáo sư Phương Lựu trong cuốn Lí luận văn học cho rằng phải nghiên cứu
tác phẩm như là con đẻ tinh thần của nhà văn [22, tr. 684]. Dị tìm đến nguồn cội
của quá trình sáng tạo, ta thấy sáng tạo có sự tích lũy trước đó từ những năng lực
cơ bản của nhà văn, đến quá trình tiếp cận hiện thực cuộc sống, từ rung động nội
tâm đến nhu cầu giải thốt (có liên quan đến thuyết dồn nén của Freud). Để hiểu
được sâu sắc quá trình này phải giải mã được các hiện tượng tâm lí như tưởng
tượng, vơ thức trong đó có cảm hứng và trạng thái mơ màng, nhạc điệu và sự nhập
thân thể hiện…
Mỗi phương pháp của hướng tiếp cận tâm lí học bên cạnh những luận điểm
độc đáo không tránh khỏi những nghi vấn. Điều quan trọng ở đây là phải biết vận

dụng khoa học tâm lí để cắt nghĩa các hiện tượng tâm lí sáng tạo. Việc sử dụng linh
18


hoạt các phương pháp tâm lí sáng tạo, tránh tuyệt đối hóa sự chi phối của cái vơ
thức và của tính dục thì có thể đóng góp quan trọng vào việc tìm hiểu cái thơng
điệp của một số tác phẩm. Điểm tựa của những lí giải phải là quan điểm duy vật
biện chứng, tránh suy diễn tùy tiện hoặc đẩy chúng vào quan điểm duy tâm siêu
hình.
1.1.3. Mối quan hệ giữa hướng tiếp cận lịch sử phát sinh và hướng tiếp cận tâm
lí học sáng tạo trong q trình nghiên cứu tác phẩm văn học
Từ trước đến nay có nhiều phương pháp nghiên cứu tác phẩm theo nhiều
quan điểm khác nhau. Để cắt nghĩa, tìm hiểu một tác phẩm văn học một cách tồn
diện và sâu sắc khơng nên chỉ vận dụng một phương pháp, một hướng tiếp cận để
mặt hạn chế của phương pháp và hướng tiếp cận này sẽ được bù đắp bởi ưu điểm
nổi bật của phương pháp và hướng tiếp cận kia. Phương pháp luận nghiên cứu hiện
đại đã đặt vấn đề tiếp cận tác phẩm văn học nghệ thuật một cách toàn diện [22, tr.
671].
Phương pháp cấu trúc phát sinh hướng tới khía cạnh xã hội trong quá trình
nghiên cứu văn học. Nhưng sáng tạo là sản phẩm của cá nhân, mang dấu ấn cá
nhân nên L.Goldmann cịn giải thích cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm văn học bằng
những đặc điểm tiểu sử cá nhân tác giả, tức bổ sung thêm khía cạnh tâm lí học
J.Piaget và phân tâm học của S. Freud.
Nghiên cứu tâm lí sáng tạo của nhà thơ trong những trường hợp cụ thể
chúng ta sẽ có thêm cơ sở để hiểu được các tầng nghĩa của tác phẩm và ý đồ nghệ
thuật của nhà thơ.
Mặt khác sáng tạo là quá trình đi từ ý đồ và tâm trạng, tâm trạng thường gắn
liền với nhạc điệu (nhạc điệu - tâm trạng) rồi mới đến là tập trung và thể hiện, nhập
thân và thể hiện sau cùng là sửa chữa; sự hình thành thiên tài bên cạnh những lí
giải liên quan đến tâm lí khác thường cịn có yếu tố là di truyền (năng khiếu), hồn

cảnh và q trình học tập. Như vậy khi nghiên cứu một tác phẩm văn học vừa phải
tính đến yếu tố tâm lí của chủ thể lại vừa phải kể đến yếu tố lịch sử phát sinh trong
q trình sáng tạo.
Tác phẩm khơng chỉ cố định trong cấu trúc văn bản mà tác phẩm là một quá
trình. Nó là kết tinh của một cái gì trước đó, và sẽ gây tác dụng sau đó [22, tr.671].
19


Theo đó lịch sử phát sinh là yếu tố ngồi văn bản nhưng là giai đoạn đầu của cảm
hứng, xúc cảm tham gia vào quá trình sáng tạo văn bản. Nhưng nếu chỉ lấy yếu tố
ngoài văn bản để giải thích văn bản thì dễ rơi vào xu hướng xã hội học. Vì thế xem
xét một tác phẩm văn chương tính đến cả yếu tố tâm lí là yếu tố nội tại bên trong
nhà văn sẽ khiến độ tham chiếu lớn hơn. Tìm hiểu tác phẩm từ hai hướng tiếp cận
lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng tạo giúp ta tiếp cận chính xác và tồn diện hơn
nội dung của văn bản.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có phong cách nghệ thuật và q trình sáng tạo
độc đáo với đời sống tâm lí phức tạp, giằng xé. Khơng hiểu được tính độc đáo,
phức tạp ấy sẽ khơng thể hiểu được ý nghĩa của các hình ảnh đã trở thành biểu
tượng, cũng như không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ ông.
1.2. Thực trạng dạy học bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” trong nhà trƣờng phổ
thông hiện nay
1.2.1. Nguồn học liệu
Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm nhận được nhiều sự quan tâm nghiên cứu.
Vì thế trong quá trình dạy học tác phẩm này cũng đã có nhiều hướng tiếp cận khác
nhau và mỗi hướng tiếp cận lại càng khiến bài thơ thêm lung linh ý nghĩa.
Hiện nay hướng tiếp cận dạy học phổ biến là dựa vào hồn cảnh sáng tác,
các yếu tố chính về cuộc đời và phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử cũng như
văn bản thơ để cắt nghĩa nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Nhưng dù nguồn tư liệu và các hướng tiếp cận từ trước đến nay thật phong
phú thì việc hiểu tác phẩm Đây thơn Vĩ Dạ trên tinh thần tích cực, chủ động đối với

học sinh vẫn không phải là công việc dễ dàng bởi bài thơ ít nhiều nhuốm màu sắc
tượng trưng siêu thực. Việc dạy học bài tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ từ hướng tiếp
cận lịch sử phát sinh và tâm lí học sáng tạo sẽ cung cấp một cách nhìn tồn diện và
độ tham chiếu lớn hơn cho thầy và trò trong quá trình tìm hiểu tác phẩm đã trở nên
rất quen thuộc.
1.2.2. Thực trạng dạy học bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
1.2.2.1. Đối tượng khảo sát

20


Để tìm hiểu tình hình dạy học bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trong nhà trường Phổ
thông hiện nay, chúng tôi đã tiến hành khảo sát hai đối tượng cơ bản tham gia vào
quá trình dạy học trong nhà trường đó là giáo viên và học sinh.
Đối với giáo viên, chúng tơi tìm hiểu, phân tích, đánh giá qua bài soạn giảng
và việc dự giờ những tiết giảng của giáo viên ở hai trường Trung học phổ thông
Việt – Úc, Hà Nội và Trung học phổ thơng Đồn Thị Điểm, Hà Nội. Từ đó chúng
tơi rút ra những điều đã đạt được, những ưu điểm cũng như những hạn chế trong
q trình dạy học tác phẩm Đây thơn Vĩ Dạ ở trường Phổ thông hiện nay.
Đối với học sinh – vừa là đối tượng tiếp nhận vừa là chủ thể của quá trình
dạy học, việc khảo sát cần phải đánh giá được mức độ tiếp nhận của học sinh về
tác phẩm. Thông qua việc dự giờ và cho học sinh làm các bài test, các bài luận để
thấy được những yêu cầu, mục đích của bài học đã đạt được ở mức độ nào.
Bên cạnh đó, chúng tơi cũng xem xét, rút ra những đánh giá chung về thực
trạng dạy học bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ từ việc sưu tầm, tuyển đọc các sách tham
khảo của các tác giả khác nhau viết về bài thơ từ đó thấy được những vấn đề và
khía cạnh thường được đề cập đến trong khi nghiên cứu.
1.2.2.2. Quá trình khảo sát
Trong quá trình khảo sát để thực hiện đề tài chúng tôi đã tiến hành khảo sát
với khối 11 của trường Trung học phổ thông Việt – Úc, Hà Nội và khối 11 của

trường Trung học phổ thơng Đồn Thị Điểm, Hà Nội cùng vào tháng 1 năm 2013.
Cùng với đó, chúng tơi đã tham khảo một số giáo án và phần rút kinh nghiệm của
một số giáo viên trong những năm học trước cũng như phỏng vấn các giáo viên đã
dạy học bài Đây thôn Vĩ Dạ để bổ sung ý kiến và đánh giá kết quả khảo sát được
khách quan, chính xác và tồn diện hơn.
Q trình khảo sát của chúng tôi lần lượt trải qua những bước như sau:
Bước đầu chúng tơi tìm hiểu Sách giáo khoa, Sách giáo viên và xin phép tìm
hiểu giáo án của các giáo viên dạy khối 11 ở hai trường trước khi dự giờ. Từ đó,
chúng tơi nhận thấy các giáo án được khảo sát có sự triển khai linh hoạt nhưng hầu
hết đều bám sát hướng dẫn soạn giảng của Sách giáo viên, Thiết kế bài giảng và
Chuẩn kiến thức, kĩ năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

21


Bước hai, chúng tơi đã dự giờ sau đó xem vở ghi của học sinh. Chúng tôi
thấy rằng, những kiến thức giáo viên định hướng, triển khai trong quá trình dạy
học và những gì học sinh ghi chép lại đều đi rất nhanh qua phần tìm hiểu chung về
tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Học sinh ghi nhớ và đã nắm được năm sinh, năm
mất, quê quán, gia đình, một số mốc sự kiện quan trọng trong cuộc đời tác giả và
biết được “qua diện mạo hết sức phức tạp và đầy bí ẩn của thơ Hàn Mặc Tử,
người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế”. Điều này
có nghĩa là học sinh chưa nắm được thật chắc ảnh hưởng sâu xa của cuộc đời đến
thi pháp của Hàn Mặc Tử, cũng như những khía cạnh tiêu biểu nhất trong phong
cách sáng tác của nhà thơ được biểu hiện nhất quán trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
mà chỉ nhớ một cách chung chung là “diện mạo hết sức phức tạp và đầy bí ẩn”. Ở
phần giới thiệu về hồn cảnh sáng tác bài thơ, học sinh được định hướng là: theo
một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với Hồng
Cúc (người mà thi sĩ yêu đơn phương) là một cô gái vốn q ở thơn Vĩ Dạ, một
thơn nhỏ bên dịng sơng Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình. Giáo viên hầu

như chỉ nhắc đến sự kiện Hàn Mặc Tử bị bệnh phong và nhận được bức bưu ảnh
của Hoàng Cúc mà chưa phân định rạch rịi điều gì là khởi nguồn sâu xa và điều gì
chỉ là nhân tố làm bùng phát những cảm xúc đã có sẵn trong con người nhàđây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?

+ “Ai”: đại từ phiếm chỉ lặp lại
hai lần.

+ Tâm trạng: thể hiện ở lời hỏi mang nhiều sắc
thái.
+ “Ai biết”: không chắc chắn, là
không biết (phủ định)
* Câu hỏi: Từ việc phân tích, em có nhận xét
chung gì về bức tranh trong khổ thơ này?
 tâm trạng bất an, hồi nghi
và tuyệt vọng cũng vì q u
đời, u sống.
 Khổ ba đã vụt bay đến cõi
mơ, cõi siêu linh. Dù ở đó cõi
89


lịng nhà thơ chìm vào cõi mù
sương nhưng vẫn thấy một niềm
tha thiết đến tuyệt vọng với tình
người và cuộc đời.
Hoạt động tổng kết nghệ thuật đặc sắc và nội III. TỔNG KẾT
dung cơ bản của bài thơ.
- Bài thơ là sự vận động tâm
- Nhóm 1,2: Tổng kết nghệ thuật.

trạng của cái tôi yêu đời, khát
sống mà gặp nghịch cảnh, đau
- Nhóm 3,4: Tổng kết nội dung.
khổ cả thể xác lẫn tinh thần đã
chi phối cấu trúc bài thơ.
- Bài thơ vừa là bức tranh phong
cảnh cũng là bức tranh tâm
cảnh.
+ Cảnh lúc gần gũi, sống động,
lúc xa xôi, hư ảo; khi ấm áp,
sáng tươi, khi lạnh lẽo, u ám.
+ Tình vừa đắm say, tha thiết;
vừa khắc khoải, xót xa.
* Hoạt động củng cố
Với tập thể lớp:
- Cho học sinh xem một đoạn trong vở Một trăm phút cuối cùng của Hàn Mặc Tử.
- Đóng vai Hàn Mặc Tử nói về những nỗi niềm khi viết Đây thơn Vĩ Dạ.
Với cá nhân:

Câu 1. Điền tiếp vào chỗ trống các căn cứ xác định bố cục trong bảng xác
định bố cục bài thơ (phần phụ lục mục 3).
Câu 2. Trong những yếu tố sau, yếu tố nào được xem là nguyên nhân cơ bản
để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ:
90


1) Bức bưu ảnh của Hoàng Cúc.
2) Hoàn cảnh bệnh tật.
3) Hồn cảnh đau thương và lịng u đời, đắm say với cuộc sống.
Câu 3. Tại sao nói bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ là một bài thơ kì lạ?

1) Hệ thống thi ảnh nhiều ý nghĩa.
2) Bài thơ giống như một giấc mơ.
3) Niềm yêu là nỗi đau và mỗi nỗi đau lại là một niềm yêu.
4) Tất cả các ý kiến trên.
Câu 4. Những biểu hiện cơ bản nhất để khẳng định bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
giống như một giấc mơ?
1) Có sự hỗn độn, xuyên thấu thời gian không gian, mạch liên kết ngầm
ẩn.
2) Nhà thơ đang ở trong cõi mơ, cõi lòng nhà thơ như đang chìm đắm
vào cõi mù sương.
3) Bức tranh thiên nhiên và con người được hình dung bằng hồi ức,
tưởng tượng và ám ảnh.
4) Bài thơ là sản phẩm của rung động nội tâm mạnh mẽ với nhu cầu
được giải thoát.
Câu 5. Mạch cảm xúc chính trong bài thơ là gì?
1) Đau thương.
2) Nỗi nhớ.
3) Nỗi tuyệt vọng.
4) Sự mong ngóng.
Câu 6. Hãy liệt kê những yếu tố, mà theo em đã chi phối đến nghệ thuật sáng
tạo hình ảnh và ý nghĩa biểu hiện của hình ảnh trong bài thơ.
91


4. Hƣớng dẫn học bài ở nhà
- Học thuộc lòng bài thơ.
- Sưu tầm những bài thơ của Hàn Mặc Tử được gợi hứng từ mối tình với Hồng
Cúc.
- Hệ thống hóa kiến thức phần cảm nhận chi tiết đã học bằng sơ đồ tư duy. Nhìn
vào sơ đồ tập phát biểu trình bày cảm thụ từng đoạn thơ.

- Khái quát lại những đặc điểm hồn thơ Hàn Mặc Tử thể hiện trong bài thơ Đây
thơn Vĩ Dạ có dấu ấn của thơ lãng mạn, tượng trưng siêu thực.
- Soạn bài tiếp theo: các nhóm chuẩn bị thực hành dạy về phần tác giả, trả lời câu
hỏi trong sách giáo khoa phần hướng dẫn học bài.
Giáo viên mƣợn lời Tịnh Ngọc để kết thúc tiết dạy:
“Bệnh tật và nghịch cảnh chỉ là những tác nhân duyên khởi đã bức bách thiên tài này
sáng tác ra nhiều bài thơ kì lạ như những hạt cát khiến những con trai dưới biển sinh ra
những hạt châu”.

V. RÚT KINH NGHIỆM GIỜ DẠY
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

92


×