Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Rèn kỹ năng liên tưởng tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐINH THỊ THANH THỦY

RÈN KĨ NĂNG LIÊN TƯỞNG, TƯỞNG TƯỢNG TRONG DẠY HỌC
TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐINH THỊ THANH THUỶ

RÈN KĨ NĂNG LIÊN TƯỞNG, TƯỞNG TƯỢNG TRONG DẠY HOC
TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGHÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)

Mã số: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: T.S Nguyễn Trọng Hoàn


HÀ NỘI – 2012

2


MỤC LỤC
Lời cảm ơn.................................................................................................................. i
Danh mục viết tắt ...................................................................................................... ii
Danh mục các bảng .................................................................................................. iii
Danh mục biểu đồ, đồ thị ......................................................................................... iv
Mục lục ...................................................................................................................... v
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI........................12
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài....................................................................................12
1.1.1. Lý thuyết tiếp nhận văn học......................................................................... 12
1.1.2. Hoạt động liên tưởng và tưởng tượng.......................................................... 15
1.1.3. Những điều cần chú ý trong việc hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm thơ
trữ tình………………………………………………………………………….…24
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.................................................................................30
1.2.1. Thực trạng rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong giờ dạy học tác phẩm
thơ trữ tình ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay.........................................30
1.2.2. Thực trạng về hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ học
tác phẩm thơ trữ tình ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay..........................33
Chƣơng 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LIÊN TƢỞNG, TƢỞNG
TƢỢNG TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12………40
2.1. Cơ sở của việc đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng
trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12……………………………………….40
2.1.1. Đối tượng của hoạt động liên tưởng, tưởng tượng trong giờ đọc văn……...40
2.1.2. Mục đích liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn……….…42
2.1.3. Phương thức liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn…….44

2.1.4. Cơ chế liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn…............. 47
2.1.5. Giới hạn của liên tưởng, tưởng tượng và vấn đề định hướng thẩm mỹ cho
học sinh…………………………………………………………………...……….49

v


2.2. Điều kiện để thực hiện một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng
trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12……………………………………….51
2.2.1. Chuẩn bị của giáo viên………………………………………………….….51
2.2.2. Chuẩn bị của học sinh…………………………………………………..…. 56
2.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm
thơ trữ tình lớp 12…………………………………………………………………59
2.3.1. Khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh………...…………59
2.3.2. Xây dựng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo…………………........ 67
2.3.3. Đa dạng hóa các hình thức luyện tập sáng tạo của học sinh……………… 71
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM………………………………...…….79
3.1. Các vấn đề chung…………………………………………………………..…79
3.1.1. Mục đích thực nghiệm………………………………………………….…..79
3.1.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm………………………………………....79
3.1.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm…………………………………....80
3.1.4. Chọn giáo viên dạy thực nghiệm………………………………………..….81
3.2. Tiến hành thực nghiệm…………………………………………………...…..82
3.2.1. Quy trình tiến hành thực nghiệm……………………………………...……82
3.2.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm…………………………………………..…..82
3.3. Kết quả thực nghiệm và xử lý kết quả thực nghiệm………………..……….103
3.3.1. Kết quả thực nghiệm……………………………………………………....103
3.3.2. Xử lý kết quả thực nghiệm…………………………………………….….104
3.4. Kết luận và đề xuất………………………………………………………….106
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ………………………….…………...…….108

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………..110
PHỤ LỤC……………………………………………………………………… 112

vi


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐC

Đối chứng

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

THPT


Trung học phổ thông

TNVH

Tiếp nhận văn học

TN

Thực nghiệm

TPVH

Tác phẩm văn học

ii


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1

Thống kê kết quả khảo sát phiếu điều tra giáo viên

31


Bảng 1.2

Thống kê chất lượng khảo sát

34

Bảng 1.3

Thống kê kết quả khảo sát phiếu điều tra học sinh

35

Bảng 3.1

Phân công giáo viên dạy thực nghiệm và đối chứng

83

Bảng 3.2

Tổng hợp kết quả điểm kiểm tra

108

Bảng 3.3

Thống kê chất lượng kiểm tra

108


Bảng 3.4

Phân phối tần suất luỹ tích bài kiểm tra

109

Bảng 3.5

Giá trị của các tham số đặc trưng

111

iii


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ

STT

Tên biểu đồ, đồ thị

Trang

Biểu đồ 3.1

Thống kê chất lượng kiểm tra

109


Đồ thị 3.1.

Đường luỹ tích bài kiểm tra

110

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự
phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của lượng thông tin
thách thức con người nhiều hơn so với thời đại trước. Con người muốn tồn tại,
muốn hoà nhập, muốn tự khẳng định mình thì nhất định phải là những thành viên
năng động, tích cực, sáng tạo, có óc quan sát nhạy bén, trí tuệ linh hoạt, có thái
độ lựa chọn thơng tin và hiểu thông tin một cách sáng tạo. Đáp ứng yêu cầu đó
của xã hội, nhiệm vụ hiện đại hoá giáo dục được đặt ra như một trong những
nhiệm vụ quan trọng của công tác phát triển giáo dục, trong đó đổi mới nội dung
phương pháp dạy và học là vấn đề then chốt trong chiến lược như một lẽ tồn tại:
“ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy - học, bảo
đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh nhất là sinh viên
đại học” (Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khố
VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội 1997, tr 4). Trên tinh thần đó, trong văn
kiện Đại hội Đảng tồn quốc khố IX khi nói về giáo dục đào tạo đã nhấn mạnh
“Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương
pháp dạy và học phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh,
sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn…”(Văn kiện Đại hội đại

biểu tồn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia 2001, tr.108, 109).
Như vậy trên con đường hội nhập với thế giới, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt
chú trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, trong đó yêu cầu phải
đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy là vấn đề then chốt.
Gần đây nhất, trong lần thay sách giáo khoa Ngữ văn 2006 cấp THPT,
1


việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã đặt trọng tâm vào việc đổi mới
phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy và học chúng ta
mới có thể tạo được sự đổi mới sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp
người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều
nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.
1.2. Môn Ngữ văn vừa nằm trong hệ thống các môn khoa học xã hội và nhân
văn, bộ môn thuộc lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ, vừa là một bộ mơn có tính chất
cơng cụ. Những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện chương trình Ngữ văn
phổ thơng địi hỏi cần có phương pháp dạy học đặc thù, dạy học phải hướng
vào hoạt động sáng tạo của HS - HS khơng cịn là khách thể mà giữ vai trò chủ
thể sáng tạo trong khám phá và chiếm lĩnh giá trị tác phẩm. Tiếp nhận TPVH
trong nhà trường trở thành quá trình đồng sáng tạo. Trong q trình tiếp nhận
TPVH nói chung và tác phẩm thơ trữ tình nói riêng liên tưởng, tưởng tượng có
vai trị quan trọng. “Liên tưởng là đầu mối của những rung động thẩm mĩ…” và
“tưởng tượng như chiếc cầu nối giữa người đọc với người viết” [16, tr. 90].
Liên tưởng, tưởng tượng được xác định là năng lực quan trọng trong quá trình
TNVH. Liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS góp phần chuyển hóa tác
phẩm của tác giả thành tác phẩm trong hành trang tinh thần của HS. Trong dạy
học TPVH, liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật được xem là những phương
thức tư duy để phát triển và hồn thiện tâm hồn, trí tuệ cũng như nhân cách HS.
Rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật cho HS để giúp các em tìm ra
con đường đi đến kết luận. Thiết nghĩ, cần quan tâm đến năng lực liên tưởng,

tưởng tượng nghệ thuật của HS, từ đó tìm ra các biện pháp, phương pháp phù
hợp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng để các em tự cảm thụ và khám phá
TPVH là một việc làm có ý nghĩa thiết thực.
1.3. Thực tế dạy và học TPVH nói chung, tác phẩm thơ trữ tình nói riêng trong

2


nhà trường THPT đã có nhiều đổi mới và bước đầu đạt được hiệu quả. Quan
điểm dạy học hướng tới rèn luyện tư duy sáng tạo cho HS đang được quan tâm.
Rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng cho HS khi tiếp nhận TPVH là một trong
những con đường để đi tới cái đích đó. Song trong nhà trường THPT hiện nay,
GV lại ít có điều kiện quan tâm đến hoạt động TNVH - liên tưởng, tưởng tượng
nghệ thuật của HS. Chưa kể vẫn còn một bộ phận GV chưa thực sự chú ý đến
những phương diện có khả năng kích thích hứng thú nhận thức sáng tạo của
HS. Về phía HS, năng lực cảm thụ về TPVH thơng qua liên tưởng, tưởng tượng
cũng rất khác nhau. Những bài viết thể hiện được sức liên tưởng, tưởng tượng
sâu sắc không nhiều. Cịn rất nhiều bài văn thường có những liên tưởng, tưởng
tượng nơng cạn, thậm chí cịn sai lệch đáng lo ngại. Có thể nói hoạt động liên
tưởng, tưởng tượng nghệ thuật chưa thực sự được quan tâm đúng mức, chưa trở
thành kĩ năng đối với HS trong quá trình tư duy sáng tạo và tiếp nhận TPVH.
Đây là một vấn đề quan trọng cần phải chú ý uốn nắn và điều chỉnh kịp thời để
nâng cao chất lượng dạy và học TPVH.
Đó là những lí do cơ bản để chúng tôi chọn “Rèn kĩ năng liên tƣởng,
tƣởng tƣợng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12” làm đề tài luận
văn thạc sĩ.
2. Lịch sử vấn đề
Khoa học nghiên cứu phương pháp dạy học văn đã được hình thành trên cơ
sở ứng dụng thành tựu của các khoa học liên ngành: Tâm lý học, Tâm lý học
sáng tạo văn học nghệ thuật, Lịch sử văn học, Lý thuyết cảm thụ và tiếp nhận

văn học, Tâm lý học hoạt động học tập của HS... Vấn đề liên tưởng và tưởng
tượng nghệ thuật nói chung từng thu hút sự quan tâm khơng chỉ giới sáng tác mà
cịn là vấn đề hấp dẫn đối với các nhà khoa học sư phạm, bởi nó có mối quan hệ

3


đặc biệt sâu sắc với hoạt động học của HS trong nhà trường. Trong đó có thể kể
đến những luận điểm nổi bật sau:
Liên tưởng, tưởng tượng có một vai trị quan trọng trong TNVH, có thể kể
đến như: Cảm thụ và giảng dạy văn học của tác giả Phan Trọng luận NXB Giáo
dục (1983); Dạy văn dạy cái hay cái đẹp của tác giả Nguyễn Duy Bình, NXB
Giáo dục (1983); Giảng văn, nhiều tác giả, Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí
Minh (1981)...
Giáo sư Phan Trọng luận cho rằng: "Liên tưởng là đầu mối của những rung
động thẩm mỹ... Liên tưởng không những là cần thiết để lĩnh hội được bề trong
của hình tượng, mà cịn giúp mở rộng và đào sâu sự sống chứa đựng trong đó",
và "tưởng tượng như chiếc cầu nối người đọc với người viết. Tưởng tượng nâng
tâm hồn, suy nghĩ người đọc đến gần với người viết. Thiếu năng lực tưởng tượng
thì làm sao hiểu được ý tình nằm sâu kín trong giấy trắng mực đen, chữ viết.
Đằng sau và bên dưới từng trang giấy, từng nét chữ, có tiếng nói, hơi thở, nhịp
tim của nhà văn, có sức hoạt động của các nhân vật" [16, tr. 90- 95]. Năng lực đó
có thể được xem như sự biểu hiện và dấu hiệu đặc trưng của cảm thụ văn học;
nếu khơng có nó, việc lĩnh hội tác phẩm thực sự sẽ gặp phải những khó khăn.
Vai trò của liên tưởng và tưởng tượng trong dạy học văn cũng được tác giả
Nguyễn Duy Bình khẳng định: "Quá trình dạy tác phẩm văn học chỉ có thể thực
hiện một cách có hiệu lực thật sự khi nào nội dung tác phẩm được tái hiện trong
trí tưởng tượng và trở thành một sự kiện trong tâm hồn các em. Bởi vì, một khi
các em chưa tái hiện được hình tượng trong tâm trí của mình thì tác phẩm vẫn là
một hiện tượng xa lạ bên ngoài các em, các em chưa được tiếp xúc với nó, do đó

khó mà hiểu được lời phân tích dẫn dắt của giáo viên" [2, tr. 39-40]. Ý kiến trên
đây đặt liên tưởng, tưởng tượng như một điều kiện tiên quyết đối với quá trình
tiếp nhận của bạn đọc nói chung và bạn đọc - HS trong giờ dạy học TPVH nói
4


riêng. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá tầm quan trọng của yếu tố chủ quan của
liên tưởng và tưởng tượng.
Liên tưởng, tưởng tượng từng được coi là những phẩm chất tâm lý trong cảm
thụ - phân tích tác phẩm, tác giả Lâm Vinh nhận định: "Năng lực cảm thụ - phân
tích tác phẩm văn chương lệ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các quá trình
tâm lý, quá trình nhận thức, đặc biệt là quá trình của tư duy và ngôn ngữ, liên
tưởng và tưởng tượng" [22, tr.150]. Liên tưởng và tưởng tượng vừa mang tính
chất cảm tính vừa mang tính chất lý tính trong việc kiến tạo hành trình tác phẩm
đến với người đọc: "Một hình tượng nghệ thuật khi đi đến với người đọc bao giờ
cũng trải qua hai quá trình: khách quan và chủ quan. Quá trình khách quan là
những biểu hiện khách quan của bản thân hình tượng khiến cho mọi độc giả đều
tiếp nhận giống nhau... Mỗi người từ những kinh nghiệm riêng của mình mà thêu
dệt thêm, làm phong phú thêm hình tượng trên, đó là tính chất chủ quan của tác
động thẩm mỹ của hình tượng" [22, tr. 153]. Điều đó phần nào cho thấy sự phức
tạp, phong phú và tính năng động của liên tưởng, tưởng tượng như thế nào. Đặc
điểm này cũng hàm chứa hạn chế của tính chất chủ quan trong TNVH nói riêng
và tiếp nhận nghệ thuật nói chung.
Liên tưởng, tưởng tượng là một trong những đặc trưng xác nhận q trình
nhận thức cá nhân, có thể kể đến như: Xã hội - Văn học - Nhà trường của tác giả
Phan Trọng Luận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (1996); Văn học tầm nhìn biến
đổi của tác giả Nguyễn Thanh Hùng, NXB Văn học (1994); Văn học và nhân
cách của tác giả Nguyễn Thanh Hùng, NXB Văn học (1996); Kỷ yếu Hội thảo
khoa học “Đổi mới phương pháp dạy học văn PTTH”(1995)…
Giáo sư Phan Trọng Luận đặc biệt nhấn mạnh: Liên tưởng, tưởng tượng nghệ

thuật là một đặc trưng nhận thức mang dấu ấn cá nhân của bạn đọc, đó là một
năng lực chủ quan. Vì vậy, liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật trong dạy học
5


văn được xem là những phương thức tư duy tự khám phá, tự tiếp cận và tự chiếm
lĩnh kiến thức để phát triển và hồn thiện tâm hồn, trí tuệ cũng như nhân cách HS.
Còn giáo sư Nguyễn Thanh Hùng đã chỉ ra sự phân biệt cấp độ và yêu cầu
của từng giai đoạn trong quá trình TNVH ở HS: "Sự phát triển của quá trình đọc
được vận động trong hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và giải thích nghệ thuật"
[8, tr. 127]. Như vậy, chất lượng của quá trình "đọc" - cảm hiểu, giải mã, khám
phá thế giới tác phẩm... hay nói cách khác là sự vận động của các giai đoạn tiếp
nhận nêu trên thực ra phụ thuộc ở kết quả liên tưởng, tưởng tượng và giải thích
nghệ thuật (trong đó: liên tưởng, tưởng tượng vừa như cơng cụ, vừa như phương
thức của tư duy sáng tạo có vai trò định hướng). Mặt khác, đối với mối quan hệ
tương tác giữa chủ thể và khách thể trong quá trình nhận thức và tư duy, "ngồi
ngơn ngữ diễn đạt ra cịn có kinh nghiệm, sức hình dung, sự liên tưởng, trí nhớ
hồn thiện, ký ức định hình, trí tưởng tượng phong phú và tư tưởng xác định sắc
bén. Đó là ngơn ngữ thầm kín, là cận ngơn ngữ và siêu ngơn ngữ góp phần
khơng nhỏ vào q trình lĩnh hội thế giới thực tại và văn học nghệ thuật" [9, tr.
349]. Đó là sự đồng điệu và giao cảm tinh tế giữa nhà văn và bạn đọc - HS
thông qua những liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật.
Tác giả Trương Dĩnh xuất phát từ phương diện tâm lý học nghệ thuật đã
phân tích đặc thù của cấu trúc giao tiếp trong nhà trường và đi đến khái quát:
phản ứng của sự tiếp nhận diễn ra một cách thầm lặng, riêng tư và là q trình
đồng sáng tạo. Chỉ ra tính chất đặc biệt của cuộc giao tiếp giữa nhà văn và bạn
đọc trong nhà trường thông qua hai yếu tố trung gian là văn bản tác phẩm và sự
tổ chức, hướng dẫn nhận thức của GV. Dường như dưới hình thức nào, hoạt
động dạy học văn vẫn có những "cuộc giao tiếp im lặng" giữa bạn đọc và nhà
văn, trong đó trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng có vai trị “chìa khóa” mở ra

thế giới nghệ thuật phong phú mà nhà văn tạo dựng.
6


Liên tưởng, tưởng tượng trong mối quan hệ với hoạt động tích cực của bạn
đọc - HS. Trong cuốn Phương pháp dạy học văn do Z. Ia. Rez chủ biên, NXB
Giáo dục (1983) đã dưa ra quan điểm coi HS là một thành viên chính thức trực
tiếp tham gia xây dựng nội dung kiến thức trong q trình phân tích tác phẩm
văn học, thơng qua q trình đồng thể nghiệm nghệ thuật góp phần hình thành
phẩm chất của bạn đọc HS trong nhà trường.
Trong báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học đổi mới Phương Pháp dạy học văn
theo hướng “HS là trung tâm” Giáo sư Phan Trọng Luận kết luận: Tiêu chí cao
nhất là tri thức, cảm xúc được hình thành bằng cách nào đó có phải tự HS chiếm
lĩnh thông qua những việc làm, những thao tác để rồi tự HS thực sự tự phát triển
(về mọi mặt kiến thức, tâm hồn, kỹ năng...). Đó là bản chất của đổi mới phương
pháp dạy học văn, trong đó khả năng tư duy sáng tạo thể hiện bằng con đường
liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật được xem như những hoạt động hướng nội,
hoạt động bên trong của chủ thể HS.
Vai trò của liên tưởng, tưởng tượng trong cấu trúc hoạt động TNVH của HS
được đề cập tới trong cuốn Phương pháp dạy học văn do Phan Trọng Luận chủ
biên, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (1996); Phương pháp tiếp cận tác phẩm
văn học của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương, NXB Giáo dục (1998).
Giáo sư Phan Trọng Luận xác định vị trí, vai trị quan trọng của liên tưởng,
tưởng tượng của HS qua mơ hình về q trình thâm nhập một tác phẩm văn học
đọc âm vang (bình diện 1, hình ảnh bậc 1), đọc // hồi ức // liên tưởng (bình diện
2, hình ảnh bậc 2), đọc // tưởng tượng (bình diện 3, hình ảnh bậc 3), đọc // suy
(bình diện 4, hình ảnh bậc 4) [15, tr. 143].

7



Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương nhấn mạnh: “tác phẩm văn học vừa mang
tính biểu đạt, vừa mang tính giao tiếp” [10, tr. 16]. Như vậy, bản thân tác phẩm
bao hàm sự gợi ý, kích thích trí tưởng tướng sáng tạo của bạn đọc.
Đề cập khả năng và vị trí của liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình
TNVH, các nhà khoa học, nhà giáo, các tác giả nghiên cứu từ những bình diện
và mục đích cụ thể khác nhau, các tác giả chủ yếu đặt vấn đề ứng dụng và khảo
sát những biểu hiện của trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng của bạn đọc - HS.
Trong cuốn Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương
của tác giả Nguyễn Trọng Hoàn, NXB Giáo dục (2001) đã tập trung nghiên cứu
hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của HS trong giờ giảng văn, đặt nó trong một
hệ thống lý luận bao gồm đối tượng, mục đích, cơ chế, phương thức thực hiện và
biện pháp định hướng thẩm mỹ, khắc phục những hạn chế của liên tưởng, tưởng
tượng. Từ việc xác định liên tưởng, tưởng tượng là những yếu tố then chốt để
khai thác, chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật của TPNV tác giả đã đi vào nghiên cứu
điều kiện xuất hiện, cơ chế vận hành, mối quan hệ giữa liên tưởng, tưởng tượng
với các thao tác khác của tư duy sáng tạo và vị trí của nó trong từng giai đoạn
nhận thức để làm nên tính đặc thù của hoạt động TNVH trong nhà trường.
Hầu hết các cơng trình trên nghiên cứu về năng lực liên tưởng, tưởng
tượng của HS trong phạm trù TNVH ở phạm vi rộng, bao quát. Từ nhu cầu thực
tiễn, trên cơ sở tiếp cận và trân trọng kế thừa tư tưởng của những nhà nghiên cứu
đi trước ở luận văn này chúng tơi đi sâu vào một vấn đề cụ thể đó là “Rèn kĩ
năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được lựa chọn nghiên cứu là năng lực liên tưởng, tưởng tưởng
nghệ thuật của HS lớp 12 trong quá trình tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình trong
8



SGK lớp 12, chương trình chuẩn. Bao gồm hoạt động tổ chức hướng dẫn nhận
thức của GV và hoạt động học của HS trên cùng một đối tượng thẩm mỹ là tác
phẩm thơ trữ tình lớp 12.
Đối tượng nghiên cứu là năng lực liên tưởng, tưởng tưởng nghệ thuật của
HS lớp 12 trong quá trình tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình trong SGK lớp 12,
chương trình chuẩn khơng thể tách rời và biệt lập với những nghiên cứu về vai
trò của liên tưởng, tưởng tượng trong hoạt động tâm lý cũng như trong sáng tạo
nghệ thuật. Bởi lẽ đó là tiền đề cho việc nghiên cứu năng lực liên tưởng, tưởng
tưởng nghệ thuật của HS trong quá trình TNVH.
Hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của HS không phải là hoạt động mang
tính đơn nhất, biệt lập trong giờ dạy học TPVH. Vì vậy, nghiên cứu hoạt động
này phải trên cơ sử nghiên cứu mối quan hệ với những hoạt động khác của HS
như: đọc, kể, tóm tắt, phân tích, so sánh, ….
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi cụ thể là 5 tác phẩm thơ trữ tình trong
SGK lớp 12, chương trình chuẩn.
- Bài 1: Tây Tiến (Quang Dũng)
- Bài 2: Việt Bắc (Đoạn trích - Tố Hữu)
- Bài 3: Đất Nước (Trích Trường ca mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa
Điềm)
- Bài 4: Sóng (Xuân Quỳnh)
- Bài 5: Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo)
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành thực hiện đề tài chúng tơi mong muốn góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học phần thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn. Thơng qua những

9



liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS, GV tổ chức quá trình đống sáng
tạo, tổ chức quá trình giao tiếp thẩm mỹ giữa nhà văn và bạn đọc - HS. Từ đó
giúp GV có thêm một con đường để tổ chức cho HS cảm thụ, khám phá và
chiếm lĩnh tác phẩm thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn. Đồng thời, giúp
HS hình thành kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng khi tiếp nhận tác phẩm thơ trữ
tình nói riêng và TPVH nói chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên luận văn tập trung giải quyết những
vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn của hoạt động liên tưởng,
tưởng tượng nghệ thuật của HS trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình.
- Đề xuất một số biện pháp để rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ
thuật của HS thơng qua các tác phẩm thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm theo hướng phát huy năng lực liên tưởng,
tưởng tượng nghệ thuật của HS để khẳng định tính khả thi và hiệu quả của đề
tài.
5. Giả thuyết khoa học
Trong bối cảnh dạy học tác phẩm văn chương cịn mang tính thụ động, nếu
hình thành được kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật cho học sinh khi tiếp
nhận tác phẩm thơ trữ tình sẽ phát huy được năng lực tự học, tư duy sáng tạo của
học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tác phẩm thơ trữ tình.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Hệ thống hoá, tổng hợp, vận dụng các kiến
thức làm sáng rõ bản chất của của hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của HS
trong hoạt động tâm lý cũng như trong sáng tạo nghệ thuật và quá trình TNVH
- tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình.

10



Phương pháp khảo sát thực tế: Phương pháp khảo sát trực tiếp được tiến hành
với hai đối tượng là GV và HS tại trường THPT Trần Hưng Đạo, quận Hà Đông,
Hà Nội và trường THPT Hàm Long, thành phố Bắc Ninh. Từ phương pháp này,
chúng tơi sẽ có được những số liệu thực tế của vấn đề nghiên cứu (thông qua các
phiếu điều tra trắc nghiệm và hệ thống câu hỏi kiểm tra tự luận).
Phương pháp thực nghiệm: Vận dụng những kết luận nghiên cứu lý luận, tiến
hành thực nghiệm một số giờ học: bài Tây Tiến (Quang Dũng), Đàn ghi ta của
Lor-ca (Thanh Thảo)… tại trường THPT Trần Hưng Đạo, quận Hà Đông, Hà
Nội và trường THPT Hàm Long, thành phố Bắc Ninh theo hướng nghiên cứu
của đề tài.
Các phương pháp trên không tồn tại độc lập mà luôn có sự đan xen, hỗ trợ
nhau trong q trình nghiên cứu tạo ra sự cộng hưởng về hiệu quả.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy
học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

11


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Lý thuyết tiếp nhận văn học
Theo giáo sư Nguyễn Thanh Hùng sáng tác văn học là một quá trình nên
TNVH cũng là cả một quá trình. TNVH là một quá trình lâu dài, có nhiều cấp
độ. Đó là q trình tri giác ngơn ngữ, phân tích, cắt nghĩa, hồi tưởng, liên tưởng,

tưởng tượng, so sánh, tổng hợp, q trình cụ thể hóa và khái qt hóa. TNVH là
một q trình tâm lí phức tạp vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan.
1.1.1.1.Tính chủ quan trong tiếp nhận văn học
Chủ quan trong tiếp nhận là một thuộc tính bởi vì q trình tiếp nhận là quá
trình diễn ra trong tư duy, tình cảm, tâm lí, sinh lí của con người, nó hồn tồn
phụ thuộc vào thị hiếu của bạn đọc. Vì vậy, trước một TPVH, một vấn đề, một
sự kiện văn học... mỗi bạn đọc lại có cách tiếp nhận khác nhau.
Sự TNVH ở mỗi bạn đọc nông sâu khác nhau, nó phụ thuộc vào tư chất cá
nhân mỗi con người, vào đặc điểm tâm lý, khả năng phát triển, thiên hướng, đời
sống nội tâm của người tiếp nhận, vào trình độ năng lực tiếp nhận, vốn sống, sự
hiểu biết về văn học nghệ thuật và sự tác động nhất định của dư luận xã hội cũng
như xu thế thời đại. Bởi thế, TNVH cũng địi hỏi người đọc khơng chỉ có khả
năng tâm lý sáng tạo mà cịn những phẩm chất riêng. Ở cấp độ cá nhân, tiếp nhận
văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp và trước hết bởi cấu tạo chức năng của các giác
quan lành mạnh (con mắt, lỗ tai, sự trực cảm, tư duy...) và khả năng tri giác ngơn
ngữ, lưu giữ hình ảnh, hình thành biểu tượng, liên tưởng, tưởng tượng, so sánh,
khái quát... Bên cạnh đó, với người đọc vấn đề tiếp nhận cịn tùy thuộc hứng thú
thẩm mỹ, ước mơ, khát vọng, thiên hướng và khả năng phát triển...trong bối cảnh
riêng tư và những đòi hỏi bức xúc của nhu cầu khẳng định bản thân.
12


Sự năng động chủ quan và tính chất "tự do" của chủ thể tiếp nhận trong quá
trình "đối thoại" với nhà văn thông qua tác phẩm vừa thể hiện xu hướng "đồng
nhất thẩm mỹ" vừa tạo nên "khoảng cách thẩm mỹ". Đó là tính đặc thù đồng thời
là quy luật của TNVH. Người đọc có thể đồng tình hay khơng đồng tình với cách
đặt vấn đề cũng như sự lý giải (tư tưởng nghệ thuật) của nhà văn; người đọc
cũng có thể liên tưởng, tưởng tượng hay suy tưởng, mở rộng không gian và thời
gian của "thế giới mang nghĩa" mà nhà văn đề xuất, mô tả, gợi ý trong tác phẩm.
Nhưng những tác động của tinh thần thời đại, sự mở rộng giao lưu văn hóa... sẽ

tạo nên tích cực chủ quan của quá trình "đồng nhất thẩm mỹ", góp phần rút ngắn
khoảng cách thẩm mỹ. Do vậy, giữa các cơng chúng bạn đọc ln có khoảng
cách trong tiếp nhận, thậm chí giữa các HS trong cùng lớp cũng có khoảng cách
trong tiếp nhận. Người GV cần định hướng, điều chỉnh nhận thức tản mạn và
phiến diện của HS; đồng thời tổ chức, động viên, kích thích q trình tiếp nhận
của HS, giới hạn và định hướng thẩm mỹ trong tiếp nhận dù biết giữa tác giả và
bạn đọc HS có khoảng cách về tâm hồn, tư duy, tâm lí và “độ thị sai”.
Thị sai biểu lộ ở những chủ thể cảm nhận khác nhau trước một hiện tượng
văn học. Thị sai khơng phải là hiện tượng có ở những người chưa phát triển về
văn học mà ngay cả những bạn đọc có thể nói là thiên tài văn học. Chẳng hạn,
L.Tôn xtôi, nhà văn Nga vĩ đại tầm cỡ thế giới lại có nhận thức khác lạ về
Sêchxpia. Với L.Tôn xtôi, Sêchxpia là nhà văn tồi, thiếu cái tối thiếu của một
nhà văn (Về Sêchxpia, NXBXưtin, Matxcơva, 1905). Độ thị sai về đánh giá với
TPVH luôn diễn ra trong TNVH. Độ chênh không chỉ diễn ra ở các thời điểm
cách xa nhau do sự trưởng thành của bản thân chủ thể mà có khi vẫn xảy ra trong
những thời điểm khơng cách xa nhau nhưng vì tâm trạng đổi khác. Khơng nên
giải thích đơn thuần “độ thị sai” bằng nguyên nhân thời đại, giai cấp, lịch sử - xã
hội. Đó cịn do ngun nhân khoảng cách giữa nhà văn với bạn đọc. Thế giới

13


cuộc đời nhà văn với thế giới cuộc đời bạn đọc vốn xa cách, trong cảm thụ lại
phụ thuộc vào vốn sống trực tiếp và gián tiếp cùng nhiều yếu tố khác của bản
thân chủ thể như thị hiếu, thói quen thẩm mỹ, năng lực văn học...
Dựa vào tính chủ quan trong TNVH, GV một mặt cần có cách tổ chức phát
huy hết khả năng sáng tạo của chủ thể tiếp nhận; mặt khác cũng cần uốn nắn,
điều chỉnh, định hướng sao cho khơng có hiện tượng hiểu sai lệch ý đồ tư tưởng
của tác giả cũng như tác phẩm.
1.1.1.2. Tính khách quan trong tiếp nhận văn học

TPVH là thế giới tinh thần của nhà văn, nó tồn tại khách quan và độc lập với
bạn đọc, nó mang trong mình lớp nghĩa hàm ngơn và hiển ngơn. Tính khách
quan trong TNVH được quy định bởi nội dung ý nghĩa khách quan của TPVH.
Dù muốn hay không khi sáng tác nhà văn phải có sự liên hệ hữu cơ với trào lưu
tư tưởng xã hội nhất định. Vì vậy tiếp nhận chủ quan của bạn đọc cũng phải căn
cứ vào ý nghĩa khách quan của hiện tượng trong văn bản. Tính chủ quan chỉ là
một phương diện của hoạt động cảm thụ. Tính chủ quan chỉ được giải thích trong
mối quan hệ với tính khách quan. Xác định tính khách quan trong TNVH là chấp
nhận mối quan hệ giữa tồn tại và ý thức, xã hội và cá nhân. Con người là tổng
hòa của nhiều quan hệ xã hội, làm sao mỗi chủ thể lại là một đơn vị biệt lập
không chịu ảnh hưởng những tác nhân lịch sử xã hội mà chính họ dù muốn hay
khơng vẫn cần phải tắm mình trong đó. Chính những điều kiện lịch sử, giai cấp,
thời đại đã tạo nên khuynh hướng, chiều hướng khách quan của cảm thụ văn học
nghệ thuật cá nhân. Thường cảm hứng lịch sử, khơng khí tâm lí thời đại quy định
một cách rất đậm nét tâm lí người cảm thụ và hiệu suất cảm thụ. Khơng hịa nhập
vào khơng khí lịch sử thời đại của TPVH khơng thể hiểu được vẻ đẹp của nó.
Xét trong mối quan hệ giữa bạn đọc và tác phẩm, chúng ta thấy rằng bản thân tác
phẩm sẽ quy định chiều hướng và hiệu suất cảm thụ của người đọc. Tính khác quan

14


của TNVH còn phụ thuộc vào sự khác nhau của thể loại và phương diện thể hiện.
Tuy nhiên nói đến tính chủ quan và tính khách quan trong TNVH là hai
phương diện, hai mặt của một quá trình thống nhất. Tuyệt đối hóa chủ quan là sa
vào con đường duy tâm chủ quan, phủ nhận vai trò của tồn tại đối với ý thức.
Ngược lại chỉ thấy phương diện khách quan mà loại trừ gạt bỏ tính năng động
chủ quan của chủ thể thì rơi vào nhận thức máy móc. Hai yếu tố khách quan và
chủ quan có tác động qua lại, chuyển hóa, thâm nhập một cách biện chứng và
linh hoạt. Trong q trình TNVH vai trị chủ quan cần được đặc biệt coi trọng.

Những tác nhân bên ngoài chỉ thực sự có hiệu quả khi nó được chuyển hóa thành
sức mạnh bên trong của bản thân chủ thể và ngược lại những yếu tố bên trong
chỉ thực sự có ý nghĩa khi được bắt nguồn từ yếu tố bên ngoài. Trong nhà
trường, TNVH của HS cũng tuân theo quy luật đó. Phát huy tính chủ quan là
phát triển nhân cách, phát triển sự năng động, sáng tạo của chủ thể HS. Người
GV cần căn cứ vào những dặc điểm của q trình TNVH, đặc điểm tâm lí HS,
tơn trọng những cảm nhận riêng, khuyến khích những khám phá, sáng tạo riêng của
mỗi cá nhân, làm sống dậy những tình cảm, những kinh nghiệm cá nhân để phát
huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS trong tiếp nhận TPVH.
Hoạt động liên tưởng, tưởng tượng vốn là một biểu hiện của TNVH, nó trở
thành cơng cụ tất yếu giúp HS tự cảm thụ, khám phá và chiếm lĩnh TPVH.
1.1.2. Hoạt động liên tưởng và tưởng tượng
1.1.2.1. Liên tưởng và tưởng tượng trong hoạt động tâm lý của con người
Cảm giác và tri giác là hai quá trình tâm lý của giai đoạn nhận thức cảm tính
(trực quan), có vai trị quan trọng đối với sự định hướng các hành vi và hoạt
động của con người, đặc biệt trong việc hình thành biểu tượng của giai đoạn
nhận thức lý tính (gián tiếp). Biểu tượng là một bậc thang chuyển tiếp từ các
hình ảnh cụ thể đến khái quát trừu tượng, từ cảm giác và tri giác đến tư duy.

15


Biểu tượng được coi là hạt nhân của tưởng tượng, trí nhớ là phương thức tồn tại
của nó. Trí nhớ hoạt động có q trình, bao gồm hai giai đoạn cơ bản. Giai đoạn
thứ nhất là giai đoạn ghi nhớ các vật thể và các hiện tượng đã được tri giác (ghi
nhớ tri giác). Giai đoạn thứ hai, nhớ lại những gì đã ghi nhớ (ghi nhớ biểu tượng)
,đây là giai đoạn kết quả của q trình ghi nhớ, nó bao gồm hai cấp độ: nhận ra
(mức độ thấp) và nhớ ra (mức độ cao). Người ta có thể nhớ lại khơng chủ định
hoặc nhớ lại có chủ định. Điều này rất có ý nghĩa đối với vấn đề huy động trí
nhớ để hồi cố những ký ức tình cảm và vốn sống, vốn văn học… trong việc xây

dựng biểu tượng. Mỗi lần có sự nhớ lại thì lại khơng phải là sự sao chép đúng
hoàn toàn cái đã xảy ra khi tri giác nên biểu tượng được nhớ lại trong trí nhớ
cũng khơng phải sự sao chép hồn tồn những tri giác đã có trước đây, mà có sự
biến dạng ít nhiều. Về hiện tượng này, A.Ruđích lý giải: "Bất kỳ sự ghi nhớ hay
học thuộc nào cũng đòi hỏi phải thiết lập các mối liên hệ thần kinh tương ứng
hay còn gọi là liên tưởng" [24, tr. 293]
Hoạt động liên tưởng. „„Liên tưởng chỉ mối liên hệ giữa các yếu tố tâm lý, nhờ
đó sự xuất hiện của một yếu tố này trong những điều kiện nhất định gây nên một
yếu tố khác liên quan với nó ” [11, tr. 24]. Tâm lý học phân biệt ba loại liên tưởng:
Liên tưởng gần nhau: diễn ra theo cơ chế tác động hệ quả, thể hiện mối liên
hệ lơgích thứ tự hô ứng do ký ức tự gợi ra.
Liên tưởng giống nhau (hay còn gọi là liên tưởng tương đồng): dựa vào các
mối liên hệ thần kinh do hai đối tượng giống nhau gây nên. Chúng xảy ra trong
trường hợp sự tri giác về một vật thể nào đó sẽ gây nên trong trí nhớ sự nhớ lại
một vật thể tương tự ngay cả lúc nó khơng được tri giác đồng thời hay bên cạnh
vật thứ nhất. Hiện tượng liên tưởng này có ý nghĩa tích cực vì nó tạo cho chủ thể
có cơ sở so sánh, đồng thời làm cho việc ghi nhớ có chủ đích đạt hiệu quả tốt hơn.
Liên tưởng tương phản: có hình thức gần với liên tưởng giống nhau, nhưng
16


ở đây sự tri giác một vật thể nào đó lại gây nên trong trí nhớ hồi ức về một vật
thể khác có những dấu hiệu (đặc điểm, tính chất) hoàn toàn ngược lại. So với
liên tưởng giống nhau, loại liên tưởng này giúp cho con người có khả năng tư
duy so sánh rõ hơn.
Hoạt động tưởng tượng. Có thể xem "tưởng tượng là một quá trình tâm lý
phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây
dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có" [5, tr. 167]. Các
nhà tâm lý học chia tưởng tượng làm hai loại:
- Tưởng tượng tiêu cực: ở một số hoàn cảnh nhất định, những hình ảnh do

tưởng tượng mà có được sẽ có thể xuất hiện như là một vật thay thế cho hoạt
động, dẫn con người vào địa hạt của những biểu tượng hoang đường.
- Tưởng tượng tích cực: tạo ra những hình ảnh phù hợp nhằm đáp ứng những
nhu cầu bức xúc, kích thích tính tích cực và tính thực tế của con người, nó biểu
hiện ở hai cấp độ:
Cấp độ thứ nhất, tưởng tượng tái tạo là quá trình tưởng tượng tạo ra những
hình ảnh chỉ là mới đối với cá nhân người tưởng tượng và dựa trên cơ sở miêu tả
hoặc gợi ý của người khác.
Cấp độ thứ hai, tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng hình ảnh mới
một cách độc lập. Những hình ảnh được xây dựng được coi là mới với cả bản
thân người tưởng tượng và mới với cả xã hội, mang dấu ấn riêng của từng cá
nhân [5, tr. 173-174]
Về điều kiện, quá trình tưởng tượng trước hết phụ thuộc vào nhu cầu, hứng
thú của con người. Đặc biệt, nếu đó là cơng việc được thực hiện trong điều kiện
có hứng thú cao thì trí tưởng tượng càng có điều kiện được kích thích và phát
triển mạnh mẽ. Cũng cần khẳng định rằng: tình cảm có vai trị như chất men vừa
17


xúc tác vừa thúc đẩy và duy trì quá trình tưởng tượng.
Về cơ chế, những hình ảnh do trí tưởng tượng tạo ra bao giờ cũng dựa trên
những biểu tượng cũ đã tri giác được trước đây theo các phương thức: thay đổi
kích thước biểu tượng cũ, phóng đại lên hoặc thu nhỏ lại; kết hợp, chắp ghép các
biểu tượng với nhau hoặc lấy một số chi tiết của biểu tượng này kết hợp với một
số chi tiết của biểu tượng khác tạo thành một hình ảnh mới; nhấn mạnh hay
cường điệu hóa một số thuộc tính của biểu tượng cũ; chuyển tính chất của đối
tượng này sang đối tượng khác hay cịn gọi là liên tưởng, nhìn đối tượng này là
hình dung ra đối tượng khác; tạo ra một hình ảnh mới sau khi đã khái quát được
nhiều nét cùng có ở nhiều đối tượng cùng loại để hình ảnh đó mang được tính
chất vừa cá biệt vừa tiêu biểu và điển hình cho nhiều đối tượng. Nếu nó được

xây dựng trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ định sẵn thì gọi là tưởng tượng có chủ
định; cịn trong trường hợp là kết quả tưởng tượng ngẫu nhiên, xuất thần... thì
gọi là tưởng tượng khơng chủ định … [23, tr. 80]
Có một yếu tố xuyên thấm suốt trong các q trình biểu tượng, trí nhớ, liên
tưởng, tưởng tượng... đó là cảm xúc, một yếu tố hạt nhân của các q trình này.
Nó có vai trị kích thích hay kìm hãm trong việc khơi dậy, duy trì hay kết thúc
các quá trình tâm lý. Vì thế, đặt vấn đề nghiên cứu về biểu tượng, trí nhớ, liên
tưởng, tưởng tượng... khơng thể khơng nghiên cứu vai trị, sức tác động của cảm
xúc trong việc hướng tới mục đích, nhiệm vụ đề ra, đặc biệt đối với tâm lý học
sáng tạo nghệ thuật và quá trình cảm thụ, TNVH trong nhà trường.
Mối quan hệ giữa liên tưởng và tưởng tượng. Liên tưởng có được nhờ cảm
xúc và trí nhớ; cịn tưởng tượng là kết quả của các quá trình cảm giác, quá trình
tri giác, đặc biệt là quá trình hình thành biểu tượng trong đó có giai đoạn huy
động trí nhớ và liên tưởng. Có thể tìm hiểu mối quan hệ giữa liên tưởng và tưởng
tượng từ một định nghĩa về tưởng tượng: "Tưởng tượng là sự hoạt động của nhận
18


×