Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Rèn kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.08 KB, 15 trang )

Rèn kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng trong
dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12


Đinh Thị Thanh Thủy


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn ngữ văn)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Trọng Hoàn
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn của hoạt động liên tưởng,
tưởng tượng nghệ thuật của HS trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình. Đề xuất một
số biện pháp để rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS thông qua
các tác phẩm thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn. Tiến hành thực nghiệm sư
phạm theo hướng phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS để
khẳng định tính khả thi và hiệu quả của đề tài.

Keywords. Phương pháp dạy; Ngữ văn; Kỹ năng liên tưởng; Kỹ năng tưởng
tượng


Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Trong thế kỷ XXI, nhiệm vụ hiện đại hoá giáo dục được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt
chú trọng, trong đó yêu cầu phải đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy
là vấn đề then chốt. Gần đây nhất, trong lần thay sách giáo khoa Ngữ văn 2006 bậc THPT


(trung học phổ thông), việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã đặt trọng tâm vào việc
đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy và học chúng ta
mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ
trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.
1.2. Trong dạy học TPVH (tác phẩm văn học) cũng như tác phẩm thơ trữ tình, tiếp nhận
TPVH trở thành quá trình đồng sáng tạo. Liên tưởng, tưởng tượng được xác định là năng
lực quan trọng trong quá trình TNVH (tiếp nhận văn học). Liên tưởng, tưởng tượng nghệ
thuật của HS (học sinh) góp phần chuyển hóa tác phẩm của tác giả thành tác phẩm trong
hành trang tinh thần của HS. Liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật được xem là những
phương thức tư duy để phát triển và hoàn thiện tâm hồn, trí tuệ cũng như nhân cách HS.
1.3. Thực tế dạy và học TPVH nói chung, tác phẩm thơ trữ tình nói riêng trong nhà
trường THPT hiện nay đã có nhiều đổi mới song GV (giáo viên) lại ít quan tâm đến hoạt
động tiếp nhận - hoạt động liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS. Về phía HS, năng
lực cảm thụ về TPVH thông qua liên tưởng, tưởng tượng cũng rất khác nhau. Những bài
viết thể hiện được sức liên tưởng, tưởng tượng sâu sắc không nhiều. Còn rất nhiều bài
văn thường có những liên tưởng, tưởng tượng nông cạn, thậm chí còn sai lệch đáng lo
ngại. Có thể nói hoạt động liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật chưa thực sự được quan
tâm đúng mức, chưa trở thành kĩ năng đối với HS trong quá trình tư duy sáng tạo và tiếp
nhận TPVH. .
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật nói chung từng thu hút sự quan tâm
không chỉ giới sáng tác mà còn là vấn đề hấp dẫn đối với các nhà khoa học sư phạm. Trong
đó có thể kể đến những luận điểm nổi bật sau:
* Liên tưởng, tưởng tượng có một vai trò quan trọng trong TNVH, có thể kể đến như: Cảm
thụ và giảng dạy văn học của tác giả Phan Trọng luận NXB Giáo dục (1983); Dạy văn dạy
cái hay cái đẹp của tác giả Nguyễn Duy Bình, NXB Giáo dục(1983); Giảng văn, nhiều tác
giả, Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh(1981)
Giáo sư Phan Trọng luận cho rằng: Năng lực liên tưởng và tưởng tượng có thể được
xem như sự biểu hiện và dấu hiệu đặc trưng của cảm thụ văn học; nếu không có nó, việc
lĩnh hội tác phẩm thực sự sẽ gặp phải những khó khăn.

Tác giả Nguyễn Duy Bình đặt liên tưởng, tưởng tượng như một điều kiện tiên quyết
đối với quá trình tiếp nhận của bạn đọc nói chung và bạn đọc - HS trong giờ dạy học
TPVH nói riêng. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá tầm quan trọng của yếu tố chủ quan của
liên tưởng và tưởng tượng.
Tác giả Lâm Vinh nhận định: Liên tưởng và tưởng tượng vừa mang tính chất cảm tính
vừa mang tính chất lý tính. Đặc điểm này cũng hàm chứa hạn chế của tính chất chủ quan
trong TNVH nói riêng và tiếp nhận nghệ thuật nói chung.
* Liên tưởng, tưởng tượng là một trong những đặc trưng xác nhận quá trình nhận thức cá
nhân, có thể kể đến như: Xã hội - Văn học - Nhà trường của tác giả Phan Trọng Luận,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (1996); Văn học tầm nhìn biến đổi của tác giả Nguyễn
Thanh Hùng, NXB Văn học (1994); Văn học và nhân cách của tác giả Nguyễn Thanh
Hùng, NXB Văn học (1996); Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Đổi mới phương pháp dạy học
văn PTTH”(1995)…
Giáo sư Phan Trọng Luận đặc biệt nhấn mạnh: liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật
trong dạy học văn được xem là những phương thức tư duy tự khám phá, tự tiếp cận và tự
chiếm lĩnh kiến thức để phát triển và hoàn thiện tâm hồn, trí tuệ cũng như nhân cách HS.
Còn giáo sư Nguyễn Thanh Hùng đã chỉ ra sự phân biệt cấp độ và yêu cầu của từng
giai đoạn trong quá trình TNVH ở HS.
Tác giả Trương Dĩnh xuất phát từ những "cuộc giao tiếp im lặng" giữa bạn đọc và
nhà văn để khẳng định trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng có vai trò “chìa khóa” mở ra
thế giới nghệ thuật phong phú mà nhà văn tạo dựng.
* Liên tưởng, tưởng tượng trong mối quan hệ với hoạt động tích cực của bạn đọc- HS.
Trong cuốn Phương pháp dạy học văn do Z. Ia. Rez chủ biên, NXB Giáo dục (1983) đã
dưa ra điểm coi HS là một thành viên chính thức trực tiếp tham gia xây dựng nội dung kiến
thức trong quá trình phân tích tác phẩm văn học.
Trong báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học đổi mới Phương Pháp dạy học văn theo
hướng “HS là trung tâm” giáo sư Phan Trọng Luận kết luận: khả năng tư duy sáng tạo thể
hiện bằng con đường liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật được xem như những hoạt động
hướng nội, hoạt động bên trong của chủ thể HS.
* Vai trò của liên tưởng, tưởng tượng trong cấu trúc hoạt động TNVH của HS.

Có thể kể đến cuốn Phương pháp dạy học văn do Phan Trọng Luận chủ biên, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội (1996); Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hương, NXB Giáo dục (1998).
Giáo sư Phan Trọng Luận xác định vị trí, vai trò quan trọng của liên tưởng, tưởng
tượng của HS qua mô hình về quá trình thâm nhập một tác phẩm văn học. Tác
giả Nguyễn Thị Thanh Hương nhấn mạnh: bản thân tác phẩm bao hàm sự gợi ý, kích thích
trí tưởng tướng sáng tạo của bạn đọc.
Trong cuốn Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương của tác giả
Nguyễn Trọng Hoàn, NXB Giáo dục (2001) đã tập trung nghiên cứu hoạt động liên tưởng,
tưởng tượng của HS trong giờ giảng văn, đặt nó trong một hệ thống lý luận bao gồm đối
tượng, mục đích, cơ chế, phương thức thực hiện và biện pháp định hướng thẩm mỹ, khắc phục
những hạn chế của liên tưởng, tưởng tượng. Từ việc xác định liên tưởng, tưởng tượng là những
yếu tố then chốt để khai thác, chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật của TPVH tác giả đã đi vào nghiên
cứu điều kiện xuất hiện, cơ chế vận hành, mối quan hệ giữa liên tưởng, tưởng tượng với các thao
tác khác của tư duy sáng tạo và vị trí của nó trong từng giai đoạn nhận thức để làm nên tính đặc
thù của hoạt động TNVH trong nhà trường.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được lựa chọn nghiên cứu là: năng lực liên tưởng, tưởng tưởng nghệ thuật
của HS lớp 12 trong quá trình tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình trong SGK lớp 12, chương
trình chuẩn; vai trò của liên tưởng, tưởng tượng trong hoạt động tâm lý cũng như trong
sáng tạo nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi cụ thể là 5 tác phẩm thơ trữ tình trong SGK lớp
12, chương trinh chuẩn : Tây Tiến (Quang Dũng); Việt Bắc (Đoạn trích - Tố Hữu); Đất
Nước (Trích Trường ca mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm); Sóng (Xuân
Quỳnh); Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo)
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua những liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS, GV tổ chức quá trình

đồng sáng tạo, tổ chức quá trình giao tiếp thẩm mỹ giữa nhà văn và bạn đọc - HS. Từ đó
giúp GV có thêm một con đường để tổ chức cho HS cảm thụ, khám phá và chiếm lĩnh tác
phẩm thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn. Đồng thời, giúp HS hình thành kĩ năng
liên tưởng, tưởng tượng khi tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình nói riêng và TPVH nói
chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn của hoạt động liên tưởng, tưởng tượng
nghệ thuật của HS trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình.
- Đề xuất một số biện pháp để rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS
thông qua các tác phẩm thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm theo hướng phát huy năng lực liên tưởng, tưởng
tượng nghệ thuật của HS để khẳng định tính khả thi và hiệu quả của đề tài.
5. Giả thuyết khoa học
Trong bối cảnh dạy học tác phẩm văn chương còn mang tính thụ động, nếu hình thành
được kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật cho học sinh khi tiếp nhận tác phẩm thơ
trữ tình sẽ phát huy được năng lực tự học, tư duy sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học tác phẩm thơ trữ tình.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp khảo sát thực tế
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học
tác phẩm thơ trữ tình lớp 12
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Lý thuyết tiếp nhận văn học
1.1.1.1.Tính chủ quan trong tiếp nhận văn học
Trước một TPVH, một vấn đề, một sự kiện văn học mỗi bạn đọc lại có cách tiếp
nhận khác nhau. Sự năng động chủ quan và tính chất "tự do" của chủ thể tiếp nhận trong
quá trình "đối thoại" với nhà văn thông qua tác phẩm vừa thể hiện xu hướng "đồng nhất
thẩm mỹ" vừa tạo nên "khoảng cách thẩm mỹ". Đó là tính đặc thù đồng thời là quy luật của
TNVH.
1.1.1.2. Tính khách quan trong tiếp nhận văn học
Tính khách quan trong TNVH được quy định bởi nội dung ý nghĩa khách quan của
TPVH. Dù muốn hay không khi sáng tác nhà văn phải có sự liên hệ hữu cơ với trào lưu tư
tưởng xã hội nhất định. Chính những điều kiện lịch sử, giai cấp, thời đại đã tạo nên khuynh
hướng, chiều hướng khách quan của cảm thụ văn học nghệ thuật cá nhân.
Tính chủ quan và tính khách quan trong TNVH là hai phương diện, hai mặt của
một quá trình thống nhất. Hai yếu tố này có tác động qua lại, chuyển hóa, thâm nhập một
cách biện chứng và linh hoạt.
1.1.2. Hoạt động liên tưởng và tưởng tượng
1.1.2.1. Liên tưởng và tưởng tượng trong hoạt động tâm lý của con người
* Hoạt động liên tưởng
Liên tưởng chỉ mối liên hệ giữa các yếu tố tâm lý, nhờ đó sự xuất hiện của một yếu tố
này trong những điều kiện nhất định gây nên một yếu tố khác liên quan với nó. Tâm lý học
phân biệt ba loại liên tưởng: Liên tưởng gần nhau, liên tưởng giống nhau (liên tưởng tương
đồng), liên tưởng tương phản.
* Hoạt động tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng
đã có. Các nhà tâm lý học chia tưởng tượng làm hai loại: Tưởng tượng tiêu cực; tưởng tượng tích
cực (biểu hiện ở hai cấp độ là tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo).
* Mối quan hệ giữa liên tưởng và tưởng tượng.
Liên tưởng có được nhờ cảm xúc và trí nhớ; còn tưởng tượng là kết quả của các quá

trình cảm giác, quá trình tri giác, đặc biệt là quá trình hình thành biểu tượng trong đó có
giai đoạn huy động trí nhớ và liên tưởng. Liên tưởng vừa là một hiện tượng tâm lý độc lập,
đồng thời cũng có thể xem nó là một "giai đoạn", một "thao tác" trong quá trình tưởng
tượng. Vì vậy, liên tưởng trở thành một điều kiện vận hành của tưởng tượng: nhờ có liên
tưởng, những hình ảnh mà tưởng tượng tạo ra được hoàn thiện và phong phú, sinh động; và
ngược lại, nếu khả năng liên tưởng kém, những hình ảnh mà tưởng tượng tạo ra sẽ hạn chế
và phiến diện.
1.1.2.2. Hoạt động liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật trong sáng tạo văn học
Liên tưởng và tưởng tượng được xem như những quá trình tâm lý sáng tạo đặc thù
trong sáng tác văn học.
* Hoạt động liên tưởng
Có thể phân loại theo các hình thức biểu hiện sau: Liên tưởng gần giống thể hiện mối
quan hệ tất yếu, tiềm tàng giữa tín hiệu vật chất hiện tại và kinh nghiệm, dựa trên những
nét gần nhau về bộ phận; Liên tưởng giống nhau thể hiện mối quan hệ bản chất, tương
đồng giữa vật liên tưởng và vật được liên tưởng; Liên tưởng đối lập thể hiện mối quan hệ
giữa hiện thực và mặt khác biệt của nó trong cùng một hệ thống tồn tại; Liên tưởng theo
quan hệ thời gian gần với liên tưởng hồi ức là liên tuởng xuất hiện do sức gợi của các yếu
tố sự vật trong hiện thực về phía kỷ niệm; Liên tưởng theo quan hệ không gian là liên
tưởng được mở ra đa chiều do sức gợi của các yếu tố hiện thực có quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp.
Việc sử dụng mỗi loại liên tưởng, mức độ sử dụng mỗi loại liên tưởng còn tùy thuộc
ở năng lực và sở trường của từng nhà văn, thậm chí còn phải phù hợp với đặc trưng riêng
của từng thể loại văn học. Đôi khi nó được sử dụng trong mối quan hệ đan xen, phối hợp
nhằm tạo ra sức biểu hiện cao nhất, hiệu quả diễn đạt ấn tượng nhất.
* Hoạt động tưởng tượng
Có hai loại tưởng tượng trong sáng tác văn học: Tưởng tượng tái hiện trên cơ sở quy
nạp các ấn tượng của trí nhớ; Tưởng tượng sáng tạo trên cơ sở những vận động tự do
không lệ thuộc ấn tượng có trước.
Quá trình vận hành của cả hai loại tưởng tượng trên đều dựa trên sự cung cấp dữ liệu
của trí nhớ. Do đó, một hình tượng sáng tạo nhất vẫn ít nhiều dựa trên các dữ liệu nào đó

của quá trình nhà văn cảm thụ đời sống và dựa trên quá trình vận động của những biểu
tượng nhất định.
1.1.2.3. Hoạt động liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật trong tiếp nhận văn học
Đến với TPVH, bạn đọc như được tham gia vào một cuộc giao tiếp lớn, một cuộc giao
tiếp liên tục với tác giả trên mọi lĩnh vực. Trong quá trình ấy, người đọc phải dùng năng lực
tưởng tượng, liên tưởng, phân tích, suy luận, khái quát, khả năng giải mã thông tin ngôn ngữ…
để cụ thể hóa mọi điều trong tác phẩm, để cắt nghĩa và hiểu tác phẩm. Liên tưởng nghệ thuật
giữ vai trò duy trì và điều chỉnh tính tích cực thẩm mỹ của người tiếp nhận. Cùng một tác
phẩm, có thể tạo ra những "hiệu ứng nghệ thuật" khác nhau trong từng người đọc. Hình
tượng trong văn bản tác phẩm có khả năng gợi ra những hướng liên tưởng, tưởng tượng
phong phú khác nhau. Những yếu tố chủ quan và khách quan có khả năng tác động rõ nhất
đến quá trình liên tưởng, tưởng tượng trong cảm thụ và TNVH là: Cảm hứng và sự xúc
động thẩm mỹ khi thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm; Khả năng huy động
hiệu quả và chính xác trường liên tưởng của mỗi chủ thể tiếp nhận; Khả năng cắt nghĩa "tri
thức bối cảnh" và "nhịp điệu sinh tồn" của tác phẩm; Khả năng cảm thụ ngôn ngữ chính
xác và phong phú.
Nói tới giờ dạy học TPVH cũng là nói tới một phương thức chiếm lĩnh đời sống bằng
ngôn ngữ và hình tượng văn học, nói tới "sự chuyển hóa tự thân của chủ thể" thông qua
những liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật - "đồng sáng tạo" của HS dưới sự
hướng dẫn nhận thức của GV.
1.1.3. Những điều cần chú ý trong việc hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm thơ trữ
tình
1.1.3.1. Khái niệm về thơ trữ tình
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ là một hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc
sống, thể hiện những tâm trạng, cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh
và nhất là có nhịp điệu”
1.1.3.2. Đặc điểm của thơ trữ tình
*Nội dung trữ tình : thể hiện thế giới tâm hồn của nhà thơ - chủ thể trữ tình tác giả. Đó
chính là những suy tư của nhà thơ về thiên nhiên, cuộc sống, con người
*Hình thức trữ tình: là cách thể hiện nội dung trữ tình của nhà thơ, gồm các yếu tố: biểu

tượng, ngữ điệu, phép tu từ, ngôn từ…
1.1.3.3. Đặc điểm đối tượng tiếp nhận
- Sự phát triển của cảm giác, tri giác, năng lực quan sát.
- Sự phát triển của trí nhớ
- Sự phát triển tư duy trừu tượng
- Sự phát triển của tưởng tượng
- Sự phát triển năng lực ngôn ngữ
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Thực trạng hoạt động rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng của giáo viên trong giờ
dạy học tác phẩm thơ trữ tình ở nhà trường THPT hiện nay
1.2.1.1. Khảo sát thực trạng hoạt động rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng của giáo viên
trong giờ dạy tác phẩm thơ trữ tình ở nhà trường THPT hiện nay
Để nắm bắt cụ thể hơn tình hình thực tiễn rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng của GV
trong giờ dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12 ở nhà trường phổ thông, chúng tôi đã tiến
hành khảo sát tại tổ văn ở 2 trường THPT Trần Hưng Đạo, quận Hà Đông, Hà Nội (4 GV)
và trường THPT Hàm Long, thành phố Bắc Ninh (4 GV): lựa chọn mỗi GV 2 giáo án và
dự giờ chính những GV có giáo án đã được khảo sát; Ngoài ra, chúng
tôi còn sử dụng phiếu điều tra bằng cách soạn hệ thống câu hỏi trắc nghiệm cho GV trả lời.
1.2.1.2. Đánh giá kết quả khảo sát
Qua khảo sát giáo án, dự giờ và phiếu điều tra chúng tôi nhận thấy thực trạng tổ chức
dạy học tác phẩm thơ trữ tình nói chung và việc rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng cho
HS trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình nói riêng hiện nay có một thực tế: GV ít có điều
kiện quan tâm đến diễn biến hoạt động tiếp nhận của HS, khiến cho việc quan tâm đến việc
tổ chức hoạt động liên tưởng và tưởng tượng cho HS trong hệ thống việc làm tích cực của
HS không được đảm bảo; một bộ phận GV thường chỉ thiên về việc phân tích ngôn từ, các
thủ pháp nghệ thuật ; việc tổ chức hoạt động liên tưởng và tưởng tượng của HS, GV áp
dụng chỉ mang tính ngẫu nhiên, thiếu ý thức chủ động.
1.2.1.3. Đề xuất của tác giả luận văn
GV cần bám sát những câu hỏi yêu cầu HS liên tưởng, tưởng tượng ở phần hướng dẫn
học bài trong SGK (sách giáo khoa) Ngữ văn lớp 12; đồng thời định hướng cho HS chuẩn

bị bài đầy đủ theo hướng này, kiểm soát chặt chẽ công việc này thì hiệu quả dạy học theo
hướng phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng tích cực của HS sẽ khả quan hơn.
Để giúp GV có những định hướng, biện pháp, cách thức tổ chức hoạt động liên tưởng,
tưởng tượng nghệ thuật cho HS, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng
liên tưởng, tưởng tượng cho HS khi tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình lớp 12.
1.2.2. Thực trạng về hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ học tác
phẩm thơ trữ tình ở nhà trường THPT hiện nay
1.2.2.1. Khảo sát về hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ học tác
phẩm thơ trữ tình ở nhà trường THPT hiện nay
Chúng tôi tiến hành khảo sát 348 HS ở 2 trường: THPT Trần Hưng Đạo, quận Hà Đông,
Hà Nội và trường THPT Hàm Long, thành phố Bắc Ninh. Lớp được khảo sát mang tính đại
trà và ngẫu nhiên. Nội dung khảo sát: chúng tôi xây dựng hệ thống câu hỏi tự luận (5 câu hỏi
thuộc 5 tác phẩm thơ trữ tình lớp 12) cho HS trả lời nhằm mục đích đặt HS trước yêu cầu vận
dụng năng lực liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phiếu điều
tra bằng cách soạn hệ thống câu hỏi trắc nghiệm cho HS trả lời.
1.2.2.2. Đánh giá kết quả khảo sát năng lực liên tưởng, tưởng tượng của HS trong giờ học
tác phẩm thơ trữ tình
Rất ít HS đã thể hiện được năng lực liên tưởng và tưởng tượng khá phong phú. thường
tập trung ở những HS có lực học khá, giỏi (chiếm 5%).
Còn khá nhiều HS có những liên tưởng, tưởng tượng nông cạn và sai lệch đáng lo ngại
(38%). Nguyên nhân sâu xa của những hiện tượng kể trên có thể do HS chưa thực sự tập
trung chú ý vào bài học, có thể do vốn hiểu biết về văn học còn nghèo nàn, có thể do khả
năng tri giác và giải mã ngôn ngữ hạn chế, cũng có thể không có khả năng diễn đạt ý tưởng
thành ngôn ngữ tường minh, do khả năng hoạt động của trí nhớ và liên kết hình ảnh kém
hiệu quả, hoặc không có khả năng hình dung và hình thành biểu tượng nghệ thuật.
1.2.2.3 Đề xuất của tác giả luận văn
Việc hình thành ý thức trau dồi ngôn ngữ, tích lũy vốn biểu tượng cũng như kĩ
năng liên tưởng, tưởng tượng cùng với các kĩ năng phân tích văn học khác cho HS
là một yêu cầu thiết thực trong quá trình dạy học văn.


CHƢƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LIÊN TƢỞNG, TƢỞNG TƢỢNG TRONG
DẠY HỌC TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12
2.1. Cơ sở của việc đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng
trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12
2.1.1. Đối tượng của hoạt động liên tưởng, tưởng tượng trong giờ đọc văn
Giờ dạy TPVH trong nhà trường là phương thức tiếp nhận lấy tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ làm đối tượng. Vì thế, đối tượng của liên tưởng, tưởng tượng trong bài học TPVH
là hình tượng đời sống kết tinh trong nghệ thuật ngôn từ, ngôn từ trong một hệ thống cấu
trúc hình tượng chặt chẽ thể hiện tính sinh động nghệ thuật, tính cá biệt không lặp lại.
2.1.2. Mục đích liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn
Mục đích của liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học TPVH cũng không chỉ làm
"chuyển dời" các lớp nghĩa mà còn liên kết các nét nghĩa, mở rộng trường nghĩa cho hình
tượng được hiện lên lung linh sống động; giúp cho việc tiếp nhận tác phẩm được trọn vẹn,
sâu sắc. Liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật có khả năng tựu nghĩa và tạo nghĩa, vừa
khái quát vừa khám phá những "đường viền" nghệ thuật mới mẻ. Mỗi người đọc trên cơ sở
cảm xúc, khả năng liên tưởng và huy động vốn biểu tượng sẽ bổ sung những yếu tố, đường
nét thành "tác phẩm" mang dấu ấn của riêng mình.
2.1.3. Phương thức liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn
Phương thức liên tưởng và tưởng tượng trong TNVH của HS được bắt đầu từ thao tác
đọc với những nhân tố đặc trưng: các nhân vật tham gia giao tiếp là HS và nhà văn. Đọc sách
cũng chính là quá trình liên tưởng, là hồi ức, là tưởng tượng.
Song song với thao tác đọc, cần xác định những dấu hiệu nghệ thuật trong TPVH để
liên tưởng, tưởng tượng. Các dấu hiệu nghệ thuật cơ bản trong TPVH gồm: ngôn ngữ; thể
loại; không gian nghệ thuật; thời gian nghệ thuật; thái độ và phong cách tác
giả; yếu tố thời đại.
2.1.4. Cơ chế liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn
Liên tưởng và tưởng tượng là quá trình chuyển ngôn ngữ bên ngoài vào ngôn ngữ bên
trong. Cơ chế chuyển mã của nó: từ mã ngôn ngữ nghệ thuật của văn bản tác phẩm sang
mã hình tượng thẩm mỹ trong hình dung của bạn đọc - HS. Với việc học tác phẩm nghệ

thuật ngôn từ, cơ chế liên tưởng và tưởng tượng vận hành theo cơ chế chuyển mã: từ mã
ngôn ngữ sang mã hình tượng.
2.1.5. Giới hạn của liên tưởng, tưởng tượng và vấn đề định hướng thẩm mỹ cho học sinh
Trong quá trình dạy văn, một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với GV là khả năng kiểm
soát được diễn biến và kết quả nhận thức của HS. Giới hạn của liên tưởng, tưởng tượng cũng
được xem như một phương diện của yêu cầu định hướng thẩm mỹ. Nói tới định hướng thẩm
mỹ là nói tới mối quan hệ giữa "khoảng cách thẩm mỹ" và "đồng nhất thẩm mỹ". Quá trình
"đồng nhất thẩm mỹ" trong TNVH biểu thị sự "gặp gỡ", nhất trí cao của những người đọc
khác nhau trước cùng một tác phẩm. Hướng tới hiệu quả "đồng nhất thẩm mỹ" là mục tiêu có
tính sư phạm trong dạy học TPVH, nhằm rút gần và san lấp những "khoảng cách thẩm mỹ"
để tạo ra sự nhất quán về hiệu quả nhận thức của HS trên những phương diện bản chất.
"Khoảng cách thẩm mỹ" là vấn đề có tính tất yếu, trong khi đó dạy học văn luôn luôn hướng
tới những mục đích cụ thể của "đồng nhất thẩm mỹ".
2.2. Điều kiện để thực hiện một só biện pháp rèn kĩ năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng
trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình
2.2.1. Chuẩn bị của GV
2.2.1.1. Xây dựng thiết kế bài giảng
Quá trình này yêu cầu mỗi GV phải bám sát kiến thức bài học, mục tiêu bài học. ,xác
định rõ nội dung cũng như thời lượng dành cho mỗi đơn vị kiến thức trong bài học để
đưa ra phương pháp và cách tổ chức dạy học phù hợp. Trên cơ sở đó xây dựng cách tổ
chức hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của HS sao cho linh hoạt, tránh chú trọng quá
nhiều mà không đặt nó trong hệ thống các hoạt động tiếp nhận sáng tạo khác. Đồng thời,
GV cần đa dạng hóa các hình thức luyện tập sáng tạo để phát huy khả năng liên tưởng,
tưởng tượng của HS. GV phải dự kiến được các tình huống phát sinh trước hoạt động
liên tưởng, tượng tượng của HS để có định hướng thẩm mỹ.
2.2.1.2. Chuẩn bị phương tiện dạy học
Phương tiện đầu tiên không thể thiếu khi tiến hành dạy học là SGK, SGV (sách
giáo viên) và thiết kế bài giảng. Ngoài ra, GV có thể thiết kế các mẫu phiếu học tập để tổ
chức cho HS thảo luận nhóm về một vấn đề đưa ra. Trong tiết dạy, GV còn phải chuẩn bị
một hệ thống các câu hỏi kiểm tra, đánh giá và các tiêu chí kiểm tra, đánh giá xếp loại

HS.
2.2.1.3. Chuẩn bị điều kiện học tập của học sinh
Trong mỗi giờ học TPVH, GV cần xây dựng chi tiết hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc
văn. Với giờ học tác phẩm thơ trữ tình, đòi hỏi GV phải có sự chuẩn bị riêng: xác định
giọng đọc, hệ thống câu hỏi để hướng dẫn và tổ chức HS đọc hiểu tác phẩm.
2.2.2. Chuẩn bị của học sinh
2.2.2.1. Ôn tập bài cũ, chuẩn bị bài mới
Việc ôn tập bài cũ cần có sự liên kết với kiến thức của nhiều bài học trước đó trong
cùng một vấn đề. Ôn tập bài cũ là nền tảng cơ sở của việc tiếp nhận bài mới. Quá trình
chuẩn bị bài mới không chỉ đơn thuần là HS đọc trước tác phẩm, soạn thảo đề cương các
câu trả lời cho câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài của SGK, mà HS cần tìm lại các phần
kiến thức đã học có liên quan đến bài mới.
2.2.2.2. Chuẩn bị thái độ, tâm thế
Khi được GV định hướng, HS cần có thái độ thực sự nghiêm túc và đúng đắn khi
chuẩn bị tìm hiểu bài mới ở nhà cũng như khi tiếp nhận bài mới trên lớp. Có
thể nói tâm thế chủ động khám phá và chiếm lĩnh tác phẩm, tìm được hứng thú học tập là
điều kiện nảy sinh những nhu cầu khát vọng thẩm mỹ, làm cho quá trình liên tưởng và
tưởng tượng đi vào quỹ đạo của sự vận động, làm sống lại những dấu vết của hưng phấn
thần kinh cung cấp chất liệu cho liên tưởng và tưởng tượng.
2.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng trong dạy học tác phẩm
thơ trữ tình
2.3.1. Khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh
* Đọc
Để khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh, có thể yêu cầu học sinh
đọc theo các mức độ: đọc lướt, đọc tập trung vào "điểm sáng thẩm mỹ", đọc hồi cố, đọc
nhấn mạnh âm hưởng chủ đạo và giọng điệu của nhà văn, đọc diễn cảm. Các mức độ đọc
trên có thể được thể hiện trong hai giai đoạn: giai đoạn đọc chuẩn bị (đọc trước khi đến
lớp) và đọc ở lớp. Việc đọc chuẩn bị là chuẩn bị được tâm thế, tập trung chú ý để tri giác
ngôn ngữ văn bản, từng bước làm rõ lớp nghĩa công cụ của ngôn từ. Đồng thời, cần chú
giải những từ khó, điển tích, điển cố, những từ cổ hoặc từ ít phổ biến. Đọc sáng tạo (đọc ở

lớp) là quá trình người đọc bằng hình dung, liên tưởng của mình từng bước thâm nhập tác
phẩm, từ lựa chọn lớp nghĩa thích hợp đến định hình ấn tượng về đường nét, bố cục bức
tranh nghệ thuật; đồng thời xác định cảm xúc và giọng điệu của nhà văn để hiểu tác phẩm
một cách thấu đáo.
Dựa trên kết quả hiểu biết sâu sắc về tác phẩm, khi toàn bộ thế giới nghệ thuật trong
tác phẩm đã được hiện hình khá sinh động thông qua quá trình phân tích, so sánh, khái
quát có thể tiến hành hình thức đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm có khả năng làm tái hiện một
cách trọn vẹn đời sống và hình tượng tác phẩm, không khí thời đại cũng như ý đồ tư tưởng
của nhà văn. Như vậy, đọc văn huy động trí nhớ, nối liền liên tưởng và mở rộng hình dung
tưởng tượng.
* Hình thức gợi mở bằng lời chuyển tiếp
Lời chuyển tiếp của GV thực hiện chức năng giới hạn liên tưởng, tưởng tượng và định
hướng thẩm mỹ của HS trong quá trình tiếp nhận. Việc thể hiện lời chuyển tiếp của GV
giúp HS trước hết có cách nhìn toàn diện đối với bài học, sơ lược hình thành dàn ý, đồng
thời tập trung định hướng vào việc khai thác giá trị của đoạn thơ tiếp theo.
Lời giảng bình của GV vừa có tính chất định hướng tiếp nhận, vừa định hình kiến thức
thông qua khả năng kết nối các khuynh hướng liên tưởng tích cực và có thể gạt bỏ các liên
tưởng tản mạn, liên tưởng không bản chất và mở rộng tưởng tượng sáng tạo, giúp HS khai
thác đúng và sâu sắc những phương diện bản chất của TPVH.
2.3.2. Xây dựng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo
Câu hỏi nhằm phát huy liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật của HS không tồn tại
biệt lập, tách rời mà được đặt trong cấu trúc hệ thống các câu hỏi sáng tạo của tiến trình
dạy học tác phẩm. Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng có thể xuyên thấm trong tất cả các hình
thức và yêu cầu hỏi, bằng cách: Liên tưởng hiện thực xác định của tác phẩm trong quan hệ
với hiện thực của đời sống xã hội; Liên tưởng mối quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh,
giữa không gian và thời gian nghệ thuật, giữa các nhân vật với nhau và với hoàn cảnh điển
hình; Liên tưởng mối quan hệ giữa các chi tiết nghệ thuật, giữa các tình huống nghệ thuật,
giữa các điểm sáng thẩm mỹ cùng chiều, cùng bình diện với điểm sáng thẩm mỹ ngược
chiều, khác bình diện; Tưởng tượng về các khả năng phát triển của hình tượng nghệ thuật
trung tâm; Liên tưởng hình ảnh, hình tượng, biểu tượng của tác phẩm này với các tác phẩm

khác; Liên tưởng giọng điệu tác giả với thái độ tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của tác giả;
Tưởng tượng tâm trạng của tác giả khi lựa chọn một chi tiết hay một số hình ảnh tiêu biểu
của tác phẩm; Liên tưởng và tưởng tượng về điểm nhìn nghệ thuật của tác giả với hiệu quả
nghệ thuật của tác phẩm.
Muốn việc tiếp nhận của HS diễn ra theo một quá trình liên tục, các câu hỏi liên tưởng
và tưởng tượng còn phải có mối quan hệ với các câu hỏi trong SGK đã được HS chuẩn bị ở
nhà. Việc sử dụng câu hỏi trong mỗi giờ dạy học vừa phải đáp ứng yêu cầu chung vừa đảm
bảo sự phân hoá đối tượng. Xây dựng các câu hỏi liên tưởng và tưởng tượng là một bộ
phận cấu thành và xuyên thấm trong hệ thống các thao tác tiếp nhận như phân tích, so
sánh, khái quát giá trị tác phẩm.
2.3.3. Đa dạng hóa các hình thức luyện tập sáng tạo của học sinh
Hình thức luyện tập là một trong những việc làm quan trọng trong hệ thống các việc
làm tích cực khác. Luyện tập là thao tác sư phạm nhằm kiểm tra, đánh giá, cũng là biện
pháp để GV thu nhận "tín hiệu phản hồi" từ kết quả tiếp nhận của HS. Qua đó khắc sâu
kiến thức của HS theo định hướng của bài học. “ Có nhiều hình thức và biện pháp thực
hiện thao tác luyện tập, có thể kể đến:
- Tiến hành đọc diễn cảm toàn bộ hoặc trích đoạn tác phẩm. HS có thể vận dụng toàn
bộ hiểu biết về tác phẩm đã thu nhận qua giờ học để thành thạo việc đọc theo yêu cầu
nhanh, chậm, thanh, trầm; thành thạo việc ngắt nhịp, ngắt câu, ,
- Tái hiện một tình huống then chốt trong tác phẩm hoặc toàn bộ tác phẩm. Nó có ý
nghĩa nhấn mạnh một phương diện bản chất nào đó hoặc toàn bộ hình tượng tác phẩm.
Nhờ đó, hình tượng tác phẩm sẽ được tái hiện trở lại trong trí nhớ của HS.
- Hình dung dự đoán kết thúc tác phẩm. Dựa trên kết thúc đã có của TPVH hoặc kết
thúc còn bỏ ngỏ của nhà văn, HS bằng tưởng tượng sáng tạo của mình, có thể đưa ra dự
kiến một kiểu kết thúc khác hoặc giả định viết tiếp mạch phát triển tác phẩm.
- Đặt lại tên tác phẩm. Để thực hiện được nhiệm vụ này HS phải hồi cố, huy động các
dữ liệu trí nhớ, liên tưởng và tưởng tượng, tái hiện toàn bộ diễn biến, cấu trúc nội dung và
hình thức TPVH vừa học để đưa ra ý kiến cá nhân.
- Xây dựng lời đối thoại hay lời tâm sự với nhân vật trữ tình (hoặc trao đổi với nhà
thơ). HS sẽ trình bày "đề án" của mình thông qua lời đối thoại (giả tưởng) để tranh luận,

trao đổi với nhà thơ về một vấn đề nào đó. HS cũng có thể xây dựng lời tâm sự để chia sẻ
với những điều tâm đắc cùng nhà thơ.
- Tập so sánh, khái quát. Để hình thành và phát triển khả năng đánh giá chính xác một
hiện tượng hay vấn đề văn học, GV phải yêu cầu HS tập trung kết nối kiến thức thành hệ
thống, rút ra nhận xét hoặc định tính, định danh một vấn đề văn học.
Trong một giờ học, GV cần có sự lựa chọn, vận dụng linh hoạt, uyển chuyển các hình
thức việc làm trong số các việc luyện tập nêu trên sao cho phù hợp với đặc điểm và yêu
cầu riêng của mỗi bài học; đồng thời phải thích hợp đối với từng đối tượng.

CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Các vấn đề chung
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Việc tổ chức thực nghiệm một số giải pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong
dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12 nhằm kiểm chứng những kết luận trong tiến trình
nghiên cứu lý luận. Đồng thời, tìm hiểu tính khả thi và bước đầu đánh giá mức độ hiệu quả
của các giải pháp được đề xuất cũng như những hạn chế còn tồn tại của các giải pháp đó
khi ứng dụng vào thực tiễn. Từ đó làm cơ sở hoàn thiện các giải pháp đề xuất để ứng dụng
vào dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm thơ trữ tình nói riêng và TPVH
nói chung trong nhà trường.
3.1.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
3.1.2.1. Đối tượng thực nghiệm
Đối tượng TN (thực nghiệm) và ĐC (đối chứng) là HS lớp 12, ban cơ bản. Có 8 lớp
được lựa chọn, trong đó 4 lớp lựa chọn TN và 4 lớp lựa chọn ĐC (dạy học được tiến hành
bình thường). Lớp được lựa chọn TN và ĐC ở có số lượng HS tương đương nhau, mặt
bằng về học lực tương đối đồng đều.
Các tác phẩm được TN bao gồm: + Tiết 18, 19: Tây Tiến (Quang Dũng)
+ Tiết 40: Đàn ghita của Lor- ca (Thanh Thảo)
3.1.2.2. Địa bàn thực nghiệm
- Trường THPT Trần Hưng Đạo, quận Hà Đông, Hà Nội: Lớp TN có 85 HS (12A5 là 43

HS; 12A7 là 42HS). Lớp ĐC có 82 HS (12A8 là 42 HS; 12A11 là 40 HS)
- Trường THPT Hàm Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh: Lớp TN có 83 HS (12A1
là 41 HS; 12A2 là 42HS). Lớp ĐC có 87 HS (12A4 là 44 HS; 12A5 là 43 HS)
3.1.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm
3.1.3.1. Nội dung thực nghiệm
Nội dung TN sư phạm của chúng tôi là đánh giá năng lực TNVH, thông qua kết quả
thực hiện các yêu cầu về liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật trong hệ thống các việc làm
sáng tạo của HS trong giờ dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12.
3.1.3.2. Phương pháp thực nghiệm
- Xây dựng thiết kế lên lớp theo tinh thần ứng dụng những nghiên cứu lý luận.
- Trao đổi thống nhất với GV kế hoạch TN.
- Tổ chức dạy học song song hai loại giáo án TN và ĐC.
- Tiến hành kiểm tra HS: sau khi học xong tác phẩm TN, chúng tôi đưa ra các câu hỏi
kiểm tra kiến thức giống nhau cho cả lớp TN và ĐC.
- Tiến hành phân tích và đánh giá kết quả TN và ĐC để rút ra những kết luận về TN.
3.1.4. Chọn giáo viên dạy thực nghiệm
Chúng tôi đã cộng tác với 2 nhóm GV của 2 trường và phân công như sau:

Bảng 3.1. Phân công giáo viên dạy thực nghiệm và đối chứng
Giáo viên
Trƣờng THPT
Lớp
TN
Lớp
ĐC
Nguyễn Thị Huế
Hàm Long
12A1
12A4
Nguyễn Văn Phương

Hàm Long
12A2
12A5
Lê Thị Tuyết
Trần Hưng Đạo
12A5
12A8
Nguyễn Hải Yến
Trần Hưng Đạo
12A7
12A11
3.2. Tiến hành thực nghiệm
3.2.1. Quy trình tiến hành thực nghiệm
Quy trình tiến hành thực nghiệm được thực hiện lần lượt theo các bước sau :
- Bước 1 : Xây dựng phiếu và kiểm tra kiến thức thông qua khả năng liên tượng và tưởng
tượng của HS.
- Bước 2 : Xây dựng thiết kế giáo án TN và thống nhất với GV kế hoach TN.
- Bước 3 : Kiểm tra và đánh giá mức độ tiếp nhận của HS (cả lớp TN và ĐC).
- Bước 4 : Xử lý và đánh giá kết quả TN để rút ra những kết luận bước đầu về TN.
3.2.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm
Tương ứng với nhiệm vụ TN đã xác định, chúng tôi xây dựng 2 giáo án TN (Tiết 18,
19: Tây Tiến - Quang Dũng và tiết 40 : Đàn ghita của Lor- ca - Thanh Thảo) nhằm tổ chức
cho HS tích cực tham gia một hệ thống các thao tác tiếp nhận sáng tạo, trong đó thể hiện
nổi bật vai trò của hoạt động liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật.
3.3. Kết quả thực nghiệm và đánh giá
3.3.1. Kết quả thực nghiệm
Sau tiến hành TN chúng tôi đã thống kê được kết quả như sau:

Bảng 3.2. Tổng hợp kết quả điểm kiểm tra
ĐỐI

TƢỢNG
SỐ
LƢỢNG
ĐIỂM
TRUNG
BÌNH
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
TN
168
2
5
8
10
23
28
41
34
16
1
6.38
ĐC

169
3
9
13
15
37
29
34
21
8
0
5.66

Bảng 3.3. Thống kê chất lượng kiểm tra
ĐỐI
TƢỢNG
SỐ
LƢỢNG
GIỎI
(9-10đ)
KHÁ
(7-8đ)
TB
(5-6đ)
YẾU
(3-4đ)
KÉM
(1-2đ)
SL
%

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
TN
168
17
10.1
75
44.6
51
30.4
18
10.7
7
4.2
ĐC
169
8
4.7
55
32.5
66
39.1
28
16.6

12
7.1

Biểu đồ 3.1. Thống kê chất lượng kiểm tra


3.3.2. Xử lý kết quả thực nghiệm
Để đưa ra được những nhận xét chính xác, kết quả kiểm tra được xử lí bằng phương
pháp thống kê toán học theo thứ tự các bước cụ thể như sau:
* Bƣớc 1: Lập bảng phân phối tần suất, tần suất luỹ tích.

Bảng 3.4. Bảng phân phối tần suất luỹ tích bài kiểm tra
ĐỐI
TƢỢNG
ĐIỂM
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
TN
1.19
4.17
8.93
14.88

28.57
45.24
69.64
89.88
99.4
100
ĐC
1.78
7.11
14.8
23.68
45.57
62.73
82.85
95.28
100


*Bƣớc 2: Vẽ đồ thị đƣờng luỹ tích theo bảng phân phối tần suất luỹ tích.
Để có thể rút ra những nhận xét chính xác, đầy đủ hơn chúng tôi so sánh chất lượng
của HS giữa lớp TN và lớp ĐC bằng đường luỹ tích ứng với kết quả nêu trong bảng 3.4.
Trục tung chỉ số % HS đạt điểm X
i
trở xuống, trục hoành chỉ điểm số.


Đồ thị 3.1: Đường luỹ tích bài kiểm tra

Nhận xét :
Dựa trên kết quả TN sư phạm cho thấy chất lượng học tập của HS khối TN cao hơn HS

khối ĐC, thể hiện cụ thể như:
- Tỉ lệ phần trăm(%) HS yếu, kém của khối TN luôn thấp hơn của khối ĐC (thể hiện
qua biểu đồ 3.1).
- Tỉ lệ phần trăm(%) HS khá, giỏi của khối TN luôn cao hơn của khối ĐC (thể hiện
qua biểu đồ 3.1). Chứng tỏ HS ở lớp TN sau khi học xong bài thi hiểu bài và vận dụng kiến
thức để cảm thụ tác phẩm tốt hơn lớp ĐC.
- Đồ thị đường luỹ tích của khối TN luôn nằm ở phía bên phải và phía dưới đường
luỹ tích của khối ĐC (thể hiện qua đồ thị 3.1). Điều này chứng tỏ số HS có điểm x
i
trở
xuống của các lớp TN luôn ít hơn các lớp ĐC. Nói cách khác, số HS có điểm kiểm tra cao
hơn thường hiện diện nhiều hơn trong các lớp TN. Đây cũng là một bằng chứng khách
quan về tác động tích cực của biện pháp được áp dụng.
- Điểm trung bình cộng của HS khối TN cao hơn khối ĐC (bảng 3.2).
*Bƣớc 3: Tính các tham số đặc trƣng thống kê
Bảng 3.5. Giá trị của các tham số đặc trưng

Nhận xét:
- Trung bình cộng điểm kiểm tra của các lớp TN luôn cao hơn các lớp ĐC. Trong khi đó,
độ lệch chuẩn điểm kiểm tra của các lớp TN nhỏ hơn của các lớp ĐC.
(bảng 3.5). Như vậy, việc sử dụng các biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng đã góp
phần nâng cao hiệu quả học tập của HS thông qua điểm và xếp loại chất lượng bài kiểm tra của
các lớp TN cao hơn so với các lớp ĐC.
- Độ lệch chuẩn điểm kiểm tra của các lớp TN nhỏ hơn các lớp ĐC chứng tỏ ở các
lớp TN, các số liệu tập trung quanh giá trị trung bình cộng tốt hơn, chất lượng bộ số liệu

Các tham số đặc trƣng
X

S

V(%)
ĐC
TN
ĐC
TN
ĐC
TN
5,66
6,38
1,42
1,35
25,09
21,16
tốt hơn. Điều này cho phép nhận xét rằng chất lượng bài kiểm tra của các lớp TN không
những cao hơn mà còn đồng đều hơn và bền vững hơn các lớp ĐC.
- Hệ số biến thiên (V) của lớp TN và ĐC < 30% vậy kết quả thu được là đáng tin cậy.
Hệ số biến thiên (V) của lớp TN luôn nhỏ hơn của lớp ĐC chứng tỏ mức độ phân tán điểm
của HS lớp ĐC rộng hơn của lớp TN, chất lượng của lớp TN đồng đều hơn.
3.4. Kết luận và đề xuất
Dựa vào kết quả TN trên, có thể kết luận một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng,
tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12 khi được áp dụng vào thực tiễn dạy
học sẽ mang lại hiệu quả trong dạy học - phương án khoa học luận văn đề xuất có tính khả
thi.
Tuy nhiên, sau khi tiến hành TN sư phạm chúng tôi nhận thấy:
- Việc hình thành ý thức trau dồi vốn sống, vốn ngôn ngữ và vốn biểu tượng cũng như
kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng cùng với các kĩ năng văn học khác cho HS là một yêu cầu
thiết thực không chỉ đặt ra đối với HS lớp 12 mà còn từ các lớp học, cấp học trước đó.
- Cần nhấn mạnh không nhất thiết bài học nào cũng thể hiện tất cả các biện pháp sư phạm
nhằm phát huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS bởi lẽ thời lượng
không cho phép.

- Huy động khả năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS trong dạy học tác phẩm
thơ trữ tình phải có sự kiểm soát - có tính định hướng thẩm mỹ.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS trong giờ đọc văn là một hoạt động có ý
nghĩa quan trọng để chiếm lĩnh giá trị tác phẩm. Nếu GV tổ chức, định hướng, dẫn dắt
hoạt động này bởi một số biện pháp sư phạm mà luận văn đề xuất thì có thể làm chủ
được giờ đọc văn theo tinh thần phát huy tính năng động sáng tạo của HS và HS sẽ trở
thành chủ thể đồng sáng tạo nghệ thuật.
2. Đối với việc phát huy hoạt động liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo của HS có thể thừa
nhận được ưu thế của nó trong thực tế dạy học TPVH cũng như tác phẩm thơ trữ tình;
song sử dụng độc tôn một phương pháp hay một biện pháp nào đó cũng không thể đem
lại một hiệu quả tối ưu. Vì vậy, không thể tách rời, cô lập hoạt động này với các hoạt
động khác trong TNVH mà cần đặt nó trong một chỉnh thể, một hệ thống.
Với đề tài “Rèn kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ
tình lớp 12”, chúng tôi xuất phát từ mong muốn đổi mới phương pháp dạy học, dạy HS
khả năng tư duy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo trong tiếp nhận TPVH.
Từ đó, GV sẽ là người thắp lửa để tình yêu văn chương luôn thăng hoa trong mỗi tâm
hồn học sinh.
Thực hiện đề tài chúng tôi không tham vọng mang đến một bước đột phá mới trong
dạy học tác phẩm văn chương, mà chỉ mong muốn được đề xuất và tìm tòi ra những biện
pháp mới để nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12. Hi vọng, đề tài này
sẽ trở thành tài liệu hữu ích cho GV và HS trong quá trình dạy và học tác phẩm thơ trữ
tình. Kết quả của bước đầu nghiên cứu chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng
nghiệp để giúp chúng tôi bổ sung vào công trình đã nghiên cứu và hoàn thiện hơn trong
các công trình nghiên cứu tiếp theo.


References

1. Nguyên An (1998), Nhà giáo, nhà văn Nguyễn Đức Nam, Nxb Giáo dục.
2. Nguyễn Duy Bình (1983), Dạy văn dạy cái hay cái đẹp, Nxb Giáo dục.
3. Nguyễn Viết Chữ (2004), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường,
Nxb Giáo dục Việt Nam.
4. Hà Minh Đức (1993), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
5. Phạm Minh Hạc (1991), Tâm lý học, Nxb Giáo dục.
6. Lê Bá Hãn (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
7. Nguyễn Thanh Hùng (2004), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo dục.
8. Nguyễn Thanh Hùng (1994), Văn học và nhân cách, Nxb Văn học.
9. Nguyễn Thanh Hùng (1994), Văn học và tầm nhìn biến đổi, Nxb Văn học.
10. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng (1998), Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học ở trường
phổ thông, Nxb Giáo dục.
11. Nguyễn Trọng Hoàn (1999), Hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ
giảng văn, Luận án tiến sĩ Giáo dục.
12. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn
chương, Nxb Giáo dục.
13. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Tiếp cận văn học, Nxb khoa học xã hội.
14. Nguyễn Trọng Hoàn (2009), Tìm hiểu tác giả, tác phẩm văn học ngữ văn 12, Nxb Giáo
dục.
15. Phan Trọng Luận (2003), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
16. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục.
17. Phan Trọng Luận (2008), Văn học nhà trường nhận diện tiếp cận đổi mới, Nxb Đại học
sư phạm.
18. Phan Trọng Luận (2008), Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục.
19. Phan Trọng Luận (2008), Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục.
20. Phan Trọng Luận (2009), Thiết kế Ngữ văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục.
21. Phƣơng Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục.
22. Trƣờng Đại học sƣ phạm tp Hồ Chí Minh (1981), Giảng văn (nhiều tác giả).
23. Nguyễn Ánh Tuyết (1997), Tâm lý học trẻ em, Nxb Giáo dục.
24. A. RuĐich (1980), Tâm lý học, Nxb Thể dục thể thao.

25. K. Pauxtôpxki (1982), Bông hồng vàng, Nxb Văn học.








×