Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh của luật doanh nghiệp 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.17 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
---------

NGUYỄN PHƢƠNG THẢO

BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
TRONG ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA
LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Ngô Huy Cƣơng

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Phƣơng Thảo


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
VÀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO ĐỊNH HƢỚNG BẢO
ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRONG ĐĂNG KÝ
KINH DOANH ................................................................................................. 6
1.1.

Khái niệm quyền tự do kinh doanh và đăng ký kinh doanh ................... 6

1.1.1. Khái niệm quyền tự do kinh doanh ......................................................... 6
1.1.2. Khái niệm đăng ký kinh doanh ............................................................... 9
1.2.

Nội dung của quyền tự do kinh doanh .................................................. 13

1.2.1. Nội dung triết lý của quyền tự do kinh doanh ...................................... 13
1.2.2. Nội dung pháp lý của quyền tự do kinh doanh ..................................... 14
1.3.

Ý nghĩa, mục tiêu và nội dung của đăng ký kinh doanh ...................... 19


1.3.1. Ý nghĩa và mục tiêu của đăng ký kinh doanh ....................................... 19
1.3.2. Nội dung của đăng ký kinh doanh ........................................................ 21
1.4.

Mối liên hệ giữa quyền tự do kinh doanh và đăng ký kinh doanh ....... 28

Chƣơng 2: PHÂN TÍCH CÁC QUI ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH
NGHIỆP 2005 THEO ĐỊNH HƢỚNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ
DO KINH DOANH TRONG ĐĂNG KÝ KINH DOANH.............. 31
2.1.

Đánh giá chung về Luật Doanh nghiệp 2005 từ góc độ tự do kinh doanh .... 31

2.2.

Thực trạng các qui định của Luật Doanh nghiệp 2005 về tự do kinh
doanh và đăng ký kinh doanh ............................................................... 36


2.2.1. Thực trạng các qui định về nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của thương nhân .. 36
2.2.2. Thực trạng các qui định về cơ quan đăng ký kinh doanh ..................... 38
2.2.3. Thực trạng các qui định về điều kiện và thủ tục đăng ký kinh doanh........ 41
2.3.

Thực trạng thi hành các qui định của Luật Doanh nghiệp 2005 về tự
do kinh doanh và đăng ký kinh doanh .................................................. 56

Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP
2005 NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH

TRONG ĐĂNG KÝ KINH DOANH ................................................ 61
3.1.

Kiến nghị về các định hướng hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2005 .......... 61

3.2.

Kiến nghị các giải pháp ........................................................................ 62

KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 74


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đông

ĐKKD

: Đăng ký kinh doanh

PĐKKD1 : Phòng đăng ký kinh doanh 1
TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Tự do kinh doanh được khởi xướng trong quá trình đổi mới ở Việt
Nam, hiện đóng một vai trị to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã
hội. Nó có thể được xem là dấu chấm hết cho nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp.
Tự do kinh doanh được khẳng định và được luật hóa trở thành một
công cụ quan trọng trong việc bảo đảm đời sống của người dân. Với quyền tự
do này, người dân có thể bỏ đồng vốn ít ỏi, chắt chiu của mình ra để thành lập
doanh nghiệp kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận và thơng qua đó cung cấp
những hàng hóa và dịch vụ đáp ứng cho các nhu cầu của xã hội. Điều đó có
nghĩa là, khi nói đến tự do kinh doanh là nói tới việc thành lập và quản lý
doanh nghiệp.
Pháp luật Việt Nam đã rất đúng đắn khi khẳng định quyền tự do kinh
doanh là một nguyên tắc hiến định. Do đó các qui định pháp luật trong lĩnh
vực kinh tế hầu như đều chú ý tới việc thể hiện nguyên tắc cơ bản này. Luật
Doanh nghiệp 2005 được ban hành thay thế Luật Doanh nghiệp 1999 đã có
những bước tiến đáng kể trong việc cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh. Đạo
luật này đã đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp trong đó có đăng ký
kinh doanh. Nếu thành lập doanh nghiệp là một vấn đề trọng tâm của tự do
kinh doanh, thì đăng ký kinh doanh (một vấn đề quan trọng của thành lập
doanh nghiệp) là nơi thể hiện quan trọng của việc tiếp nhận nguyên tắc tự do
kinh doanh. Dù đã có những cố gắng đáng kể, thế nhưng hiện nay việc hiểu
và thể hiện nguyên tắc tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh của Luật
Doanh nghiệp 2005 vẫn cịn những thiếu sót đáng kể. Các thiếu sót này có thể
đã dẫn tới việc khơng bảo đảm được đầy đủ quyền tự do kinh doanh, gây khó
khăn cho người dân trong việc thành lập doanh nghiệp.

1


Khơng chỉ có các thiếu sót liên quan tới quyền tự do kinh doanh và

đăng ký kinh doanh, mà Luật Doanh nghiệp 2005 cịn có nhiều thiếu sót về
các lĩnh vực khác, do đó đang được nghiên cứu sửa đổi.
Vì các lẽ căn bản nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Bảo đảm quyền tự
do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp 2005” có
tính cấp thiết cao. Việc nghiên cứu đề tài khơng chỉ có ý nghĩa về mặt học
thuật, mà cịn có ý nghĩa lớn trong cải cách và thực tiễn thi hành các qui định
pháp luật về doanh nghiệp nói chung và về đăng ký kinh doanh nói riêng.
2. Về tình hình nghiên cứu đề tài
Tự do kinh doanh nói riêng là một đề tài khơng mới ở Việt Nam hiện
nay. Có thể tìm thấy nhiều cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: Thứ nhất,
“Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo quyền tự do kinh
doanh ở nước ta”, Luận án tiến sĩ luật học của Bùi Ngọc Cường, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2001; thứ hai, “Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền
con người tại Việt Nam”, Sách chuyên khảo của Mai Hồng Quỳ, Nxb Lao
động, TP. Hồ Chí Minh, 2012; thứ ba, “Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, bài viết của Bùi Xuân Hải, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 6/2011; thứ tư, “Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo qui định của Luật
Doanh nghiệp năm 2005- Lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ luật học
Nguyễn Thị Giang, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012…
Đăng ký kinh doanh nói riêng cũng là một đề tài khơng mới ở Việt
Nam từ trước tới nay. Có thể tìm thấy rất nhiều cơng trình nghiên cứu ở các
bậc học khác nhau, chẳng hạn như: Thứ nhất, “Tìm hiểu về Luật Doanh
nghiệp 2005”, Sách tham khảo của CIEM và GTZ, Giấy phép xuất bản số:
118-2006/CXB/5-15LĐ-ngày 16- 02; thứ hai, “Khung pháp luật về điều kiện
và đăng ký kinh doanh- Thực trạng và nhu cầu hoàn thiện”, bài viết của Phan
Đức Hiếu tại Hội thảo khoa học: “Khung pháp luật về doanh nghiệp và đầu tư

2



ở Việt Nam hiện nay- Nhu cầu và định hướng hoàn thiện” do Viện Nhà nước
và Pháp luật và Konrad Adenauer Stiftung tổ chức tại Huế ngày 23 và 24
tháng 8 năm 2012; thứ ba, “Báo cáo nghiên cứu so sánh luật công ty ở bốn
quốc gia Đông Nam Á: Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philippine”, Sách
tham khảo của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Dự án UNDP
VIE/97/016, Giấy phép xuất bản số: 1142/CXB-QLXB của Cục Xuất bản
ngày 16/12/1998, Hà Nội, 1999; thứ tư, “Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo
qui định của Luật Doanh nghiệp năm 2005- Lý luận và thực tiễn”, Luận văn
thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Giang, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012;
thứ năm, “Pháp luật về giấy phép và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn gia
nhập thị trường ở Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn
thạc sĩ luật học của Trần Thị Ngân, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội,
2008; thứ sáu, “Đăng ký kinh doanh theo pháp luật của nước CHDCNH LàoThực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ luật học của Bee
Phet Tongkao, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011…
Các cơng trình này đã đóng góp khơng nhỏ cho việc phát triển pháp
luật ở Việt Nam. Mỗi cơng trình đều có đề cập tới sự đan xen giữa tự do kinh
doanh và đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên việc nghiên cứu chuyên sâu về bảo
đảm tự do kinh doanh trong vấn đề đăng ký kinh doanh tại Luật Doanh
nghiệp 2005 còn bỏ ngỏ.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm tới các mục tiêu sau:
Thứ nhất, làm rõ về mặt lý luận quyền tự do kinh doanh và đăng ký
kinh doanh;
Thứ hai, phân tích các qui định của Luật Doanh nghiệp 2005 theo định
hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh để tìm ra
các thiếu sót;

3



Thứ ba, kiến nghị các giải pháp sửa chữa các thiếu sót của Luật Doanh
nghiệp 2005 theo định hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký
kinh doanh.
Việc nghiên cứu đề tài không mở rộng ra các văn bản pháp luật khác
ngồi Luật Doanh nghiệp 2005 và khơng nghiên cứu ngoài định hướng bảo
đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh.
Việc nghiên cứu đề tài không đi sâu vào vấn đề lý luận về quyền tự do
kinh doanh và đăng ký kinh doanh, mà chỉ nghiên cứu lý luận về các vấn đề
này ở mức độ cho phép phân tích Luật Doanh nghiệp 2005 theo định hướng
bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài tập trung vào việc sử dụng các phương pháp sau:
Thứ nhất, phương pháp mô tả, diễn giải và trìu tượng hóa. Các phương
pháp này được sử dụng để làm rõ khái niệm, nội dung và triết lý của quyền tự
do kinh doanh và của vấn đề đăng ký kinh doanh;
Thứ hai, phương pháp phân tích qui phạm, thống kê, tổng hợp, phân
tích vụ việc và so sánh pháp luật. Các phương pháp này được sử dụng để làm
rõ các thiếu sót của Luật Doanh nghiệp 2005 và tìm ra ngun nhân của
những thiếu sót đó;
Thứ ba, phương pháp mơ hình hóa, điển hình hóa. Các phương pháp
này được sử dụng để tìm kiếm những giải pháp sửa chữa những thiếu sót của
Luật Doanh nghiệp 2005.
5. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1. Khái quát chung về quyền tự do kinh doanh và đăng ký kinh
doanh theo định hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh

4



Chương 2. Phân tích các qui định của Luật Doanh nghiệp 2005 theo
định hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2005 nhằm bảo
đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh.

5


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
VÀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO ĐỊNH HƢỚNG BẢO ĐẢM
QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRONG ĐĂNG KÝ KINH DOANH
1.1. Khái niệm quyền tự do kinh doanh và đăng ký kinh doanh
1.1.1. Khái niệm quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là một quyền hiến định. Điều 57, Hiến pháp
năm 1992 của Việt Nam khẳng định một nguyên tắc quan trọng góp phần làm
thay đổi mạnh mẽ và thực chất kinh tế- xã hội Việt Nam với nội dung như
sau: “Cơng dân Việt Nam có quyền tự do kinh doanh theo qui định của pháp
luật”. Hiện nay quyền tự do này một lần nữa được nhắc tới và nhấn mạnh hơn
tại “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”.
Bảo đảm thi hành Hiến pháp 1992 và thực hiện đường lối, chủ trưởng
của Đảng, Điều 50, Bộ luật Dân sự 2005 qui định:
“Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tơn trọng và được pháp
luật bảo vệ.
Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh
doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền
khác phù hợp với quy định của pháp luật”.
Điều luật này không trực tiếp đưa ra định nghĩa về quyền tự do kinh
doanh nhưng có nói tới các nội dung chủ yếu của quyền này, có nghĩa là nói

tương đối rõ nội hàm của nó. Theo điều luật này, quyền tự do kinh doanh bao
hàm trong nó các quyền như:
(1) Tự do thành lập công ty;
(2) Tự do lựa chọn việc tiến hành các hành vi thương mại;
(3) Tự do do hợp đồng; và
(4) Tự do mua bán sức lao động.

6


Đây có thể xem là các quyền tự do căn bản để có thể tiến hành các hoạt
động kinh doanh, có nghĩa là thiếu một trong các quyền này thì hoạt động
kinh doanh khơng thể hoặc khó có thể tiến hành.
GS. TS Mai Hồng Quỳ cho rằng:
“Quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành động, khả năng
được lựa chọn và quyết định, một cách có ý thức của cá nhân hay doanh
nghiệp về các vấn đề liên quan đến và trong hoạt động kinh doanh; chẳng hạn
như tự do quyết định các vấn đề khi thành lập doanh nghiệp, lựa chọn qui mô
và ngành nghề kinh doanh; lựa chọn địa bàn kinh doanh; tự do hợp đồng, tự
do lựa chọn đối tác, bạn hàng trong kinh doanh; tự do lựa chọn cơ chế giải
quyết tranh chấp…vv.” [22, tr 54].
Định nghĩa này là một định nghĩa khoa học theo logic hình thức kết
hợp với sự liệt kê các thành tố của quyền tự do kinh doanh mà các thành tố
này bao trùm toàn bộ lĩnh vực hoạt động kiếm sống của tư nhân, có lẽ khó có
thể phân biệt nó với các quyền tự do khác như tự do hợp đồng, tự do lập hội,
tự do định đoạt của các chủ thể của luật tư…
TS. Bùi Ngọc Cường quan niệm:
“Theo nghĩa chủ quan hay nhìn nhận dưới góc độ quyền chủ thể: quyền
tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành động một cách có ý thức của cá
nhân hay pháp nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo

nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm những khả năng mà cá nhân hay
pháp nhân có thể xử sự như: tự do đầu tư tiền vốn để thành lập doanh nghiệp;
tự do do chọn mơ hình tỏ chức kinh doanh; tự do lựa chọn đối tác để thiết lập
quan hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự định đoạt trong việc giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh…” [10, tr. 13].
Theo quan niệm này, nghĩa của quyền tự do kinh doanh rất rộng, không
chỉ đơn thuần bao gồm những vấn đề liên quan trực tiếp tới tổ chức hoạt động

7


kinh doanh, mà còn bao trùm cả những vấn đề lớn khác có liên quan tới nền
tảng pháp lý, kinh tế căn bản bảo đảm cho việc tổ chức hoạt động kinh doanh,
quản trị doanh nghiệp và bảo đảm hiệu quả, cũng như các khúc mắc của
doanh nghiệp trong quá trình tham gia thị trường. TS. Bùi Ngọc Cường cho
rằng: “Những khả năng này là thuộc tính tự nhiên của cá nhân (hay pháp
nhân) chứ không phải do Nhà nước ban tặng”. Tuy nhiên theo ơng khả năng
này chỉ có thể trở thành hiện thực khi Nhà nước thể chế hóa chúng thành pháp
luật, vì vậy theo nghĩa khách quan, quyền tự do kinh doanh là một chế định
pháp luật qui định về các quyền tự do nói trên [10, tr. 13- 14].
Terry Miller và Anthory b. Kim cho rằng: “Tự do kinh doanh được
hiểu là quyền của cá nhân trong việc thành lập và vận hành doanh nghiệp mà
không bị sự can thiệp, cản trở, nhũng nhiễu từ phía nhà nước” [22, tr. 54].
Đây là một cách thức tiếp cận từ góc độ đối lập giữa nhà nước với xã hội dân
sự và nhấn mạnh tới tính chất tự nhiên của quyền tự do kinh doanh.
Các khảo sát trên cho thấy mấy vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, quyền tự do kinh doanh là một quyền tự nhiên được nhận
thức và được hiến định và được luật hóa;
Thứ hai, các qui định của Hiến pháp và pháp luật không đưa ra định
nghĩa quyền này theo logic hình thức mà chỉ khẳng định hoặc mơ tả các thành

tố của nó;
Thứ ba, các học giả trong và ngoài nước nhận thức tương đối đồng nhất
về bản chất tự nhiên của quyền này, tuy nhiên quan niệm về các thành tố của
nó có mức độ rộng hẹp khác nhau;
Thứ tư, khó có sự phân biệt thật rạch ròi giữa quyền này với các quyền
tự do khác như tự do hợp đồng, tự do lập hội, tự do định đoạt…
Tóm lại, liên quan tới đề tài Luận văn này, quyền tự do kinh doanh
được hiểu là quyền tự nhiên của con người đã được hiến định và luật hóa để

8


bảo đảm cho đời sống của con người và bao gồm các quyền tự do góp vốn
thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn hình thức doanh nghiệp, tự do lựa
chọn ngành nghề kinh doanh, tự do thuê mướn và sử dụng lao động, tự do
quản trị doanh nghiệp và tự do lựa chọn đối tác để giao dịch.
1.1.2. Khái niệm đăng ký kinh doanh
“Đăng ký kinh doanh” là một thuật ngữ được sử dụng rất quen thuộc ở
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên ở Việt Nam trước kia và ở các nước theo
truyền thống Civil Law từ quá khứ cho tới hiện tại, thuật ngữ “đăng ký
thương mại” được sử dụng thường xuyên. Bản chất hai thuật ngữ này khơng
có sự khác biệt. Nhưng thuật ngữ “đăng ký thương mại” gần gũi hơn với sự
phân chia các ngành luật theo truyền thống Civil Law, cụ thể là sự phân chia
giữa luật dân sự và luật thương mại, có nghĩa là sau khi đăng ký thương mại
hoàn tất, thương nhân có thể tiến hành các hành vi thương mại.
Đăng ký kinh doanh hay đăng ký thương mại là một nghĩa vụ quan
trọng đầu tiên của thương nhân, có nghĩa là muốn trở thành thương nhân phải
đi đăng ký kinh doanh. Điều 7, Luật Thương mại 2005 qui định: “Thương
nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật”.
“Giáo trình luật kinh tế Việt Nam” của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà

Nội diễn giải đăng ký kinh doanh là hành vi tư pháp, khẳng định tư cách pháp
lý độc lập của doanh nghiệp và khả năng được pháp luật bảo vệ trên thương
trường [17, tr. 78]. “Giáo trình luật thương mại” của Trường Đại học Luật Hà
Nội viết: “Đăng ký kinh doanh là thủ tục luật định nhằm khai sinh về mặt pháp
lý cho công ty (thừa nhận tư cách pháp lý của công ty) và công ty sẽ được bảo
đảm về mặt pháp lý kể từ khi hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh” [24, tr.
129]. Thực chất các diễn giải trên không phải là các định nghĩa về đăng ký kinh
doanh mà là sự làm rõ bản chất pháp lý của đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên qua
đó ta có thể hiểu được mục đích thực sự của đăng ký kinh doanh.

9


Theo “Báo cáo nghiên cứu so sánh luật công ty ở bốn quốc gia Đông
Nam Á: Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philippine” của Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) dưới sự tài trợ của UNDP qua Dự án
UNDP VIE/97/016, “Đăng ký đơn giản là một quá trình lưu giữ hoặc “trao”
những thông tin và tài liệu cơ bản của công ty với Cơ quan Đăng ký, cơ quan
mà sau đó sẽ xem xét nhanh chóng chúng” [25, tr. 15]. Nhận định trên có ý
nghĩa quan trọng về mặt xác định mối quan hệ giữa nhà nước và công ty trong
việc công nhận công ty gia nhập thị trường, tuy nhiên khơng thể xem đó là
định nghĩa về đăng ký kinh doanh bởi hành vi chủ yếu của Cơ quan đăng ký
kinh doanh chưa được làm rõ.
Có thể định nghĩa: Đăng ký kinh doanh là việc ghi tên và các thông tin
chi tiết khác của thương nhân vào sổ đăng ký kinh doanh.
Như vậy khi nghiên cứu đăng ký kinh doanh người ta phải nghiên cứu
sổ đăng ký kinh doanh và thủ tục đăng ký kinh doanh.
Thông thường sổ đăng ký kinh doanh do một cơ quan nhà nước có
thẩm quyền lưu giữ. Cơ quan đó có thể là một cơ quan hành chính hoặc tịa
án. Ở Việt Nam trước kia (dưới các chế độ cũ), tòa án lưu giữ sổ đăng ký kinh

doanh và tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh. Ngày nay chức năng này
được trao cho cơ quan đăng ký kinh doanh nằm trong hệ thống các cơ quan
hành chính.
Sổ đăng ký kinh doanh trong thời kỳ điện tử tin học không nhất thiết là
một quyển sổ theo nghĩa truyền thống mà có thể là một dữ liệu điện tử. Trong
sổ đăng ký kinh doanh có các mục ghi chép theo qui định của pháp luật.
Ở Pháp, đối với công ty, người ta yêu cầu phải ghi chép các thơng tin như:
(1) Hình thức pháp lý của công ty;
(2) Qui chế pháp lý riêng (nếu cần thiết);
(3) Tên công ty;

10


(4) Tính chất hoạt động;
(5) Địa chỉ trụ sở chính [18, tr. 68].
Ở Nhật Bản, theo Đạo luật Đăng ký Thương mại 2005 các thông tin
phải ghi chép vào sổ đăng ký thương mại bao gồm:
(1) Tên thương mại;
(2) Hình thức doanh nghiệp;
(3) Trụ sở kinh doanh;
(4) Tên và địa chỉ của người sử dụng tên thương mại.
Ở Anh, theo Đạo luật Công ty 2006, các thông tin sau cần phải lưu giữ
và được chứng nhận:
(1) Tên gọi và số đăng ký của công ty;
(2) Ngày thành lập;
(3) Chế độ trách nhiệm vô hạn hay hữu hạn của công ty; nếu là chế độ
trách nhiệm hữu hạn thì hữu hạn bởi cổ phần hay hữu hạn bởi bảo đảm;
(4) Công ty tư nhân hay công ty công cộng;
(5) Trụ sở đăng ký của công ty ở England và Wales, ở Scotland hay ở

Northern Ireland.
Ở Hoa Kỳ việc lưu giữ bản điều lệ cơng ty được đệ trình tại cơ quan
đăng ký kinh doanh là bắt buộc [28, tr. 31].
Ở Việt Nam hiện nay, các thông tin được lưu giữ và được chứng nhận
khá chi tiết theo Luật Doanh nghiệp 2005 như sau:
“Điều 25. Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
1. Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng
đại diện.
2. Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân,
Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp.

11


3. Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân,
Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của thành viên hoặc cổ
đông sáng lập là cá nhân; số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh
của chủ sở hữu công ty, của thành viên hoặc cổ đông sáng lập là tổ chức đối
với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần; họ, tên, địa chỉ thường
trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá
nhân hợp pháp khác của thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; họ,
tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng
thực cá nhân hợp pháp khác của chủ sở hữu công ty là cá nhân hoặc chủ
doanh nghiệp tư nhân.
4. Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp
danh; số cổ phần và giá trị vốn cổ phần đã góp và số cổ phần được quyền
chào bán đối với công ty cổ phần; vốn đầu tư ban đầu đối với doanh nghiệp tư
nhân; vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề địi hỏi
phải có vốn pháp định.

5. Ngành, nghề kinh doanh”.
Việc thay đổi các nội dung trên trong hoạt động thực tiễn của thương
nhân phải được đăng ký lại với Cơ quan đăng ký kinh doanh. So với các
thông tin cần được lưu giữ và chứng nhận của các nước khác đã nêu trên, thì
có thể thấy các thơng tin như vậy theo yêu cầu của pháp luật Việt Nam hiện
nay lớn hơn rất nhiều. Bởi thế có thể nhận định: thủ tục đăng ký kinh doanh ở
Việt Nam không thể đơn giản bởi nó cần phải đáp ứng các yêu cầu khá chi
tiết và phức tạp của nội dung đăng ký kinh doanh. Về nguyên tắc: nội dung
quyết định hình thức, có nghĩa là nếu các yêu cầu về mặt nội dung phức tạp
thì sẽ dẫn tới thủ tục phải đáp ứng sự phức tạp đó.
Dĩ nhiên khi thủ tục phức tạp thì có thể có nhiều phiền hà đối với người
đăng ký kinh doanh, và như vậy quyền tự do kinh doanh bị thu hẹp hơn. Vì

12


vậy loại bỏ bớt các yêu cầu không cần thiết về mặt nội dung có ý nghĩa to lớn
trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh.
1.2. Nội dung của quyền tự do kinh doanh
1.2.1. Nội dung triết lý của quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh thường được xem là quyền tự nhiên của con
người xuất phát từ nhân phẩm. Theo lập luận của PGS. TS Ngô Huy Cương:
“Khơng ai có nhân phẩm cao hơn ai, do đó khơng có dân tộc nào có
nhân phẩm cao hơn dân tộc nào, cho nên khơng ai có quyền áp bức ai và
khơng dân tộc nào có quyền áp bức dân tộc nào. Cũng như vậy người cai trị
khơng có nhân phẩm cao hơn người bị trị. Vì vậy họ khơng thể lạm dụng vị trí
của mình để tước đi cái quyền tự do của người khác” [6, tr. 8].
Như vậy quyền tự do kinh doanh là một quyền mà buộc Nhà nước phải
ghi nhận và không thể vượt qua như quan niệm của Terry Miller và Anthory
B. Kim đã dẫn ở mục trên. Con người, từ tự nhiên đi ra, tất cả đều tự do, bình

đẳng và độc lập, và khơng một ai có thể bị đưa ra khỏi tình trạng này, và như
vậy tự do là sự vắng bóng của những hạn chế và cưỡng chế, là trạng thái mà
con người hành động hoàn toàn theo chủ ý của mình [23, tr. 48]. Tuy nhiên để
bảo vệ cộng đồng nói chung, luật cũng có thể đưa ra những hạn chế nhất định
cho những những tự do ấy, nhưng phải chính đáng.
Vì là một quyền con người, nên quyền tự do kinh doanh cũng có các
đặc tính: “phổ biến”, “cơ bản”, và “tuyệt đối”. Đặc tính “phổ biến” thể hiện ở
chỗ: khơng kể chủng tộc, nịi giống, giới tính, quốc tịch hay địa vị xã hội…,
mọi người đều có quyền như nhau ở mọi nơi, mọi lúc. Đặc tính “cơ bản” thể
hiện ở chỗ: các quyền đó khơng thể chuyển nhượng được, dù chúng có thể bị
từ chối hay bị vi phạm. Đặc tính “tuyệt đối” thể hiện ở chỗ: các quyền này là
nền tảng căn bản nhất của đời sống con người mà không thể bị hạn chế hay
giảm bớt [7, tr. 84]. Nhiều học giả Hoa Kỳ cho rằng quyền tự do kinh doanh

13


là quyền của cá nhân và doanh nghiệp tiến hành kinh doanh và cạnh tranh với
sự can thiệp tối thiểu của chính quyền hay pháp luật [26].
Quyền tự do kinh doanh là một phương tiện quan trọng để bảo đảm cho
sự tồn tại của con người. Có nó con người mới có thể kiếm sống. Và trong
hoạt động kiếm sống đó họ thúc đẩy sự phát triển của xã hội bằng cách phục
vụ cho các nhu cầu của những người khác, rồi lại được những người khác đáp
ứng cho nhu cầu của mình. Ví dụ người sản xuất ra quần áo đáp ứng nhu cầu
mặc của người sản xuất ra máy móc, nhiên liệu để kiếm tiền thỏa mãn nhu
cầu ăn, mặc, ở và mua sắm máy móc, nhiêu liệu để sản xuất quần áo của
mình; rồi tới lượt mình, người sản xuất ra máy móc, nhiên liệu lại đáp ứng
nhu cầu sử dụng máy móc, nhiên liệu của người sản xuất ra quần áo để lấy
tiền thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở của mình… Người thợ làm tóc phục vụ cho
nhu cầu làm đẹp của mọi người để lấy tiền mua sản phẩm và dịch vụ từ mọi

người để đáp ứng cho các nhu cầu của mình. Mọi người bán sản phẩm, dịch
vụ của mình cho người khác để lấy tiền mua sản phẩm và dịch vụ của người
khác mà trong đó có dịch vụ làm tóc của anh thợ cắt tóc. Cứ như thế con
người hợp tác và chung sống với nhau trong phạm vi một địa phương, một
quốc gia và trên thế giới.
Tóm lại, quyền tự do kinh doanh là quyền tự do lựa chọn trong việc
thành lập doanh nghiệp và tiến hành kinh doanh mà nhà nước phải ghi nhận
và chỉ kiểm soát nhằm bảo vệ cộng đồng. Quyền này là nền tảng cho hoạt
động kinh doanh. Vì vậy Luật số 73.1193 ngày 27 tháng 12 năm 1973 của
Pháp đã nêu bật “Tự do kinh doanh và ý chí kinh doanh là cơ sở của hoạt
động kinh doanh và nghề thủ công” [18, tr. 31].
1.2.2. Nội dung pháp lý của quyền tự do kinh doanh
Phần khái niệm đã xác định quyền tự do kinh doanh liên quan tới đề tài
này bao gồm: quyền tự do góp vốn thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn

14


hình thức doanh nghiệp, tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, tự do thuê
mướn và sử dụng lao động, tự do quản trị doanh nghiệp và tự do lựa chọn đối
tác để giao dịch. Các thành tố này luôn luôn được xem xét trong việc thiết lập
nên các qui định pháp luật và trong việc giải quyết các tranh chấp thực tế mà
trong đó có cả vấn đề đăng ký kinh doanh. Một suy xét như vậy được coi là
hợp lý liên quan tới tự do kinh doanh khi có cân nhắc tới các thành tố này.
(1) Quyền tự do góp vốn thành lập doanh nghiệp là nội dung khởi đầu
quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Việc góp vốn xét về mặt pháp lý là
vấn đề hay điều kiện quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đối với hợp đồng
thành lập công ty [8, tr. 12- 23]. Luật Doanh nghiệp 2005 khẳng định:
“Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc
các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam,

ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở
hữu trí tuệ, cơng nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ
cơng ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty” (Điều 4, khoản 4).
Qua điều khoản định nghĩa trên của Luật Doanh nghiệp 2005, có thể rút
ra mấy vấn đề liên hệ sau:
Thứ nhất, nếu thiếu điều kiện góp vốn, cơng ty khơng thể được thành
lập bởi cơng ty khơng có tài sản để tiến hành các hoạt động; và
Thứ hai, người góp vốn phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để
góp vốn.
Từ đó có thể thấy tự do kinh doanh có mối liên hệ với tự do ý chí. Theo
PGS. TS Ngơ Huy Cương, tự do ý chí có hạt nhân lý luận là: con người có
quyền định đoạt tất cả những gì thuộc về mình, và chỉ bị ràng buộc bởi ý chí
của chính mình [5, tr. 11- 20]. Do vậy việc bảo hộ sở hữu và việc công nhận
các hợp đồng tạo lập nên sự ràng buộc là những vấn đề pháp lý rất quan trọng
xây dựng nền tảng cho tự do kinh doanh. Về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu,
Luật Doanh nghiệp 2005 có qui định:

15


“Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu
nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu
doanh nghiệp” (Điều 5, khoản 2).
Trước kia trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa, cơng hữu hóa tư liệu
sản xuất làm nền tảng, do đó phủ nhận sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
khiến cho các doanh nghiệp tư nhân khơng có đất để nhen nhóm. Khi đổi mới,
xây dựng nền kinh tế thị trường, việc thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu tư
liệu sản xuất của tư nhân được làm nổi bật để mọi người an tâm đầu tư thành
lập doanh nghiệp của mình. Do đó cho mãi tới nay, việc tuyên bố một điều
tưởng như dĩ nhiên vẫn được đưa ra tại Luật Doanh nghiệp 2005, khoản 2,

Điều 5 vừa dẫn. Gắn liền với sự thừa nhận này, Bộ luật Dân sự 2005 khẳng
định nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận là nguyên tắc đầu tiên
của luật tư (Điều 4), có nghĩa là quyền tự do hợp đồng, tự do ý chí được thừa
nhận và bảo vệ.
(2) Quyền tự do lựa chọn hình thức doanh nghiệp là một quyền rất
quan trọng góp phần bảo đảm cho hoạt động đầu tư, hoạt động kinh doanh có
hiệu quả. Khi bỏ vốn vào đầu tư, kinh doanh, người đầu tư thường cân nhắc
rất kỹ tới khả năng của mình, tới nhu cầu của thị trường, tới sự quản lý của
nhà nước, tới các đặc điểm của ngành nghề kinh doanh… Sự cân nhắc này
liên quan tới hình thức doanh nghiệp bởi hình thức doanh nghiệp sẽ ảnh
hưởng rất lớn tới các vấn đề như khả năng huy động vốn, năng lực và cách
thức quản trị, yêu cầu của pháp luật và nhà nước đối với thành lập, tổ chức và
hoạt động, yêu cầu riêng biệt của ngành nghề kinh doanh… Như vậy để đồng
vốn đầu tư có hiệu quả và thiết lập một phương tiện (doanh nghiệp) kiếm
sống phù hợp, thì vấn đề lựa chọn hình thức doanh nghiệp khơng thể bỏ qua
trong việc thừa nhận và bảo vệ quyền tự do kinh doanh. Pháp luật chỉ qui định
một hoặc một vài hình thức doanh nghiệp bắt buộc người đầu tư phải tuân

16


theo khi muốn kinh doanh trong một số ngành nghề đặc biệt do tính chất đặc
biệt đó địi hỏi.
(3) Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh là quyền có ý nghĩa
thiết thực với khả năng của thương nhân và có ý nghĩa rất lớn đối với kinh tếxã hội. Thông thường người ta lựa chọn ngành nghề kinh doanh ngay khi có ý
định thành lập doanh nghiệp. Có thể nói doanh nghiệp là cơng cụ, phương
tiện cịn ngành nghề kinh doanh là linh hồn của công cụ, phương tiện ấy.
Ngành nghề kinh doanh thường được lựa chọn trong sự cân nhắc tới nhu cầu
của thị trường (có nghĩa là bán ra những gì mà thị trường cần) và năng lực
đáp ứng của người đầu tư (có nghĩa là khả năng có thể cung cấp những gì cho

thị trường).
Tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh có thể bị phụ thuộc vào pháp
luật bởi pháp luật có thể hạn chế và cấm kinh doanh trong một số ngành nghề
nhất định. Việc cấm hay hạn chế này là những cản trở nhất định cho quyền tự
do kinh doanh. Tuy nhiên khơng thể khơng có những ngành nghề bị cấm hoặc
hạn chế bởi khi kinh doanh những ngành nghề đó sẽ gây tác hại rất lớn cho
cộng đồng hay đạo đức xã hội. Chẳng hạn như: tổ chức chứa gá cờ bạc, tổ
chức mại dâm, tổ chức mua bán nội tạng người, sản xuất và mua bán vũ khí
quân dụng, mua bán tranh ảnh khỏa thân, tổ chức thi đấu võ thuật đến chết…
Vậy tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh và cấm hay hạn chế một số
ngành nghề kinh doanh là hai mặt đối lập trong một chỉnh thể quyền tự do
kinh doanh. Việc cấm hay hạn chế là để bảo đảm tự do kinh doanh tồn tại.
(4) Quyền tự do thuê mướn và sử dụng lao động là quyền có ý nghĩa
quyết định sự sống cịn của doanh nghiệp. Trong đời sống kinh doanh, không
phải lúc nào người đầu tư cũng có thể tự mình giải quyết đầy đủ các vấn đề
của hoạt động sản xuất kinh doanh. Sẽ khơng có sự đáp ứng tương đối đầy đủ
các nhu cầu xã hội ngày một gia tăng, nếu như doanh nghiệp khơng có quyền

17


tự do thuê mướn và sử dụng lao động. Thông thường doanh nghiệp tùy thuộc
vào ngành nghề kinh doanh của mình để th mướn lao động có sức khỏe,
đạo đức, khả năng, trình độ, kinh nghiệm khác nhau. Song trước hết sự thuê
mướn này phải được pháp luật thừa nhận và cho thi hành. Tuy nhiên việc thuê
mướn và sử dụng lao động là lĩnh vực rất nhạy cảm, đụng chạm trực tiếp tới
con người và để bảo vệ người lao động, nên pháp luật lao động đặt ra nhiều
điều kiện ràng buộc liên quan tới hợp đồng lao động, hạn chế sử dụng lao
đđộng, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, tiền lương, tiền công, chế độ an sinh xã
hội… Nhưng trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do thuê mướn và sử dụng

lao động được minh chứng bằng việc tạo dựng hay cho phép tồn tại một thị
trường lao động với các qui định pháp luật điều tiết nó theo cơ chế thị trường.
(5) Quyền tự do quản trị doanh nghiệp là quyền gắn liền với quyền tự
do góp vốn thành lập doanh nghiệp và quyền tự do lựa chọn hình thức doanh
nghiệp. Khi góp vốn và lựa chọn hình thức doanh nghiệp, người đầu tư hoặc
những người đầu tư mong muốn điều hành doanh nghiệp của mình theo ý
mình và hoạt động mang lại hiệu quả. Xuất phát từ quyền tự do định đoạt của
chủ thể luật tư, người đầu tư có thể quản trị và điều hành doanh nghiệp theo ý
riêng của mình. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp được thành lập bởi sự liên kết
giữa các thành viên thì việc quản trị và điều hành doanh nghiệp cịn phải phụ
thuộc vào ý chí chung của các thành viên. Điều đó có nghĩa là quản trị và điều
hành doanh nghiệp bị lệ thuộc vào hình thức liên kết thành lập doanh nghiệp
hay hình thức doanh nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp có cơ cấu và phương
thức quản trị riêng do pháp luật yêu cầu để bảo đảm sự bình đẳng và hiệu quả
giữa các thành viên. Các hình thức doanh nghiệp là một số hữu hạn bởi các
yếu tố kết hợp với nhau để tạo thành hình thức doanh nghiệp là một số hữu
hạn [9, tr. 1-8]. Vì vậy khi lựa chọn một hình thức doanh nghiệp gần như
đồng nghĩa với việc đã chọn sẵn cho mình một cơ cấu và phương thức quản

18


trị, điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên pháp luật chỉ áp đặt các qui định tối
thiểu nhằm điều hòa các xung đột giữa các thành viên của doanh nghiệp và để
bảo vệ cộng đồng.
(6) Quyền tự do lựa chọn đối tác để giao dịch là quyền quan trọng
trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh. Các hoạt động kinh doanh
thực chất là một chuỗi các giao dịch giữa doanh nghiệp với người bên ngồi
để có thể mua ngun nhiên vật liệu, sức lao động, kỹ thuật… phục vụ sản
xuất, kinh doanh, và bán ra hàng hóa, dịch vụ. Do vậy quyền này gắn liền với

sự sống còn của doanh nghiệp. Việc thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành
nghề kinh doanh, quản trị, điều hành doanh nghiệp sẽ trở nên vô nghĩa nếu
doanh nghiệp không thể giao dịch với bên ngoài. Tuy nhiên quyền này và
quyền tự do thuê mướn và sử dụng lao động khó có thể tách bạch với quyền
tự do hợp đồng. Thực chất có thể nói hai quyền này là quyền tự do hợp đồng
bởi tự do hợp đồng nói một cách đơn giản là tự do tìm kiếm đối tác để cùng
nhau thỏa thuận ràng buộc nhau vào một quan hệ nhất định.
1.3. Ý nghĩa, mục tiêu và nội dung của đăng ký kinh doanh
1.3.1. Ý nghĩa và mục tiêu của đăng ký kinh doanh
Đăng ký kinh doanh trước hết được xem là một thủ tục khai sinh ra
thương nhân. Kể từ khi đăng ký kinh doanh hồn tất thương nhân mới có quyền
hoạt động kinh doanh và phải gánh chịu các nghĩa vụ của thương nhân. Về mặt
học thuật, người ta chia thương nhân thành hai loại: thương nhân thể nhân và
thương nhân pháp nhân (công ty). Như vậy việc đăng ký kinh doanh đối với
thương nhân pháp nhân có ý nghĩa khai sinh ra pháp nhân. Thông thường người
ta nghiên cứu ý nghĩa của đăng ký kinh doanh ở mấy phương diện sau:
Đối với nhà nước: Đăng ký kinh doanh được pháp luật qui định để
buộc nhà nước phải bảo hộ thương nhân trong các hoạt động kinh doanh
không những trong phạm vi quốc gia, mà còn trong phạm vị quốc tế. Đồng

19


thời thông qua việc đăng ký kinh doanh, nhà nước nắm bắt được cơ cấu các
thành phần kinh tế và kiểm soát các hoạt động kinh tế theo những định
hướng nhất định.
Đăng ký kinh doanh giúp cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt được tình
hình tổ chức kinh doanh để có thể đưa ra những chính sách, biện pháp khuyến
khích hoặc hạn chế phù hợp cho việc phát triển kinh tế, xã hội.
Đối với người đăng ký kinh doanh: Việc đăng ký kinh doanh hồn tất

có nghĩa là người đăng ký đã trở thành thương nhân được sự bảo hộ của pháp
luật và được hưởng qui chế pháp lý đặc biệt, chẳng hạn như được hưởng qui
chế phá sản (ở một số nước trong đó có Việt Nam), được tham dự vào phịng
thương mại và cơng nghiệp (ở một số nước), được hỗ trợ trong những trường
hợp đặc biệt...
Đối với xã hội: Đăng ký kinh doanh là thủ tục cơng khai hóa thương
nhân và các hoạt động kinh doanh của họ trước cơng chúng. Thơng qua đó xã
hội có được các thông tin và các đảm bảo về tư cách pháp lý của thương nhân.
Từ đó các bạn hàng, người tiêu dùng có niềm tin đối với thương nhân khi tiến
hành các giao dịch. Việc cơng khai hóa này còn giúp cho xã hội hay người
thứ ba tránh được những tác hại xấu của thương nhân trong một số trường
hợp như lừa đảo, làm ăn bất chính, gian lận thương mại…
Tóm lại, đăng ký thành lập kinh doanh có ý nghĩa quan trọng không chỉ
đối với bản thân thương nhân, mà cịn có ý nghĩa đối với việc quản lý nhà nước
và trật tự công cộng, đạo đức xã hội. Vì thế, đăng ký kinh doanh có lẽ vừa là
nhu cầu, vừa là nghĩa vụ đối với mỗi thương nhân khi khởi nghiệp kinh doanh.
Vì vậy việc xây dựng một chế định đăng ký kinh doanh phản ánh được
các ý nghĩa trên là một việc quan trọng, song rất khó khăn bởi mục tiêu bảo đảm
quyền tự do kinh doanh và mục tiêu bảo đảm quản lý Nhà nước là các mục tiêu
trái ngược nhau. Nếu tăng cường quản lý nhà nước, thì bảo đảm quyền tự do

20


×