Tải bản đầy đủ (.doc) (218 trang)

định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.24 KB, 218 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh
doanh. Tuy nhiên, trong các xã hội khác nhau và ở trong từng thời kỳ lịch sử
cụ thể thì mức độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu tự do kinh doanh cũng khác
nhau. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó pháp luật giữ vai trò
đặc biệt quan trọng. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh hệ thống pháp luật là
một trong những nhân tố quyết định cho việc đảm bảo quyền tự do kinh
doanh. Sự khác nhau về tính hoàn thiện, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật
là một trong những nhân tố quyết định cho việc đảm bảo thực hiện quyền tự
do kinh doanh. Thông thờng, ở những quốc gia có hệ thống pháp luật đồng bộ
thống nhất, minh bạch, có hiệu quả là những nớc có thể khơi dậy nguồn hứng
khởi cho các nhà kinh doanh, thu hút đợc các nguồn đầu t cho sự phát triển
kinh tế. ở nớc ta và các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây, do áp dụng cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, tự do kinh doanh đã không đợc pháp luật công
nhận và trên thực tế không tồn tại khái niệm "quyền tự do kinh doanh". Trong
các văn bản pháp luật cũng nh các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nớc
ta lúc đó khó có thể tìm thấy khái niệm "quyền tự do kinh doanh".
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã đề ra đờng lối đổi mới
nói chung và cơ chế quản lý kinh tế nói riêng. Theo đó, tự do kinh doanh đã
chính thức trở thành quyền pháp định. Điều 4 Luật Công ty (1990) quy định
"trong khuôn khổ pháp luật, công ty có quyền tự do kinh doanh". Đến Hiến
pháp (1992) thì tự do kinh doanh đã trở thành quyền hiến định: "Công dân có
quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" (Điều 57). ở nớc ta,
quyền tự do kinh doanh là vấn đề còn rất mới mẻ trong khoa học pháp lý. Vì
vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, nội dung của quyền tự do kinh
doanh, trên cơ sở đó thể chế hóa kịp thời và đầy đủ những yêu cầu mà quyền
1
tự do kinh doanh đặt ra có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. ở phơng diện này,
pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng có vai trò quyết định đối với
việc đảm bảo tự do kinh doanh. Do đó, việc nghiên cứu để tìm ra những luận


cứ khoa học, những định hớng và giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật kinh tế đảm bảo tự do kinh doanh ở nớc ta là đòi hỏi bức thiết cả về
lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, khái niệm quyền tự do kinh doanh từ lâu đã đợc sử dụng
khá phổ biến và rộng rãi. Quyền tự do kinh doanh gắn liền với thuyết tự do
hóa kinh tế của Adam Smith. Ông cho rằng, tự do trong kinh tế là tự do chọn
nghề, tự do hành nghề, tự do sở hữu và tự do cạnh tranh đợc pháp luật đảm
bảo.
Quyền tự do kinh doanh ở nớc ta gắn liền với quá trình đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế. Đặt ra yêu cầu bức xúc trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật kinh tế đang đợc sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học thuộc
nhiều lĩnh vực. ở những phạm vi và mức độ khác nhau đã có khá nhiều công
trình trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề quyền tự do kinh doanh và
pháp luật kinh tế, nh: Quyền con ngời trong thế giới hiện đại do TS. Phạm
Khiêm ích và GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ biên; Pháp luật trong cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý của Nhà nớc của PGS.TS Trần Ngọc Đờng; Thực trạng
pháp luật kinh tế ở nớc ta và các quan điểm đổi mới đa pháp luật kinh tế vào
cuộc sống của PGS.TS Nguyễn Niên; Quan điểm pháp luật kinh tế trong nền
kinh tế thị trờng của cố PGS.TS Trần Trọng Hựu; Một số vấn đề cấp thiết cần
giải quyết để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của TS. Dơng Đăng Huệ; Pháp
luật kinh tế nớc ta trong bớc chuyển sang kinh tế thị trờng của TS. Nguyễn
Nh Phát; Môi trờng pháp luật kinh tế đầy đủ phù hợp với cơ chế thị trờng của
TS. Hoàng Thế Liên; Pháp luật và quyền tự do kinh doanh của PGS.TS Lê
Hồng Hạnh; Hoàn thiện luật kinh tế ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trờng
2
định hớng xã hội chủ nghĩa, Luận án Phó Tiến sĩ của Nguyễn Am Hiếu; Đổi
mới và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trờng
Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Minh Mẫn; Quyền tự do kinh
doanh trong pháp luật kinh tế Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của Bùi Ngọc C-

ờng.
Ngoài ra, vấn đề hoàn thiện pháp luật kinh tế còn thu hút sự chú ý của
nhiều đề tài khoa học thuộc dự án do các tổ chức quốc tế thực hiện nh: Dự án
của UNDP mang tên Tăng cờng năng lực pháp luật tại Việt Nam (Dự án
VIE/94/003), mà nội dung chính là xây dựng khung pháp luật kinh tế phù hợp
với nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập
đến nhiều khía cạnh và ở các mức độ khác nhau của quyền tự do kinh doanh.
Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống lý luận về quyền
tự do kinh doanh, vai trò của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo quyền tự do
kinh doanh và nhất là thực trạng của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh ở nớc ta hiện nay, trên cơ sở đó đa ra những kiến nghị
để xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh
thì cho đến nay vẫn cha có.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Căn cứ vào những quan điểm của Đảng và Nhà nớc về xây dựng và
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng định h-
ớng xã hội chủ nghĩa, cũng nh từ thực tiễn xây dựng pháp luật trong thời gian
qua, mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ quan niệm về quyền tự
do kinh doanh, vai trò của pháp luật kinh tế đối với việc đảm bảo quyền tự do
kinh doanh. Trên cơ sở đó tìm ra những định hớng, giải pháp nhằm xây dựng
và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nớc ta.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là:
3
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh; từ đó xác
định đúng đắn bản chất, nội dung, những yếu tố chi phối quyền tự do kinh doanh.
- Nghiên cứu, lý giải vai trò của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của quyền tự
do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành.

- Đề ra những định hớng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện
pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Quyền tự do kinh doanh là vấn đề rất nhạy cảm có quan hệ mật thiết
với nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật. Pháp luật là phơng
tiện quan trọng nhất đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh đợc thực hiện và
phát huy giá trị tích cực trong cuộc sống. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung
nghiên cứu trong khuôn khổ pháp luật kinh tế. Pháp luật kinh tế là bộ phận
cấu thành của cơ chế kinh tế. Với nội dung, cơ cấu, cơ chế điều chỉnh của
mình, pháp luật kinh tế có mối quan hệ mật thiết và có vai trò quan trọng,
trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Pháp luật kinh tế đợc đề cập
trong luận án là khái niệm tổng hợp chỉ tổng thể các quy phạm pháp luật
thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau có quan hệ trực tiếp đến quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý nền kinh tế.
Khi nghiên cứu hệ thống pháp luật kinh tế, luận án cũng chủ yếu chỉ đi
sâu nghiên cứu những chế định pháp luật có liên quan trực tiếp nhất với sự
hình thành và đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Vì vậy, hớng nghiên cứu của
luận án là luôn bám sát mối quan hệ giữa yêu cầu của quyền tự do kinh doanh
mà pháp luật kinh tế phải thể chế hóa và đảm bảo.
Tác giả của luận án cũng ý thức rằng để đảm bảo quyền tự do kinh
doanh cần phải giải quyết nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau nh cải
4
cách bộ máy hành chính, nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ, công chức
nhà nớc, cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh Đó là những vấn đề phức tạp cần phải đợc tiếp tục nghiên cứu ở các
công trình khoa học pháp lý tiếp theo sau này.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận án đợc thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nớc ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng định h-

ớng xã hội chủ nghĩa. Mà thực chất là dân chủ hóa trong đời sống kinh tế - xã
hội để phát huy mọi tiềm năng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nớc. Luận án vận dụng các nguyên tắc phơng pháp luận của triết
học Mác - Lênin, của lý luận nhà nớc và pháp luật, đặc biệt là lý luận về pháp
luật kinh tế trong điều kiện cơ chế kinh tế mới. Trong đó, luận án đặc biệt chú
ý đến việc vận dụng phơng pháp biện chứng, phơng pháp lịch sử để phân tích,
so sánh, đối chiếu, tổng hợp trong quá trình giải quyết những vấn đề mà đề tài
đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án có những điểm mới sau:
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống lý
luận về quyền tự do kinh doanh.
- Luận án phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật kinh tế đảm bảo
quyền tự do kinh doanh ở nớc ta hiện nay.
- Luận án đề xuất những định hớng và giải pháp hoàn thiện những chế
định pháp luật quan trọng có liên quan trực tiếp đến việc đảm bảo thực hiện
quyền tự do kinh doanh. Trong đó, đáng chú ý là hình thức sở hữu pháp nhân;
thống nhất sự điều chỉnh pháp luật về doanh nghiệp; thống nhất sự điều chỉnh
5
pháp luật về hợp đồng. Đó là những vấn đề mới mẻ trong khoa học pháp lý n-
ớc ta hiện nay.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật kinh tế đảm
bảo quyền tự do kinh doanh ở nớc ta, luận án đã đa ra những kiến nghị cụ thể
góp phần vào hoạt động xây dựng pháp luật kinh tế của nớc ta trong thời gian
tới, nhằm đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế thị trờng với nguyên tắc cơ
bản là tự do kinh doanh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, nội dung luận án bao gồm 3 chơng.
6

Chơng 1
quyền tự do kinh doanh và vai trò
của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh
1.1. Những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh
1.1.1. Khái niệm kinh doanh và quyền tự do kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm kinh doanh
Dới góc độ kinh tế, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất
hàng hóa, là tổng thể các hình thức, phơng pháp và biện pháp nhằm tổ chức
các hoạt động kinh tế, phản ánh quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản
xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm mục đích thu
về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu.
Hoạt động kinh doanh gắn liền với quan hệ sở hữu và bị quan hệ sở
hữu chi phối. Trong "T bản", C.Mác đã phân biệt rõ hai loại t bản: t bản sở hữu
và t bản chức năng. T bản sở hữu là t bản "chết", nằm yên; t bản chức năng là
t bản hoạt động, t bản kinh doanh, làm cho t bản "chết" thành t bản "sống".
Tùy thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu sẽ có một chế độ kinh doanh nhất
định. Mặt khác, quan hệ kinh doanh có tác động trở lại quan hệ sở hữu. Quan
hệ sở hữu quyết định bản chất xã hội của quan hệ kinh doanh, mục đích và xu
hớng vận động của nó. Nhng tự nó, quan hệ sở hữu không tạo ra và không làm
tăng thêm sản phẩm và giá trị. Nó chỉ là điều kiện cơ bản và tiên quyết của
kinh doanh. Muốn làm đợc điều đó quan hệ sở hữu phải đợc thực hiện thông
qua quan hệ kinh doanh. Nhờ có quan hệ kinh doanh mà quan hệ sở hữu đợc
thực hiện về mặt kinh tế, kinh doanh càng có hiệu quả thì mức độ thực hiện sở
hữu về mặt kinh tế càng cao. Kinh doanh bao giờ cũng phục vụ cho chế độ sở
7
hữu, là hành động tiếp theo của sở hữu. Do đó, kinh doanh đóng vai trò làm
cho sở hữu từ chỗ tồn tại về mặt hình thức trở thành tồn tại hiện thực.
Với quan niệm đó, kinh doanh đợc chia thành nhiều kiểu, chế độ, lĩnh
vực khác nhau, nh kinh doanh trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn, kinh

doanh trong nền kinh tế thị trờng; kinh doanh t bản chủ nghĩa, kinh doanh xã
hội chủ nghĩa; kinh doanh trong công nghiệp, kinh doanh trong nông nghiệp,
kinh doanh trong thơng nghiệp, kinh doanh trong vận tải Tuy nhiên, dù phân
chia nh thế nào thì mục đích cuối cùng của kinh doanh là làm tăng thêm giá
trị vật chất cho xã hội và đối với từng nhà kinh doanh thì đó chính là lợi
nhuận.
ở nớc ta, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp trớc đây đã có
quan niệm không đầy đủ, không đúng về kinh doanh. Kinh doanh đợc hiểu
theo nghĩa rất hẹp, kinh doanh đợc coi là một phần của quá trình tái sản xuất,
cụ thể là chỉ gắn với hoạt động lu thông, trao đổi, là buôn bán. Thậm chí, có
ngời còn ác cảm với kinh doanh, coi kinh doanh là con đờng dẫn tới bóc lột.
Do vậy, chỉ có các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể) mới
đợc phép kinh doanh, còn các thành phần kinh tế khác thì bị hạn chế và cấm
đoán.
Thực ra, kinh doanh nh đã trình bày ở trên luôn gắn với quan hệ hàng
hóa - tiền tệ và quy luật giá trị. Trong bất cứ phơng thức sản xuất nào, còn sản
xuất hàng hóa và quy luật giá trị tồn tại khách quan thì còn kinh doanh với
tính cách là phơng thức hoạt động kinh tế của con ngời.
ở nớc ta, khái niệm kinh doanh đợc định nghĩa trong Luật Công ty
(1990). Theo quy định tại Điều 3 của đạo luật này thì: "Kinh doanh là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu t, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trờng nhằm mục
đích sinh lợi". Khái niệm kinh doanh đợc khẳng định lại trong Luật Doanh
nghiệp (1999) (khoản 2 Điều 3).
8
Với khái niệm trên, kinh doanh đã đợc hiểu một cách đầy đủ, đúng
đắn bao gồm tất cả các hoạt động nh: đầu t, sản xuất, trao đổi, dịch vụ nếu các
hoạt động này nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động này không nhất thiết phải
bao gồm tất cả các công đoạn để đạt đến kết quả cuối cùng mà chỉ cần một
trong các hoạt động nói trên là đủ, miễn sao hoạt động đó có mục đích sinh

lợi. Với khái niệm này, kinh doanh có nội dung rất rộng và ở mức độ khái quát
có thể đa ra những dấu hiệu đặc trng sau:
- Kinh doanh là hoạt động mang tính nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là
trong xã hội đã có những ngời, nhóm ngời, tổ chức mà nghề nghiệp chính của
họ là kinh doanh, sống bằng nghề kinh doanh. Kinh doanh mang tính thờng
xuyên, liên tục, ổn định và lâu dài.
- Kinh doanh là hành vi diễn ra trên thị trờng. Cụ thể, hoạt động kinh
doanh phản ánh mối quan hệ giữa các nhà kinh doanh với nhau, với xã hội nói
chung thông qua các quan hệ mua bán, trao đổi, tiêu dùng Những quan hệ
này tự nó phản ánh quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
- Mục đích của kinh doanh là lợi nhuận.
Kinh doanh đã trở thành một nghề trong xã hội (và là nghề quan trọng
vì nó tạo ra của cải vật chất, tinh thần để xã hội tồn tại và phát triển), do đó nó
có những đòi hỏi riêng về chủ thể cũng nh điều kiện để hoạt động kinh doanh.
Một trong những đòi hỏi mang tính quy luật của nền kinh tế thị trờng
là phải bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho con ngời. Vấn đề này bắt nguồn từ
yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trờng là sự tồn tại những hình thức sở
hữu khác nhau, của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Đồng thời nó cũng phù
hợp với xu thế vận động phát triển của xã hội trong thế giới văn minh hiện đại.
1.1.1.2. Khái niệm quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các
quyền tự do của công dân. Để có quan niệm đúng đắn về nó, trớc hết cần tìm
9
hiểu để nhận thức đầy đủ nội hàm các khái niệm quyền con ngời, quyền công
dân nói chung dới góc độ lịch sử, nguồn gốc và bản chất.
Quyền con ngời (nhân quyền), quyền công dân (dân quyền) luôn là
mối quan tâm của nhân loại ở mọi thời kỳ lịch sử. Mỗi bớc phát triển của lịch
sử xã hội loài ngời đều gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội
nhằm giải phóng con ngời.
Trong lịch sử t tởng nhân loại có các quan niệm khác nhau về sự ra

đời, bản chất của quyền con ngời.
Trớc khi học thuyết "pháp luật tự nhiên" ra đời, trong lịch sử nhân loại
đã từng có quan niệm (tuy còn ít và rời rạc) cho rằng con ngời mang thuộc
tính tự nhiên, con ngời ra đời đơng nhiên có quyền tự do. Quyền tự do của con
ngời không do ai ban phát. Quyền con ngời xuất hiện trớc khi có Nhà nớc,
pháp luật. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, quan niệm này thể hiện khát vọng
của con ngời, khi mà các quyền tự do của họ bị chà đạp, nhu cầu về quyền tự
do đã trở nên bức xúc. Lúc đó ngời ta thờng tìm đến tính chất tự nhiên "tạo
hóa", "bẩm sinh" các quyền tự do của con ngời. Nhận xét về quan niệm này,
GS.TS Hoàng Văn Hảo viết: "Quan niệm này thể hiện tính triết học nhân bản,
nhng khó tránh khỏi tính trừu tợng phi lịch sử, khó tránh khỏi tính chất ảo t-
ởng khi xác định nội dung các quyền con ngời, quyền công dân trong đời sống
thực tiễn" [11, tr. 13].
Đến thế kỷ XVII, XVIII các nhà t tởng, nhà cải cách lỗi lạc nh Locke,
Rousseau đã đa ra học thuyết "pháp luật tự nhiên nhân". Theo quan niệm
của thuyết "pháp luật tự nhiên nhân" thì quyền con ngời là đặc quyền tự nhiên,
quyền tự nhiên, "pháp luật tự nhiên" đứng trên, cao hơn pháp luật Nhà nớc.
Locke cho rằng các quyền cơ bản, tự nhiên của con ngời bao gồm: quyền
sống, quyền đợc tự do và quyền có tài sản. Thuyết pháp luật tự nhiên ra đời có
nguyên nhân lịch sử của nó. ở thời kỳ đó, xã hội phong kiến châu Âu đang
thống trị bởi hai thứ quyền lực là "Vơng quyền" - quyền lực của Nhà nớc và
10
"Thần quyền" - quyền lực của chúa trời. Thế kỷ thứ XVII, XVIII, chế độ quân
chủ đã đợc thiết lập ở hầu hết các nớc phong kiến châu Âu và đạt đến đỉnh cao
của sự tha hóa, nô dịch. Đó cũng là thời kỳ các Vua coi Chúa, Thánh thần là
đồng minh để hợp pháp hóa uy quyền của họ. Sự liên minh quyền lực giữa "V-
ơng quyền" và "Thần quyền" đã chà đạp thô bạo các quyền con ngời. Vì lẽ đó,
thuyết "pháp luật tự nhiên" ra đời nhằm thể hiện nhu cầu tự do của con ngời,
khẳng định quyền con ngời là tự nhiên vốn có. Thuyết pháp luật tự nhiên ra
đời để chống lại, phủ nhận quyền lực, pháp luật của Nhà nớc (Vơng quyền),

quyền lực, luật lệ của Nhà thờ thiên chúa giáo (Thần quyền).
Xét về mặt lịch sử, thuyết pháp luật tự nhiên mang giá trị nhân bản,
nhân đạo về con ngời. Nó đa ra những t tởng, nguyên tắc để bảo vệ quyền cá
nhân con ngời trớc quyền lực nhà nớc. Những giá trị đó về sau đã đợc thấm
nhuần, đợc tiếp thu trong khoa học chính trị, pháp lý ở các nớc t sản. Tuyên
ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 coi quyền con ngời là quyền sống, quyền tự
do và quyền mu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn về quyền con ngời của Liên Hợp
Quốc 1948 đã đề ra 30 điều có tính nguyên tắc về quyền con ngời. Các Công -
ớc của Liên Hợp Quốc khẳng định lại và cụ thể hóa thêm những nguyên tắc đó
thành các quyền trong các lĩnh vực: chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã
hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đặt con ngời cũng nh
quyền con ngời trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Quyền tự do của con
ngời là khái niệm mang tính lịch sử, hình thành và phát triển trong cuộc đấu
tranh giai cấp vì sự tiến bộ xã hội. Quyền tự do của con ngời không phải là
khái niệm trừu tợng, cũng không chỉ là quyền cá nhân con ngời mang tính tự
nhiên bẩm sinh, mà luôn gắn với trình độ phát triển và tiến bộ xã hội, chịu sự
chi phối của chế độ chính trị, chế độ kinh tế Khái niệm quyền tự do của con
ngời không thể đặt trừu tợng bên ngoài Nhà nớc và pháp luật. Quyền tự do của
con ngời phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nớc và cá nhân. Với quan niệm đó,
11
quyền con ngời đợc xem là giá trị đợc xã hội hóa, nghĩa là phải đợc Nhà nớc
ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật thì mới trở thành hiện thực.
Một mặt, quyền con ngời mang tính chất tự nhiên, do đó
không phải Nhà nớc (hoặc bất cứ ai) là kẻ ban tặng cho con ngời cái
quyền vốn có của họ. Mặt khác, khi cha đợc Nhà nớc quy phạm hóa
bằng pháp luật thì các quyền con ngời cha đợc xã hội thừa nhận,
cũng có nghĩa là cha chính thức ra đời. Vai trò của Nhà nớc chính là
ở chỗ đáp ứng đợc nhu cầu về quyền cá nhân con ngời trong xã hội,
biết phát hiện nhu cầu hiện thực của việc xuất hiện các quyền con

ngời để sớm thể chế hóa và bảo vệ bằng pháp luật [11, tr. 19].
Cũng cần lu ý là khái niệm quyền con ngời và khái niệm quyền công
dân là không đồng nhất, xét về cả hai phơng diện chủ thể và nội dung. Quyền
con ngời là khái niệm rộng hơn khái niệm quyền công dân. Khái niệm quyền
công dân mang tính xác định gắn liền với mỗi quốc gia, đợc pháp luật của mỗi
quốc gia quy định, khái niệm quyền công dân không chứa đựng hết khái niệm
quyền con ngời. Về phơng diện chủ thể, quyền công dân là cá nhân đợc xác
định là công dân (có quốc tịch) trong khi đó chủ thể quyền con ngời ngoài
những cá nhân là công dân còn bao gồm cả những ngời không phải là công
dân (ngời nớc ngoài, ngời không có quốc tịch, ngời bị pháp luật tớc quyền
công dân). Những ngời này tuy không đợc hởng quyền công dân nhng vẫn đợc
hởng các quyền con ngời với t cách là một thực thể tự nhiên - xã hội.
ở Việt nam cũng nh các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây, quyền con ng-
ời ít đợc nói đến, đợc mặc nhiên đồng nhất với quyền công dân. Trong các văn
bản pháp luật chỉ sử dụng thuật ngữ quyền công dân. Trong quá trình đổi mới
do Đảng ta đề xớng, những tri thức hợp lý của nhân loại đã và đang đợc chúng
ta tiếp thu. Điều 50 Hiến pháp (1992) nớc ta quy định: "ở nớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa và xã hội đợc tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và đợc quy định
12
trong Hiến pháp và pháp luật." Nh vậy, có thể khẳng định rằng, việc ghi nhận
và bảo đảm thực hiện tốt các quyền công dân cũng chính là đã thực hiện nội
dung cơ bản của quyền con ngời.
Các quyền tự do của công dân rất đa dạng, liên quan đến mọi mặt của
đời sống xã hội. Trong hệ thống các quyền tự do đó thì quyền tự do kinh
doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Giá trị to lớn của quyền tự do kinh
doanh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế
luôn giữ vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định các hoạt động khác.
Từ quan niệm chung về quyền tự do của con ngời, cho phép chúng ta
khẳng định: Quyền tự do kinh doanh là một phạm trù pháp lý. Dới góc độ này,

quyền tự do kinh doanh đợc hiểu theo nghĩa chủ quan và nghĩa khách quan.
+ Theo nghĩa chủ quan hay nhìn nhận dới góc độ quyền chủ thể:
quyền tự do kinh doanh đợc hiểu là khả năng hành động một cách có ý thức
của cá nhân hay pháp nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm những khả năng mà cá nhân
hay pháp nhân có thể xử sự nh: tự do đầu t tiền vốn để thành lập doanh nghiệp,
tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh; tự do lựa chọn đối tác để thiết lập
các quan hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự do định đoạt trong việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh Những khả năng xử sự này là
thuộc tính tự nhiên của cá nhân (hay pháp nhân) chứ không phải do Nhà nớc
ban tặng. Song những khả năng xử sự đó muốn trở thành hiện thực thì phải đ-
ợc Nhà nớc thể chế hóa bằng pháp luật và khi đó nó mới trở thành "thực
quyền". Cũng chính vì vậy mà quyền tự do kinh doanh với t cách là quyền
năng chủ thể cũng có giới hạn nhất định, vì nh Lênin từng chỉ rõ: "Sống trong
một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để đợc tự do, đó là điều không thể đợc"
[56, tr. 127].
13
+ Theo nghĩa khách quan hoặc đợc xem xét dới góc độ là một chế định
pháp luật: quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quy phạm pháp luật và
những đảm bảo pháp lý do Nhà nớc ban hành nhằm tạo điều kiện cho các cá
nhân hay pháp nhân thực hiện quyền chủ thể nói trên. Với quan niệm đó,
quyền tự do kinh doanh - một mặt bao gồm những quyền mà họ đợc hởng;
mặt khác, đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nớc, công chức nhà nớc khi
thực hiện chức năng quản lý của mình phải tôn trọng, bảo vệ những quyền của
chủ thể kinh doanh. Hai mặt này tồn tại thống nhất trong chế định pháp lý tự
do kinh doanh. Nếu chỉ thừa nhận những quyền của chủ thể mà không đảm
bảo cho nó những điều kiện để thực hiện thì quyền tự do kinh doanh cũng chỉ
mang tính hình thức mà thôi.
Tóm lại, theo chúng tôi, quan niệm về quyền tự do kinh doanh phải đợc
nhìn nhận, xem xét một cách toàn diện trên những khía cạnh cơ bản sau đây:

Một là, quyền tự do kinh doanh là một phần hợp thành và đóng vai trò
quan trọng trong hệ thống các quyền tự do của con ngời. Nh vậy, quyền tự do
kinh doanh phải đợc xem nh là một giá trị tự thân của con ngời mà Nhà nớc
phải thừa nhận và bảo vệ chứ không phải là sự ban phát, trao tặng.
Hai là, quyền tự do kinh doanh có trở thành hiện thực và phát huy tác
dụng trong thực tiễn hay không, tùy thuộc vào việc Nhà nớc có đáp ứng đợc
những đòi hỏi mà quyền tự do kinh doanh đặt ra để kịp thời thể chế hóa và bảo
vệ bằng pháp luật.
Ba là, quyền tự do kinh doanh của công dân tồn tại nh một nhu cầu tất
yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nó phải là mục tiêu mà Nhà nớc
hớng tới nếu nh muốn thực hiện địa vị hợp pháp, tính nhân văn tiến bộ trong
quá trình thực hiện quyền thống trị của mình.
1.1.2. Nội dung của quyền tự do kinh doanh
14
1.1.2.1. Căn cứ xác định nội dung quyền tự do kinh doanh
Xác định đúng đắn, đầy đủ những yếu tố hợp thành quyền tự do kinh
doanh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Trớc hết, nó giúp chúng ta
hiểu biết một cách toàn diện, có hệ thống về những yếu tố hợp thành quyền tự
do kinh doanh, vị trí vai trò của từng yếu tố và mối quan hệ giữa chúng. Từ đó,
có căn cứ khoa học để hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tự do kinh doanh.
Việc xác định này còn giúp cho các nhà kinh doanh nắm đợc những quyền mà
họ đợc làm, cách thức thực hiện những quyền đó nh thế nào. Đối với các cơ
quan nhà nớc, công chức nhà nớc, khi thực hiện chức năng quản lý của mình,
có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm những quyền đó cho nhà kinh doanh. Để
đảm bảo tính khách quan, việc xác định nội dung của quyền tự do kinh doanh
cần phải dựa vào hai căn cứ sau:
Thứ nhất, căn cứ vào đặc điểm của nền kinh tế thị trờng để xác định
nội dung quyền tự do kinh doanh. Những tính chất và đặc điểm của nền kinh
tế thị trờng quy định nội dung, tính chất của các quan hệ kinh tế, đồng thời
cũng xác định nội dung của hoạt động kinh doanh. Để xác định những nội

dung cụ thể của quyền tự do kinh doanh phải căn cứ vào yêu cầu nội tại của
bản thân quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tức là những yêu cầu mà
hoạt động sản xuất kinh doanh đặt ra cho các nhà kinh doanh. ở mức độ khái
quát có thể hình dung những việc mà các nhà kinh doanh phải thực hiện: Trớc
hết tạo nguồn vốn, tài sản; tiếp theo lựa chọn ngành nghề kinh doanh; tiến
hành thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh. Trong quá trình hoạt động,
các nhà kinh doanh phải thực hiện rất nhiều hành vi khác nh: thiết lập các
quan hệ kinh doanh (liên doanh, liên kết; mua bán, trao đổi, thực hiện các dịch
vụ ). Tất cả những công việc đó, khi đã đợc pháp luật thừa nhận và đợc bảo
đảm, sẽ trở thành quyền của các nhà kinh doanh, tạo thành nội dung của
quyền tự do kinh doanh.
15
Thứ hai, căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành để xác định
nội dung của quyền tự do kinh doanh. Nh đã khẳng định, quyền tự do kinh doanh
trớc hết là quyền chủ thể, song nó phải đợc pháp luật thừa nhận và đảm bảo thì
mới trở thành thực quyền. Điều này cho thấy nếu chỉ căn cứ vào yêu cầu nội
tại của hoạt động kinh doanh để xác định nội dung quyền tự do kinh doanh thì sẽ
chủ quan và sinh ra tùy tiện. Trong thực tiễn, có những yêu cầu, những đòi hỏi
của hoạt động kinh doanh khi cha đợc Nhà nớc thể chế hóa hoặc thừa nhận thì
các nhà kinh doanh cũng cha đợc phép tiến hành. Chẳng hạn, nh nhu cầu tạo
vốn để kinh doanh thông qua việc góp vốn thành lập công ty là yêu cầu nội tại
của hoạt động kinh doanh. Nếu Nhà nớc không ban hành Luật Công ty thì các
nhà kinh doanh cũng không thực hiện đợc quyền góp vốn để thành lập công ty.
Dựa vào căn cứ này ta thấy rõ mức độ hoàn thiện của nội dung quyền tự do kinh
doanh luôn phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện pháp luật. Việc mở rộng hay hạn
chế nội dung quyền tự do kinh doanh do pháp luật quy định phù hợp với điều
kiện kinh tế khách quan mà ở đó quyền tự do kinh doanh tồn tại.
1.1.2.2. Những nội dung cụ thể của quyền tự do kinh doanh
quyền tự do kinh doanh đợc hiểu là hệ thống các quyền gắn với chủ
thể kinh doanh, mà chủ yếu và trớc hết là:

- Quyền đợc đảm bảo sở hữu đối với tài sản;
- Quyền tự do thành lập doanh nghiệp (trong đó bao hàm quyền tự do lựa
chọn ngành nghề kinh doanh, địa điểm kinh doanh, lựa chọn mô hình doanh nghiệp);
- Quyền tự do hợp đồng;
- Quyền tự do cạnh tranh theo pháp luật;
- Quyền tự định đoạt trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp;
Các quyền tự do trên có mối quan hệ hữu cơ tạo thành thể thống nhất
của nội dung quyền tự do kinh doanh. Quá trình phát triển của nền kinh tế
chắc chắn sẽ làm phong phú thêm nội dung của quyền tự do kinh doanh.
16
a) Quyền đợc đảm bảo sở hữu đối với tài sản
Sở hữu là hình thức xã hội của việc chiếm hữu. Nó phản ánh mối quan
hệ giữa con ngời với con ngời trong quá trình sản xuất về việc chiếm hữu
những của cải vật chất trong xã hội, mà trớc hết là t liệu sản xuất. Các hình
thức sở hữu đợc pháp luật ghi nhận trở thành chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là
vấn đề cơ bản nhất của một chế độ kinh tế - xã hội.
Đối với quyền tự do kinh doanh thì quyền sở hữu t liệu sản xuất giữ vị
trí vai trò quan trọng nhất; nó đợc coi là nền tảng, là tiền đề cho việc hình
thành và thực hiện quyền tự do kinh doanh. Chỉ khi đợc sở hữu t liệu sản xuất
thì ngời ta mới có thể dùng tài sản đó đầu t vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Không ai có thể tiến hành đầu t để kinh doanh nếu không sở hữu một số t liệu
sản xuất, hàng hóa hay giá trị nhất định. Ngời nắm giữ sở hữu tài sản sẽ nắm
quyền quản lý, quyền phân phối thu nhập. Điều này đã đợc thực tiễn chứng
minh. ở các nớc t bản chủ nghĩa, sở hữu t nhân về t liệu sản xuất đợc coi là
nguyên tắc "bất khả xâm phạm" và gắn liền với nó là quyền tự do kinh doanh
đợc coi là lẽ tự nhiên, là điều "thiêng liêng" mà Nhà nớc phải bảo vệ.
ở nớc ta cũng nh ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa trớc đây, do nhận
thức chủ quan, duy ý chí, chúng ta đã nóng vội thiết lập chế độ công hữu đối
với t liệu sản xuất trên phạm vi toàn xã hội. Sở hữu t nhân đối với t liệu sản
xuất không đợc thừa nhận, do đó không tồn tại khái niệm quyền tự do kinh

doanh. Từ khi chúng ta tiến hành đổi mới mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội
thì quan niệm về quyền sở hữu đã có sự thay đổi cơ bản. Nền kinh tế nớc ta là
nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Sở hữu t
nhân đối với t liệu sản xuất đã chính thức đợc thừa nhận. Quyền tự do kinh
doanh - quyền cơ bản của công dân - đã chính thức trở thành hiện thực trong
đời sống kinh tế - xã hội nớc ta.
Quyền đợc đảm bảo sở hữu đối với tài sản có tác động tích cực, mạnh
mẽ đến các quyền tự do khác, nh: tự do thành lập doanh nghiệp, tự do hợp
17
đồng, tự do cạnh tranh Đối với quyền tự do thành lập doanh nghiệp, đăng ký
kinh doanh, quyền sở hữu t liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Không ai có
thể thành lập doanh nghiệp - đăng ký kinh doanh nếu không có trong tay
những t liệu sản xuất, số vốn nhất định. T liệu sản xuất, vốn đó phải thuộc
quyền sở hữu của ngời góp vốn, ngời thành lập doanh nghiệp, ngời đăng ký
kinh doanh. Khi thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, vấn đề sở hữu
bao giờ cũng nổi lên hàng đầu. Chẳng hạn, nh việc thành lập, đăng ký kinh
doanh đối với công ty thì vấn đề góp vốn, cơ chế góp vốn luôn có ý nghĩa
quyết định. Theo PGS.TS Lê Hồng Hạnh, "việc góp vốn là cơ sở hình thành sở
hữu doanh nghiệp. Bản thân vấn đề góp vốn cũng là vấn đề thuần túy mang
tính chất sở hữu" [9, tr. 21].
Mặt khác, quyền sở hữu t liệu sản xuất đã tác động tích cực làm đa dạng
hóa, phong phú thêm các loại hình doanh nghiệp. Trớc đây, pháp luật chỉ thừa
nhận sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể nên trong nền kinh tế nớc ta hầu hết tồn
tại doanh nghiệp nhà nớc và hợp tác xã. Từ khi pháp luật nớc ta thừa nhận
nhiều hình thức sở hữu đã xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp mới nh các
loại công ty, doanh nghiệp t nhân, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
Đối với quyền tự do hợp đồng thì vai trò của quyền sở hữu t liệu sản
xuất càng có vai trò quan trọng. Theo lôgíc của hợp đồng thì không ai có thể
mua bán, trao đổi hàng hóa, nếu không xác định đợc sở hữu của ngời bán đối
với tài sản là đối tợng của hợp đồng. Trong quá trình kinh doanh, các quan hệ

kinh tế đợc thiết lập bởi sự thúc đẩy của lợi ích. Lợi ích chỉ có thể có đợc khi
các quan hệ đó đợc hình thành trên cơ sở tự do ý chí. Sự tự do ý chí trong hợp
đồng là biểu hiện của việc thực hiện quyền sở hữu của các chủ thể trong quan
hệ hợp đồng. Quan hệ hợp đồng chính là sự vận động tự do của vốn và hàng
hóa (hợp đồng là hình thức của quan hệ hàng hóa - tiền tệ xét dới góc độ kinh
tế). Suy cho cùng thì bản chất của hợp đồng là sự vận động của quan hệ sở
hữu. Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh ở nớc ta hiện nay đã khẳng định
18
vai trò của quyền sở hữu t liệu sản xuất đối với quyền tự do hợp đồng. Các
quan hệ kinh tế hiện nay đã phát triển sống động, đa dạng (thông qua hợp
đồng) trên các lĩnh vực của nền kinh tế trong nớc cũng nh với nớc ngoài; giữa
các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; giữa các nhà kinh
doanh trong nớc với các thơng gia nớc ngoài.
Để thực hiện đợc quyền sở hữu đối với t liệu sản xuất thì các điều kiện
sau đây cần phải đợc đáp ứng:
- Mở rộng các đối tợng có khả năng trở thành chủ sở hữu t liệu sản xuất.
- Quy định nhiều hình thức sở hữu t liệu sản xuất; các hình thức sở hữu
phải đợc đối xử bình đẳng.
- Tạo cơ sở cho sự phát triển tự giác các hình thức sở hữu tồn tại với
những đặc trng vốn có của chúng.
- Đảm bảo việc chuyển dịch sở hữu đợc thuận lợi, nhanh chóng, an
toàn và sinh lợi.
- Mở rộng khách thể của quyền sở hữu.
- Phải có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các hình thức sở hữu
khác nhau đối với t liệu sản xuất. Chủ sở hữu phải có những biện pháp pháp lý
để bảo vệ quyền sở hữu của mình.
b) Quyền tự do thành lập doanh nghiệp
Quyền tự do thành lập doanh nghiệp là nội dung cơ bản, quan trọng
trong hệ thống các quyền tự do kinh doanh. Vị trí, vai trò quan trọng đó đợc
thể hiện ở chỗ công dân muốn trở thành nhà kinh doanh hợp pháp (có t cách

pháp lý hợp pháp) thì họ phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà n-
ớc có thẩm quyền. Khi đã tiến hành đăng ký kinh doanh (đợc công nhận t
cách pháp lý) thì lúc đó họ mới có t cách của nhà kinh doanh và mới đợc phép
tiến hành các hoạt động kinh doanh nh: sản xuất, trao đổi, mua bán. thực hiện
các dịch vụ Nh vậy, quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh là cơ sở để
19
cá nhân, pháp nhân đợc Nhà nớc công nhận là chủ thể kinh doanh hợp pháp, là
tiền đề để họ tiến hành các hoạt động kinh doanh khác. TS Dơng Đăng Huệ cho
rằng, thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh cha có nội dung kinh tế, nhng
nó là tất yếu, là cần thiết, là tiền đề để hình thành các quan hệ kinh tế thuần
túy - quan hệ sản xuất kinh doanh đích thực [21, tr. 3].
Nói đến quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh chúng ta hiểu
rằng đây là quyền của cá nhân hay pháp nhân trong việc tạo lập t cách pháp lý
thông qua các thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh. Không ai có quyền can
thiệp, ngăn cản trái phép quyền thành lập và đăng ký kinh doanh của họ. Đồng
thời với quyền của cá nhân, pháp nhân là nghĩa vụ của cơ quan nhà nớc phải
tạo những điều kiện đảm bảo cho họ thực hiện quyền của mình. Vấn đề đặt ra
là: cá nhân, pháp nhân muốn có t cách của nhà kinh doanh hợp pháp lại phải
tiến hành thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh. Điều này có vi phạm
quyền tự do kinh doanh hay không? Trớc hết, cần khẳng định rằng, việc thành
lập và đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính thông thờng nhằm thừa nhận
t cách pháp lý cho các nhà đầu t và thể hiện sự quản lý của Nhà nớc đối với
các hoạt động kinh tế. Khi cá nhân, pháp nhân đã nộp đủ hồ sơ hợp lệ thì cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền phải cấp giấy đăng ký kinh doanh cho họ. Việc
cấp giấy đăng ký kinh doanh là góp phần tích cực vào hoạt động quản lý nhà
nớc, đồng thời cũng chính là bảo vệ lợi ích cho bản thân nhà kinh doanh.
Theo TS. Dơng Đăng Huệ thì "trong xã hội văn minh con ngời đợc tự
do kinh doanh, nhng điều đó không có nghĩa là họ không phải làm bất cứ một
thủ tục pháp lý nào trớc khi trở thành nhà kinh doanh. ở các nớc phát triển,
thủ tục này đơn giản, gọn nhẹ đợc thực hiện thông qua hình thức đăng ký kinh

doanh" [21, tr. 2].
Gắn liền với quyền thành lập và đăng ký kinh doanh là quyền tự do lựa
chọn ngành nghề kinh doanh; hình thức tổ chức trong kinh doanh và địa điểm
kinh doanh. Khi thực hiện quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh, các
20
chủ thể kinh doanh đã quyết định lựa chọn ngành nghề kinh doanh cho mình.
Việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn, điều
kiện và khả năng của các nhà kinh doanh, dựa trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu thị
trờng. Sự lựa chọn này có tác dụng rất lớn đến sự nghiệp kinh doanh của nhà
doanh nghiệp trên thơng trờng. Không ai có quyền can thiệp trái phép vào
quyền này của họ, bởi lẽ ngời chịu trách nhiệm về những kết quả kinh doanh
chính là các chủ doanh nghiệp. Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh
tạo ra khả năng rộng lớn cho nhà kinh doanh trong việc tìm hiểu nhu cầu thị
trờng. Ngành nghề kinh doanh rất đa dạng, phong phú, có thể là trong công
nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng, dịch vụ Trong từng lĩnh vực đó lại chia
thành những lĩnh vực nhỏ hơn tạo nên sự đa dạng muôn màu muôn vẻ của đời
sống kinh doanh, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh cũng bị giới hạn bởi một số lĩnh
vực có liên quan đến an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Trên cơ sở lựa
chọn ngành nghề kinh doanh, các nhà đầu t có quyền tự do lựa chọn hình thức
tổ chức kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình. Các nhà đầu t có thể
thành lập và đăng ký kinh doanh theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc doanh nghiệp t nhân
Một quyền tự do không kém phần quan trọng của các nhà đầu t là lựa
chọn địa điểm kinh doanh. Địa điểm kinh doanh là nơi mà họ tiến hành các
hoạt động kinh doanh, nó không chỉ phản ánh tính không gian của hoạt động
kinh doanh mà tự nó còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng.
Lựa chọn ngành nghề kinh doanh, hình thức tổ chức trong kinh doanh,
địa điểm kinh doanh là những quyết định đầu tiên của nhà kinh doanh. Thừa
nhận quyền tự do này chính là tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu và

tạo ra khả năng thuận lợi ban đầu cho sự nghiệp kinh doanh của họ; đồng thời
cũng giúp họ trả lời ba câu hỏi cơ bản mà nền kinh tế thị trờng đặt ra. Đó là
"sản xuất cái gì?", "sản xuất nh thế nào?" và "sản xuất cho ai?". Lựa chọn
21
ngành nghề kinh doanh và địa điểm kinh doanh chính là việc nhà kinh doanh
trả lời câu hỏi "sản xuất cái gì" và "sản xuất cho ai". Lựa chọn hình thức kinh
doanh, nhà kinh doanh sẽ giải đáp đợc câu hỏi "sản xuất nh thế nào, bằng cách
gì".
Tôn trọng quyền tự do kinh doanh xét cho cùng chính là tôn trọng
những quy luật trong nền kinh tế thị trờng.
Để đảm bảo quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh, quyền tự do
lựa chọn ngành nghề kinh doanh, địa điểm kinh doanh thì các điều kiện sau
đây cần đợc đáp ứng:
- Phải mở rộng đối tợng đợc phép kinh doanh.
- Phải có nhiều mô hình tổ chức kinh doanh để nhà đầu t lựa chọn.
- Thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh phải đơn giản, thuận tiện.
- Nhà nớc phải quy định một cách minh bạch những ngành nghề kinh
doanh nào bị cấm; những ngành nghề kinh doanh nào đòi hỏi phải có điều
kiện, điều kiện đó là gì?
ở nớc ta hiện nay, kể từ khi Nhà nớc ban hành Luật Doanh nghiệp (có
hiệu lực từ 1-1-2000) thì về cơ bản những điều kiện trên đã đợc đáp ứng.
c) Quyền tự do hợp đồng
"Buôn có bạn, bán có phờng" là yêu cầu khách quan đối với các nhà
kinh doanh. Để tồn tại và phát triển; các nhà kinh doanh phải thiết lập các
quan hệ kinh tế với nhau để trao đổi sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ Các quan
hệ kinh tế đó rất đa dạng và phong phú, nó xuất hiện ở tất cả các khâu của quá
trình kinh doanh. Việc thiết lập các quan hệ kinh tế đợc thực hiện thông qua
hợp đồng. Hợp đồng phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các nhà kinh doanh.
Đó là mối quan hệ ý chí đợc xác lập một cách tự nguyện, bình đẳng, cùng có
lợi. Với ý nghĩa đó, tự do hợp đồng là một trong những nội dung quan trọng

22
của quyền tự do kinh doanh. Nó biểu hiện cụ thể, sinh động giá trị hiện thực của
quyền sở hữu, quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh, tự do cạnh tranh
Các quyền sở hữu t liệu sản xuất, tự do thành lập và đăng ký kinh
doanh sẽ mất ý nghĩa nếu nh không có tự do hợp đồng. Hợp đồng biểu hiện
những hành vi kinh doanh cụ thể. Mọi hành vi kinh doanh nh: góp vốn thành
lập doanh nghiệp, sử dụng lao động, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng,
liên doanh liên kết, vay vốn, trao đổi hàng hóa, thực hiện các dịch vụ đều
thông qua hợp đồng. Chính vì vậy, "hợp đồng có mặt trong bất cứ lĩnh vực nào
nếu ở đó có sự chuyển dịch lợi ích" [9, tr. 25]. Do đó, đảm bảo quyền tự do
hợp đồng chính là điều kiện để thực hiện tốt các quyền tự do khác trong hệ
thống các quyền tự do kinh doanh.
Tóm lại, tự do hợp đồng là quyền của các chủ thể kinh doanh, đợc thể
hiện ở bốn khía cạnh sau đây:
- Một là, ký kết hợp đồng là quyền của các nhà kinh doanh, không ai
có quyền áp đặt, can thiệp vào quyền này.
- Hai là, các chủ thể kinh doanh có quyền tự do lựa chọn đối tác để
thiết lập các quan hệ kinh doanh.
- Ba là, các chủ thể kinh doanh có quyền thỏa thuận để áp dụng các
biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng.
- Bốn là, các chủ thể kinh doanh có quyền tự do thỏa thuận thay đổi
một số nội dung trong quá trình thực hiện hợp đồng
d) Quyền tự do cạnh tranh lành mạnh
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trờng. Nó
có vai trò quan trọng không những với t cách là động lực của sự phát triển, mà
còn với t cách là yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ kinh doanh.
Trong cơ chế thị trờng, nếu lợi nhuận thúc đẩy các nhà kinh doanh thì cạnh
tranh bắt buộc họ phải điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng các
23
nguồn lực (vốn, lao động, kỹ thuật ) có hiệu quả nhất nhằm duy trì sự tồn tại

và phát triển sự nghiệp kinh doanh của mình. Trong nền kinh tế thị trờng, ngời
tiêu dùng và các nhà kinh doanh có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong
đó ngời tiêu dùng đợc coi là "thợng đế" và vì vậy, luôn là đối tợng hớng tới
của tất cả các nhà kinh doanh. Cạnh tranh có vai trò quan trọng không chỉ đối
với bản thân từng nhà kinh doanh mà còn có ý nghĩa đối với cả nền kinh tế nói
chung. TS. Nguyễn Nh Phát cho rằng, cạnh tranh mang lại những lợi ích sau
[45, tr. 21]:
- Thứ nhất, đáp ứng thị hiếu và nhu cầu ngời tiêu dùng.
- Thứ hai, ngời tiêu dùng nhận đợc cái họ muốn với giá rẻ.
- Thứ ba, khuyến khích áp dụng công nghệ mới.
- Thứ t, tạo sức ép buộc phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
- Thứ năm, tạo sự đổi mới nói chung, thờng xuyên và liên tục vì vậy
mang lại tăng trởng kinh tế cao.
Cạnh tranh có nhiều hình thức và đợc phân ra ở nhiều cấp độ khác nhau
nh: cạnh tranh hoàn hảo; cạnh tranh không hoàn hảo; cạnh tranh mang tính
chất độc quyền; cạnh tranh lành mạnh; cạnh tranh không lành mạnh [46, tr. 20].
ở đâu có kinh tế thị trờng thì ở đó có cạnh tranh. Tuy nhiên, không phải ở mọi
nơi, mọi giai đoạn phát triển thì hình thức, mức độ cạnh tranh đều giống nhau.
Mặt khác, quan niệm về cạnh tranh còn phụ thuộc vào đặc điểm truyền thống
kinh doanh và pháp luật của mỗi quốc gia. Có nhiều định nghĩa khác nhau về
cạnh tranh, song nhìn chung cạnh tranh đợc định nghĩa nh sau: "Đó là sự ganh
đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trờng nhằm tranh giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình" [67, tr. 11].
Định nghĩa trên cho thấy cạnh tranh là thuộc tính tự nhiên của các nhà
kinh doanh. Vì vậy, nó phải đợc pháp luật bảo hộ với t cách là quyền của các
24
nhà kinh doanh và trở thành nội dung không thể thiếu của quyền tự do kinh
doanh. Cũng cần phải khẳng định rằng, quyền tự do cạnh tranh của các nhà
kinh doanh là cạnh tranh lành mạnh. Đó là "hình thức cạnh tranh đẹp, trong

sáng và giải thoát đợc khỏi các thói h tật xấu trong cuộc sống đời thờng. Nó
đối lập với cạnh tranh không lành mạnh" [46, tr. 24]. Trong mối quan hệ với
các quyền tự do kinh doanh khác, quyền tự do cạnh tranh có ý nghĩa quan
trọng. Nó chính là động lực thúc đẩy việc thực hiện các quyền sở hữu t liệu
sản xuất, tự do hợp đồng Ngày nay, hầu nh tất cả các quốc gia trên thế giới
đều thừa nhận cạnh tranh và đa ra những đảm bảo pháp lý nhằm thúc đẩy tự
do cạnh tranh lành mạnh. Để đảm bảo quyền tự do cạnh tranh lành mạnh cho
các chủ thể kinh doanh thì các yêu cầu sau đây phải đợc đảm bảo:
- Phải có hệ thống pháp luật về cạnh tranh hoàn thiện.
- Nhà nớc phải có cơ chế kiểm soát giá cả.
- Phải kiểm soát đợc độc quyền và hạn chế tối đa sự độc quyền, dù đó
là độc quyền nhà nớc.
- Phải có chế tài nghiêm ngặt đối với các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, cạnh tranh bất hợp pháp và các mặt tiêu cực khác của cạnh tranh.
- Phải đảm bảo sự bình đẳng cho các thành phần kinh tế.
e) Quyền tự do lựa chọn hình thức và phơng thức giải quyết tranh chấp
Chuyển sang nền kinh tế thị trờng, các quan hệ kinh tế ngày càng phát
triển. Sự sống động, đa dạng, phức tạp của các quan hệ kinh tế, sự thôi thúc
của lợi nhuận, của cạnh tranh làm cho các tranh chấp kinh tế càng trở nên
phức tạp hơn. Tranh chấp kinh tế có những đặc thù khác với những tranh chấp
trong dân sự. Những đặc thù đó là:
- Lĩnh vực phát sinh tranh chấp là lĩnh vực kinh doanh.
- Giá trị tranh chấp thờng lớn.
25

×