Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Bảo hộ sáng chế theo hiệp ước hợp tác sáng chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 160 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MAI HƯƠNG

BẢO HỘ SÁNG CHẾ THEO HIỆP ƯỚC HỢP TÁC
SÁNG CHẾ

Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 603860

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐOÀN NĂNG

Hà nội – 2010


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu ……………………………………………………..................... 1
Chƣơng 1 – TỔNG QUAN VỀ HIỆP ƢỚC HỢP TÁC SÁNG CHẾ

7

1.1.

Khái quát vấn đề bảo hộ sáng chế....................................... 7



1.2.

Quá trình hình thành, hồn thiện và mục đích của
Hiệp ƣớc hợp tác sáng chế .................................................

13

1.2.1 Q trình hình thành và hồn thiện của Hiệp ước hợp
tác sáng chế .................................................................

13

1.2.2. Mục đích ký kết Hiệp ước hợp tác sáng chế............... 16
1.3.

Nội dung của Hiệp ƣớc hợp tác sáng chế........................... 20
1.3.1. Cơ quan thực hiện các thủ tục nhận và xử lý đơn theo
Hiệp ước hợp tác sáng chế

21

1.3.2. Quy định chung về xử lý đơn quốc tế…………….….. 23
1.3.3. Trình tự, thủ tục nộp đơn sáng chế theo Hiệp ước
hợp tác sáng chế………………………….…….…....

25

Chƣơng 2 – ĐÁNH GIÁ SỰ TƢƠNG THÍCH GIỮA CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP

LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỚI QUY ĐỊNH
CỦA HIỆP ƢỚC HỢP TÁC SÁNG CHẾ
2.1.

39

Sự tƣơng thích giữa các quy định quy định của pháp
luật Việt Nam với các quy định của Hiệp ƣớc hợp tác
sáng chế………...................................................................

39

2.1.1. Quy định chung về bảo hộ sáng chế…………..........

39

2.1.2. Quy định về đơn quốc tế có nguồn gốc Việt
Nam......................…..................................................

41

2.1.3. Quy định về xử lý đơn quốc tế nộp vào Việt Nam......

42


2.2.

Các quy định pháp luật về bảo hộ sáng chế theo Hiệp ƣớc
hợp tác sáng chế tại Mỹ và Nhật Bản


46

2.2.1. Bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước hợp tác sáng chế tại
Mỹ......................…......................................................

46

2.2.2. Bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước hợp tác sáng chế tại
Nhật Bản...................…................................... .............

55

Chƣơng 3 – THỰC TIỄN BẢO HỘ SÁNG CHẾ THEO HIỆP ƢỚC
HỢP TÁC SÁNG CHẾ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ
TẠI VIỆT NAM – VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH CỦA VIỆT NAM VỀ BẢO
HỘ SÁNG CHẾ
3.1.

64

Thực tiễn và xu hƣớng bảo hộ sáng chế theo Hiệp ƣớc
hợp tác sáng chế tại một số quốc gia trên thế
giới...........…..................................................….....................

3.2.

64


Thực tiễn bảo hộ sáng chế theo Hiệp ƣớc hợp tác sáng
chế tại Việt Nam......................…......................................... .

71

3.3. Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện hệ thống bảo hộ
sáng chế theo Hiệp ƣớc hợp tác sáng chế nói riêng và
bảo

hộ

sáng

chế

nói

chung

tại

Việt

Nam............................................................................................

79

3.3.1. Nhận xét chung về nhu cầu phát triển việc bảo hộ
sáng chế nói riêng và bảo hộ sở hữu trí tuệ nói
chung…………............................................................


79

3.3.2. Xu hướng phát triển bảo hộ sáng chế nói riêng và
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật Việt
Nam…………..............................................................

84

3.3.3. Các đề xuất, kiến nghị......................…............... .........

85

Kết luận ...................….............. ...................................….......................... 93
Tài liệu tham khảo .…....................................…............... ........................

95

Phụ lục ...................…....................................…............... ........................

98


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
“Chiếc xe máy này mang nhãn hiệu gì, và sử dụng cơng nghệ như thế


nào?” Người tiêu dùng bình thường ở mọi nơi trên thế giới hiện nay đều có ý
thức tìm hiểu các thông tin tương tự như thế khi mua và sử dụng các mặt hàng,
sản phẩm trên thị trường. Do đó, để bảo vệ cũng như củng cố uy tín và thương
hiệu của mình, các nhà sản xuất phải quan tâm đến việc bảo hộ các sản phẩm sở
hữu trí tuệ như nhãn hiệu hay công nghệ sử dụng cho sản phẩm của mình. Nói
cách khác, người tiêu dùng cũng như các nhà sản xuất đã ngày càng ý thức được
vai trị của tài sản vơ hình nằm trong giá trị của mỗi sản phẩm, dịch vụ. Đó chính
là lý do vì sao sở hữu trí tuệ ngày càng chứng tỏ vai trị quan trọng của mình
trong cơng cuộc phát triển kinh tế và hội nhập toàn cầu.
Việt Nam, trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, đang hướng tới
việc hoàn thiện một hệ thống các quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ, một
bộ máy thực thi hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của hoạt động sở hữu trí tuệ tại
Việt Nam. Đây thực sự là mong muốn không chỉ của các nhà làm luật mà của cả
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, của người tiêu dùng và toàn xã hội.
Trong hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ, sáng chế là một đối tượng lâu đời
nhất, hay nói cách khác đó chính là đối tượng sở hữu công nghiệp đầu tiên trong
số các đối tượng sở hữu cơng nghiệp hiện nay. Trải qua q trình phát triển, sáng
chế vẫn là đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp được quan tâm và đầu tư nhiều
nhất. Song song với đó là việc hình thành và phát triển một số các điều ước quốc
tế về bảo hộ sáng chế, trong đó nổi bật là Hiệp ước hợp tác sáng chế (Patent
Cooperation Treaty), một điều ước quốc tế mà rất nhiều quốc gia trên thế giới đã
tham gia để nhằm bảo hộ tốt nhất cho quyền lợi của các nhà sáng chế của quốc
gia mình.

1


Thực tiễn cho thấy ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam có nhu
cầu tìm hiểu về Hiệp ước này. Trong thực tế cơng tác của mình, người viết nhận
thấy các chủ thể Việt Nam còn chưa thực sự biết cách khai thác các cơ chế tìm

kiếm sự bảo hộ cho quyền sở hữu cơng nghiệp của mình một cách hiệu quả,
cũng như chưa có một tài liệu nào phân tích cụ thể và chi tiết về Hiệp ước hợp
tác sáng chế, một trong những điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà hiện nay có
nhiều quốc gia thành viên nhất. Chính vì lý do đó, người viết đã chọn đề tài
nghiên cứu cho luận văn của mình là “Bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước hợp tác
sáng chế”.
1.

Tình hình nghiên cứu

2.1. Ở nước ngồi
Trên thế giới có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về sở hữu trí tuệ nói
chung và về sáng chế nói riêng. Các trang web của các cơ quan sáng chế quốc
gia và tổ chức phi chính phủ về sở hữu trí tuệ cũng cung cấp nhiều bài báo và
các cơng trình nghiên cứu về sở hữu trí tuệ.
Có thể kể đến một số cuốn sách nghiên cứu sâu về Sở hữu trí tuệ và về
sáng chế như: cuốn Intellectual Property: A Power Tool for Economic Growth,
năm 2003, do tác giả Kamil Idris viết; cuốn The cross-referenced Patent
Cooperation Treaty, năm 2004, của tác giả Cees Mulder; cuốn TRIPs, PCT &
Global Patent Procurement, của tác giả Markus Nolf viết năm 2001. Đây thực
sự là những cuốn sách đáng quý cho tôi tham khảo để viết Luận văn này.
2.2. Ở Việt Nam

Tại Việt Nam, đã có khá nhiều tài liệu hướng dẫn cũng như bình luận,
phân tích về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng
chế nói riêng. Có những cuốn sách nghiên cứu sâu về cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật như cuốn “Đổi mới và hoàn
thiện pháp luật về Sở hữu trí tuệ” của TS. LS. Lê Xuân Thảo.

2



2.

Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tác giả khi viết luận văn thạc sỹ về „Bảo hộ sáng chế theo

Hiệp ước hợp tác sáng chế” là nhằm làm rõ những nội dung cơ bản của Hiệp ước
hợp tác sáng chế, đồng thời làm sáng tỏ việc áp dụng tại Việt Nam và một số
quốc gia có lịch sử phát triển lâu dài về luật sở hữu trí tuệ, cũng như các cơ chế
thúc đẩy việc sử dụng Hiệp ước này trong việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với sáng chế tại các quốc gia đó. Từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy
định về vấn đề nộp và xử lý đơn theo Hiệp ước này tại Việt Nam theo hướng phù
hợp nhất với tình hình phát triển hiện tại của đất nước. Ngoài ra Luận văn cũng
đưa ra những góp ý về các cơ chế khuyến khích sáng tạo, cơ chế thực thi quyền
và cơ chế quản lý chung về sở hữu trí tuệ, với mục đích để các cơ chế này được
bổ sung và hồn thiện hơn, đóng góp vào mục tiêu phát triển số lượng đơn sáng
chế nộp và xử lý theo các quy định của Hiệp ước hợp tác sáng chế.

3.

Phạm vi đối tƣợng và nội dung nghiên cứu
4.1. Phạm vi đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến Hiệp

ước hợp tác sáng chế, mà cụ thể là các nội dung có liên quan các vấn đề về nộp
đơn và xử lý đơn tại giai đoạn quốc tế và giai đoạn quốc gia theo quy định của
Hiệp ước.
Luận văn cũng nghiên cứu các quy định tương ứng về vấn đề nộp đơn và
xử lý đơn quốc tế quy định trong các văn bản luật và dưới luật của Việt Nam về

Sở hữu trí tuệ.
Luận văn cũng phân tích các quy định về bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước
hợp tác sáng chế tại hai quốc gia là Mỹ và Nhật Bản, và rút ra các bài học cho
việc hoàn thiện các quy định tương ứng trong pháp luật Việt Nam.
4.2. Nội dung nghiên cứu :

3


Trong khuôn khổ của một luận văn cao học, người viết đi vào phân tích
các nội dung chính của Hiệp ước hợp tác sáng chế, trong đó chú trọng nghiên
cứu các nội dung:
-

Q trình hình thành và hồn thiện của Hiệp ước;

-

Mục đích của Hiệp ước;

-

Các nội dung về các cơ quan thực hiện nhiệm vụ nhận và xử lý đơn
sáng chế quốc tế, các yêu cầu đối với đơn quốc tế, trình tự nộp và xử
lý đơn quốc tế theo quy định của Hiệp ước;

-

Các nội dung tương ứng trong pháp luật Việt Nam và hai quốc gia
khác là Mỹ và Nhật;


-

Thực tế nộp đơn và sử dụng Hiệp ước hợp tác sáng chế của hai quốc
gia Mỹ và Nhật Bản cũng như tại Việt Nam.

Trên cơ sở phân tích thực tế các văn bản pháp luật liên quan cũng như
thực tế thực thi pháp luật, khuyến khích sáng chế, đưa ra một số kiến nghị về quy
định pháp luật cũng như về phương diện thực thi đối với vấn đề bảo hộ sáng chế
theo Hiệp ước hợp tác sáng chế.

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân

tích tài liệu và so sánh. Trên cơ sở tổng hợp, phân tích tài liệu và so sánh với luật
sáng chế của các nước trong mối tương quan với Hiệp ước hợp tác sáng chế, tìm
ra những điểm thích hợp, phù hợp với hồn cảnh Việt Nam, phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế của Việt Nam để xây dựng cơ sở lý luận cho các kiến nghị
về hoàn thiện pháp luật liên quan đến sáng chế cũng như các biên pháp hỗ trợ để
phát triển vị thế của pháp luật về sáng chế nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung.
Luận văn cũng sử dụng phương pháp điều tra trực tiếp tại một số doanh
nghiệp. Trên cơ sở thực tiễn nộp đơn và xử lý đơn về sáng chế, cũng như thực
thi quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế tại Việt Nam trong thời gian gần

4


đây, cũng như thực tiễn của tình hình nộp đơn sáng chế theo Hiệp ước hợp tác

sáng chế trên phạm vi quốc tế, xác định cơ sở thực tiễn để hoàn thiện các quy
định liên quan đến bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước và bảo hộ sáng chế nói chung
tại Việt Nam.
6.

Những đóng góp của luận văn
Luận văn đã đi sâu phân tích chi tiết các quy định về thủ tục nộp và xử lý

đơn được quy định trong Hiệp ước hợp tác sáng chế, đưa ra được một quy trình
đầy đủ và chi tiết cho việc nộp đơn sáng chế quốc tế dựa trên những quy định
Hiệp ước hợp tác sáng chế. Trên thực tế, các thông tin này rất bổ ích và cần thiết
cho những người có nhu cầu sử dụng cơ chế nộp đơn theo Hiệp ước hợp tác sáng
chế, trong đó bao gồm các tác giả sáng chế, các chủ sở hữu sáng chế, các doanh
nghiệp, các luật sư cũng như các nhà quản lý về sở hữu trí tuệ.
Ngồi ra, luận văn cũng trình bày và phân tích các quy định tương ứng
trong pháp luật Việt Nam, sau đó so sánh với các quy định này trong luật sở hữu
trí tuệ của Mỹ và Nhật Bản, từ đó rút ra được những kinh nghiệm cho vấn đề
hoàn thiện các quy định này trong pháp luật Việt Nam sao cho phù hợp với tình
hình hiện tại của đất nước.
7.

Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu gồm 3 Chương như sau:
Chương I: Tổng quan về Hiệp ước hợp tác sáng chế
Chương này nêu lên một số khái niệm liên quan đến việc bảo hộ sáng chế,

sau đó đi vào nội dung chính là lịch sử hình thành, mục đích, ngun tắc và các
vấn đề được quy định trong Hiệp ước hợp tác sáng chế
Chương II: Đánh giá sự tương thích giữa các quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật một số quốc gia với quy định của Hiệp ước hợp tác sáng chế

Chương này đi sâu tìm hiểu các quy định pháp luật Việt Nam về thủ tục
xử lý đơn quốc tế về sáng chế, đánh giá sự tương thích đó với các quy định của

5


Hiệp ước sáng chế, đồng thời cũng tìm hiểu và đánh giá các quy định này trong
pháp luật của hai quốc gia có hệ thống bảo hộ sáng chế phát triển nhất hiện nay
là Mỹ và Nhật Bản.
Chương III. Thực tiễn bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước hợp tác sáng chế ở
một số quốc gia và ở Việt Nam - vấn đề hoàn thiện các quy định hiện hành trong
pháp luật Việt Nam.
Ở chương này, thông qua việc nêu lên thực trạng vấn đề bảo hộ sáng chế
nói chung và bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước hợp tác sáng chế nói riêng trong
một hệ thống chung khơng thể tách rời là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt
Nam cùng với những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế – xã hội, luận văn nêu lên
xu hướng phát triển vấn đề bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ nói chung trong đó có
bảo hộ sáng chế. Qua đó, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về bảo hộ sáng chế nói riêng cũng như về Sở hữu trí tuệ nói
chung.
Vì thời gian có hạn, cũng như khả năng cịn hạn chế của một học viên,
luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót, người viết mong nhận
được những ý kiến đóng góp của những người có chun mơn, thầy cô và các
bạn.
Người viết xin chân thành cảm ơn Phó Giáo sư, TS. Đồn Năng, Vụ
trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Khoa học và Cơng nghệ đã tận tình hướng dẫn và đưa
ra những ý kiến sâu sắc trong quá trình làm luận văn, cũng như cám ơn Bộ môn
Luật quốc tế, Khoa Luật - Trường Đại học quốc gia Hà Nội, Cục Sở hữu trí tuệ
Việt Nam, cơng ty INVENCO, các thầy cô và các bạn đã tạo điều kiện giúp đỡ
hoàn thành luận văn này.


6


Chƣơng I:
TỔNG QUAN VỀ HIỆP ƢỚC HỢP TÁC SÁNG CHẾ

1.1

Khái quát về vấn đề bảo hộ sáng chế
Qua các tài liệu của tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và qua các

nghiên cứa về sự hình thành và phát triển quyền Sở hữu trí tuệ của các nước trên
thế giới, có thể thấy rằng ngay từ thời trung cổ, cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, hình thức “đặc ân” do vua chúa ban cho các nhà sáng chế để
khuyến khích việc tạo cơng nghệ mới. Trong nhiều trường hợp, “đặc ân” [1] mà
nhà sáng chế nhận được là độc quyền khai thác chính sáng chế mình tạo ra trong
thời hạn nhất định. Đó chính là tiền thân của hệ thống bảo hộ sáng chế. Hình
thức “đặc ân” cho nhà sáng chế được áp dụng khá phổ biến ở các nước Châu Âu
từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 16. Năm 1474, tại Italia có một đạo luật trong đó quy
định người nào tạo ra được một thiết bị mới thì được độc quyền chế tạo thiết bị
đó trong mười năm và nghiêm cấm bất cứ ai bắt chước chế tạo nếu không được
phép của nhà sáng chế.
Tới cuối thế kỷ 16, hình thức ban “đặc ân” kiểu phong kiến đã tỏ ra không
phù hợp với sự phát triển của quan hệ sản xuất cũng như lực lượng sản xuất thời
đó. Nó đã trở thành phương tiện trục lợi của nhà cầm quyền và là nhân tố cản trở
tự do cạnh tranh thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa.
Năm 1623, Nghị viện Anh thông qua đạo luật về độc quyền, theo đó mọi
hình thức độc quyền đều bị xoá bỏ chỉ trừ độc quyền sáng chế, việc cấp bằng độc
quyền sáng chế cho bất cứ ai tạo ra được một sáng chế là thực hiện quyền cơng

dân chứ khơng phải là bổng lộc của hồng gia. Đạo luật này được coi là văn bản
pháp luật đầu tiên, khởi đầu cho hệ thống bằng sáng chế của Anh và các nước
Âu Mỹ khác. Tiếp theo nước Anh là các nước: Mỹ (1790), Pháp (1791), Bỉ
[1]

TS. Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về Sở hữu trí tuệ - NXB Tư pháp, Hà Nội.

7


(1854), Italia(1859), Nga (1870), Đức (1877) lần lượt công bố luật sáng chế của
mình. Tính đến cuối thế kỷ 19 đã có 45 nước ban hành luật sáng chế, và ngày
nay con số đó đã là gần 180 nước. Cùng với việc hình thành và khơng ngừng
hồn thiện hệ thống pháp luật, các cơ quan sở hữu công nghiệp quốc gia đã được
thành lập để thay mặt nhà nước nhận đơn, xét và cấp bằng độc quyền sáng chế.
Hệ thống toà án trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp, vi phạm
nhằm bảo vệ quyền của chủ bằng sáng chế.
Ngồi hình thức bằng độc quyền sáng chế, ở một số nước thuộc hệ thống
xã hội chủ nghĩa trước đây và một số nước đang phát triển còn áp dụng hình thức
cấp chứng nhận tác giả sáng chế. Trong trường hợp này, sáng chế được coi là
thuộc sở hữu của nhà nước. Khi sáng chế được cấp giấy chứng nhận tác giả và
cơng bố thì bất cứ cơ quan nào của nhà nước đều có quyền sử dụng và có nghĩa
vụ trả thưởng cho tác giả theo quy định của pháp luật.
Hình thức này được coi là một hình thức bảo hộ quyền sở hữu cơng
nghiệp và được khuyến khích áp dụng. Nó phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hố
tập trung và đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển kinh tế và khoa
học kỹ thuật của các nước đó. Nhưng từ khi có sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế
hoạch hố tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường thì việc
bảo hộ kiểu này khơng cịn phù hợp nữa. Kiểu bảo hộ này sẽ thủ tiêu động lực
thúc đẩy các nhà sáng chế sáng tạo và tạo ra những cơng nghệ mới. Chỉ có hình

thức bảo hộ bằng bằng độc quyền mới khuyến khích được họ phát huy tài năng,
trí tuệ và được trả cơng một cách xứng đáng. Trong cơ chế thị trường, luật lệ này
phải được thay thế hoàn toàn bằng hệ thống độc quyền sáng chế. Song song với
việc bảo hộ sáng chế, ở nhiều nước còn áp dụng việc bảo hộ cho các sáng chế
nhỏ hay còn gọi là giải pháp hữu ích và bảo hộ kiểu dáng công nghiệp theo
nguyên tắc như bảo hộ sáng chế.
Có thể khái quát nội dung của việc bảo hộ sáng chế như sau: Bất cứ ai tạo
ra được một sáng chế đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định đều có thể

8


nộp đơn yêu cầu nhà nước bảo hộ, trong đơn phải bộc lộ hoàn toàn bản chất của
sáng chế. Khi thấy sáng chế đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, nhà nước sẽ tuyên
bố bảo hộ độc quyền sáng chế đó thơng quan việc cấp văn bằng bảo hộ độc
quyền (patent) cho người nộp đơn; văn bằng bảo hộ chỉ có hiệu lực trong vịng
một số năm nhất định. Trong thời hạn hiệu lực, sáng chế thuộc quyền sở hữu của
người được cấp văn bằng bảo hộ độc quyền. Người sở hữu bằng độc quyền sáng
chế được độc quyền khai thác, sử dụng sáng chế và cấm bất kỳ ai khác sử dụng,
khai thác sáng chế đó nếu khơng được phép của chủ sở hữu bằng sáng chế. Việc
một người khác khai thác, sử dụng sáng chế mà không được phép của chủ sở
hữu bằng sáng chế bị coi là hành vi xâm phạm độc quyền sáng chế và bị pháp
luật xử lý. Sau khi thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ độc quyền chấm dứt,
sáng chế sẽ thuộc sở hữu chung của xã hội, bất cứ ai cũng có quyền sử dụng
sáng chế đó.
Việc bảo hộ sáng chế như trên được thiết lập trên cơ sở một số nguyên tắc
nhất định, cụ thể là nguyên tắc về độc quyền công nghệ, nguyên tắc công khai
công nghệ và nguyên tắc đánh đổi[2].
Thứ nhất là nguyên tắc độc quyền công nghệ. Nội dung của nguyên tắc
này là người nào tạo ra một công nghệ hoặc một sản phẩm mới có khả năng áp

dụng cơng nghiệp thì người đó có quyền chiếm giữ và độc quyền khai thác (áp
dụng, sản xuất, lưu thơng) cơng nghệ, sản phẩm đó. Những người không tạo ra
hoặc tạo ra sau khi công nghệ, sản phẩm đã thuộc quyền của người khác đều
không được khai thác nếu không được người chiếm giữ độc quyền cho phép.
Nguyên tắc thứ hai là nguyên tắc công khai công nghệ. Theo nguyên tắc
này, người chiếm giữ độc quyền công nghệ có nghĩa vụ phải cơng bố nội dung
cơng nghệ cho xã hội biết và phạm vi độc quyền chỉ giới hạn tương ứng với nội
dung được công bố. Nguyên tắc này đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy
sự phát triển công nghệ thông qua việc bảo hộ sáng chế. Việc công bố nội dung
[2]

TS. Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về Sở hữu trí tuệ - NXB Tư pháp, Hà Nội.

9


cơng nghệ nói trên, một mặt tun bố việc cơng nghệ đó đã thuộc độc quyền của
một người, mặt khác cịn là việc thơng báo lời giải quyết cho một vấn đề công
nghệ tồn tại. Cứ như vậy, một độc quyền công nghệ được thiết lập, tri thức công
nghệ của xã hội được đổi mới một phần, đồng thời xã hội khơng phải mất cơng
sức, thời gian, chi phí cho việc tìm kiếm lại những cơng nghệ đã được tìm ra,
một tình trạng phổ biến rất dễ gặp trong trường hợp cơng nghệ mới bị giữ bí mật.
Ngun tắc thứ ba là nguyên tắc đánh đổi. Nguyên tắc này còn được gọi là
nguyên tắc khế ước, theo đó độc quyền công nghệ không phải là một loại quyền
tự nhiên, nghĩa là không tự động phát sinh, không tồn tại vĩnh viễn. Ngược lại,
độc quyền công nghệ chỉ phát sinh, tồn tại với những điều kiện nhất định. Những
điều kiện đó do pháp luật đặt ra sao cho với những điều kiện như vậy, việc
chiếm hữu độc quyền công nghệ không những khơng đi ngược lại lợi ích chung
của xã hội mà cịn khuyến khích cạnh tranh cơng nghệ, cổ vũ cho việc cải tiến
cơng nghệ, tạo ra sáng chế. Nói cách khác, đó là các điều kiện đánh đổi việc cho

và nhận giữa nhà nước - đại diện cho xã hội và người chiếm giữ độc quyền.
Các điều kiện trên đây thể hiện nội dung chính là để được độc quyền đối
với một cơng nghệ nhất định, người có ý định chiếm giữ phải chứng minh được
rằng cơng nghệ đó đáp ứng một số tiêu chuẩn (thường là tính mới, tính sáng tạo
và khả năng áp dụng cơng nghiệp) và cơng bố nội dung cơng nghệ đó cho mọi
người biết. Đổi lại, nhà nước thừa nhận độc quyền của người chiếm giữ công
nghệ trong một thời hạn nhất định (thường là từ 15 đến 20 năm). Trong thời gian
đó, pháp luật bảo hộ độc quyền nói trên trước bất kỳ một sự xâm phạm nào của
một bên thứ ba. Sau thời hạn trên, độc quyền đó tự động mất đi và cơng nghệ
tương ứng trở thành tài sản của tồn xã hội. Việc thừa nhận độc quyền được thực
hiện bằng cách nhà nước cấp một văn bằng độc quyền cho chủ độc quyền, trong
đó có thể hiện cơng nghệ, thời hạn hiệu lực của văn bằng. Đồng thời, nội dung
công nghệ cũng được công bố rộng rãi. Như vậy văn bằng độc quyền sáng chế
chính là một chứng thư giao kèo giữa nhà nước và người sở hữu nó. Theo

10


nguyên tắc này, độc quyền chỉ phát sinh trên cơ sở văn bằng độc quyền, người
tạo ra công nghệ nhưng không xin cấp văn bằng độc quyền, tức là không muốn
tham gia vào khế ước, thì khơng thể độc quyền cơng nghệ đó.
Sáng chế thường được định nghĩa như một giải pháp nhằm giải quyết một
vấn đề cụ thể trong một lĩnh vực công nghệ. Người nộp đơn yêu cầu bảo hộ sáng
chế thường là người tạo ra sáng chế hoặc là người thừa kế theo pháp luật. Để
được cấp bằng độc quyền sáng chế, người nộp đơn phải nộp đơn yêu cầu bảo hộ
độc quyền sáng chế cho một một cơ quan sở hữu công nghiệp theo quy định của
pháp luật.
Đối với một sáng chế được bảo hộ bằng một văn bằng độc quyền, sáng
chế đó phải đưa ra được giải pháp mới cho vấn đề kỹ thuật, có trình độ sáng tạo
và có khả năng áp dụng cơng nghiệp. Một sáng chế được coi là mới nếu chưa

được người khác biết đến và không thể được biết đến trước ngày có đơn xin bảo
hộ sáng chế đó. Nghĩa là, sáng chế khơng được biết đến ở trình độ kỹ thuật trước
đó. Trình độ kỹ thuật trước đó bao gồm tất cả những gì đã được đưa ra cơng
chúng, ở bất cứ nơi nào trên thế giới bằng con đường cơng bố dưới dạng hữu
hình hoặc truyền miệng, hoặc sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào trước khi nộp
đơn xin bảo hộ sáng chế.
Một sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo khi nó khơng là hiển nhiên
đối với chuyên gia trình độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật liên quan. Nói
cách khác, sáng chế phải có được sự tiến bộ sáng tạo và khơng hiển nhiên so với
trình độ tri thức hiện tại. Địi hỏi sáng chế phải có khả năng áp dụng cơng nghiệp
sẽ loại trừ khỏi phạm vi bảo hộ các sáng chế thuần tuý lý thuyết mà không thể áp
dụng được trong thực tế. Khái niệm có khả năng áp dụng công nghiệp hàm ý
sáng chế phải được áp dụng để sản xuất trên quy mô công nghiệp.
Đơn xin cấp bằng độc quyền được cơ quan đăng ký tương ứng xét nghiệm
nhằm bảo đảm rằng đơn thoả mãn các yêu cầu đăng ký về mặt hình thức. Sau đó
đơn có thể được xét nghiệm về mặt nội dung. Ví dụ, Cơ quan đăng ký có thể tra

11


cứu các tư liệu sáng chế của các nước khác, các tạp chí kỹ thuật và các ấn phẩm
khác để đảm bảo rằng sáng chế của người nộp đơn trước đây chưa từng được
biết tới. Một số nước trên thế giới giới hạn trình độ kỹ thuật đã biết để đánh giá ở
việc bộc lộ trong phạm vi quốc gia, hoặc sử dụng trước và bộc lộ trước bằng
hình thức truyền miệng.
Đơn đăng ký thường được công bố trước khi văn bằng được cấp. Người
thứ ba có quyền phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ. Sau khi xét nghiệm đơn về
mặt hình thức và nội dung và sau khi xem xét các phản đối, cơ quan đăng ký sẽ
quyết định có cấp văn bằng bảo hộ hay khơng. Việc cấp văn bằng bảo hộ sẽ
được công bố trên công báo.

Ở một số nước trên thế giới, không phải tất cả các sáng chế đều được bảo
hộ. Vì những nguyên nhân về mặt lợi ích quốc gia mà nhiều nước từ chối bảo hộ
những sáng chế trong nông nghiệp, thực phẩm, y học, dược phẩm, công nghệ hạt
nhân và công nghệ vi tính. Cũng có một số nước lấy lý do rằng việc bảo hộ chỉ
áp dụng cho các sáng chế mang bản chất cơng nghệ, do đó sẽ khơng bảo hộ các
tiến bộ liên quan đến phương pháp điều trị bệnh cũng như các giống cây, giống
con.
Trên đây là những trình bày sơ lược về lịch sử cũng như quá trình hình
thành của việc bảo hộ sáng chế. Với những phân tích trên đây về vấn đề bảo hộ
sáng chế, doanh nghiệp có thể dễ dàng nhận thấy những lợi ích của việc độc
quyền sáng chế. Thứ nhất là thơng qua việc độc quyền này, doanh nghiệp có thể
ngăn chặn người khác sử dung sáng chế được bảo hộ vì mục đích thương mại, do
đó giảm sự cạnh tranh và mang lại lợi thế lớn cho chủ sở hữu sáng chế trên thị
trường. Nếu chủ sở hữu sáng chế khơng tự mình khai thác sáng chế, họ có thể
bán hoặc chuyển giao quyền thương mại hóa sáng chế đó cho doanh nghiệp
khác. Việc này cũng sẽ đem lại một nguồn thu không nhỏ, đặc biệt khi việc
chuyển giao này được thực hiện trên phạm vi quốc tế. Việc sở hữu các bằng độc
quyền sáng chế cũng sẽ đem lại một hình ảnh tích cực cho doanh nghiệp. Các

12


đối tác kinh doanh, các nhà đầu tư và cổ đơng có thể nhận thấy rằng các danh
mục sáng chế là minh chứng cho trình độ chun mơn, sự chun mơn hóa và
năng lực cơng nghệ cao của doanh nghiệp. Điều này có thể hữu ích trong việc
tăng các nguồn vốn đầu tư, tìm kiếm các đối tác kinh doanh và tăng giá trị trên
thị trường của doanh nghiệp. Đồng thời, việc sở hữu các bằng độc quyền sáng
chế cũng sẽ giúp doanh nghiệp tăng cường sức mạnh trong đàm phán – một hoạt
động quan trọng trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Nếu
doanh nghiệp đang có nhu cầu được sử dụng một sáng chế đã được độc quyền

của một doanh nghiệp khác thông qua một hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng,
thì danh mục sáng chế của doanh nghiệp sẽ tăng cường sức mạnh đàm phán cho
doanh nghiệp đó.
Với những lợi ích như trên, khơng thể phủ nhận rằng trong bối cảnh tồn
cầu hóa kinh tế, việc các doanh nghiệp có nhu cầu bảo hộ một sáng chế tại nhiều
quốc gia khác nhau là một mong muốn dễ hiểu. Khi bắt đầu hoạt động kinh
doanh tại một khu vực hay một quốc gia mới, việc sở hữu một số bằng độc
quyền sáng chế tại quốc gia đó sẽ đem lại lợi thế rõ rệt cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để được bảo hộ ở nước ngoài, thơng thường phải được nhà
nước của nước đó cấp văn bằng bảo hộ. Điều này tạo ra sự khó khăn, phức tạp
và tốn kém cho chủ sở hữu sáng chế. Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu
sáng chế, các quốc gia tìm cách xây dụng cơ chế một sáng chế được nộp đơn yêu
cầu bảo hộ ở một nơi nhưng được xem xét cấp bằng ở nhiều nơi. Và nhu cầu đó
dẫn đến việc ra đời của một điều ước quốc tế liên quan đến việc bảo hộ sáng chế
- Hiệp ước hợp tác sáng chế.

1.2

Quá trình hình thành, hồn thiện và mục đích của Hiệp ƣớc tác sáng

chế
1.2.1. Q trình hình thành và hồn thiện của Hiệp ước hợp tác sáng chế

13


Hiệp ước hợp tác sáng chế là một hiệp ước quốc tế về bảo hộ sáng chế,
giải pháp hữu ích. Hiệp ước hợp tác sáng chế đã bắt đầu manh nha từ năm 1966
khi Ban Điều hành Công ước Paris về Bảo hộ Quyền Sở hữu công nghiệp kêu
gọi nghiên cứu tìm cách giảm bớt những gánh nặng có liên quan tới việc lập hồ

sơ và cấp bằng cho cùng một sáng chế ở các quốc gia khác nhau đối với những
người đăng ký và cơ quan cấp bằng sáng chế. Kết quả là Hiệp ước hợp tác sáng
chế của Tổ chưc Sở hữu trí tuệ thế giới đã được ký kết tại Washington, D.C. năm
1970 và có hiệu lực năm 1978. Hiệp ước đã được sửa đổi năm 1979, 1984 và
2001 với những nội dung sửa đổi cụ thể như sau:
Tháng 9 năm 1979, tại kỳ họp thứ 2, các cơ quan điều hành của Tổ chức
Sở hữu trí tuệ thế giới trong đó có Đại hội đồng của Hiệp ước đã quyết định sửa
đổi một số chương trình hoạt động và ngân sách của các cơ quan thuộc Tổ chức
sở hữu trí tuệ thế giới thành kỳ hạn là 2 năm hoặc 1 năm thay cho thời hạn 3 năm
như trước đây. Theo đó, một số điều của Hiệp ước hợp tác sáng chế là điểm a
khoản 11 Điều 53 và điểm a khoản 7 Điều 54 đã được sửa đổi lại.
Trong kỳ họp thứ 11 vào tháng 2 năm 1984, việc nộp đơn quốc tế vào giai
đoạn quốc gia quy định tại khoản 2 Điều 22 và khoản 1 Điều 39 của Hiệp ước
hợp tác sáng chế được sửa đổi. Theo sửa đổi tại điều khoản 2 Điều 22, thời hạn
nộp đơn vào giai đoạn quốc gia quy định tại khoản 1 Điều 22 (khi đơn không có
u cầu xét nghiệm sơ bộ quốc tế) sẽ ln luôn được áp dụng bất kể việc tra cứu
quốc tế đã được tiến hành hay chưa. Còn tại khoản 1 Điều 39, thời hạn nộp đơn
vào giai đoạn quốc gia (đối với đơn đã có yêu cầu xét nghiệm sơ bộ quốc tế)
được sửa đổi từ 25 tháng lên 30 tháng kể từ ngày ưu tiên, cho phép thời gian tiến
hành xét nghiệm sơ bộ quốc tế được lâu hơn. Việc sửa đổi cho phép cả người
nộp đơn và các cơ quan xét nghiệm sơ bộ quốc tế có điều kiện đạt được kết quả
tốt hơn khi tiến hành xét nghiệm sơ bộ quốc tế.

14


Đến tháng 10 năm 2001, quy định về thời hạn nộp đơn vào giai đoạn quốc
gia lại được thay đổi. Cụ thể, thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 22 đã được sửa
đổi, cho phép các đơn không yêu cầu xét nghiệm sơ bộ quốc tế cũng được phép
nộp đơn vào giai đoạn quốc gia trong thời hạn 30 tháng kể từ ngày ưu tiên thay

cho thời hạn 20 tháng như trước đây.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng các sửa đổi của Hiệp ước hợp tác sáng chế
được tiến hành chủ yếu liên quan đến vấn đề thời hạn nộp đơn vào giai đoạn
quốc gia, với xu hướng là thời hạn này được quy định ngày càng có lợi cho
người nộp đơn.
Từ khi ra đời đến nay, số lượng thành thành viên của Hiệp ước hợp tác
sáng chế khơng ngừng tăng lên. Khi bắt đầy có hiệu lực vào năm 1978, Hiệp ước
này chỉ có 18 thành viên. Cho đến thời điểm hiện tại, Hiệp ước hợp tác sáng chế
đã có 142 thành viên. Thành viên mới nhất là Thái Lan, quốc gia gia nhập Hiệp
ước này vào tháng 12 năm 2009.
Nhờ đơn giản hóa q trình lập hồ sơ đăng ký bằng sáng chế nên Hiệp
ước hợp tác sáng chế đã giúp những nhà sáng chế dễ dàng hơn trong việc tìm
kiếm sự bảo hộ đối với sáng chế của họ trên toàn thế giới. Hiệp ước này cũng
khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và các cá nhân tìm cách bảo hộ sáng chế của
họ ở nước ngồi.
Theo Hiệp ước này, các cơng dân của một quốc gia tham gia ký kết chỉ
cần lập một hồ sơ đăng ký sáng chế duy nhất - thường được gọi là đơn quốc tế –
và gửi tới Cơ quan sáng chế của các nước thành viên của Hiệp ước hoặc tới Văn
phòng quốc tế với tư cách là Cơ quan nhận đơn. Sau đó, theo chỉ định trong tờ
khai, đơn xin cấp bằng sáng chế của họ sẽ tự động được gửi tới tất cả các quốc
gia tham gia Hiệp ước hợp tác sáng chế.
Hiệp ước hợp tác sáng chế cho phép những người nộp đơn có thời gian
dài hơn – 30 tháng – để cam kết trang trải mọi chi phí dịch thuật, lệ phí nộp đơn
ở tất cả các quốc gia nơi họ muốn được bảo hộ sáng chế. Nhờ cho phép người

15


nộp đơn có nhiều thời gian và thơng tin hơn để đánh giá thế mạnh trong bằng
độc quyền sáng chế tương lai của họ và quyết định kế hoạch tiếp thị của mình,

thời hạn 30 tháng giúp những người nộp đơn lựa chọn tốt hơn những quốc gia
nơi họ muốn nộp đơn. Đây là một bước tiến quan trọng so với thời hạn ưu tiên
12 tháng đã được quy định trong Công ước Paris đối với những người nộp đơn
xin cấp bằng sáng chế.
Trong khuôn khổ Hiệp ước, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới đã quy định
việc “áp dụng tính quốc tế” cùng với hướng dẫn cơ bản về việc công nhận sáng
chế. Cụ thể là đơn sẽ được tiến hành tra cứu và xét nghiệm sơ bộ thông qua một
“cơ quan quốc tế” - một trong 13 cơ quan sáng chế hiện đáp ứng tiêu chuẩn tối
thiểu về nhân lực và các yêu cầu xử lý hồ sơ khác được Tổ chức Sở hữu trí tuệ
thế giới ủy quyền. Kết quả tra cứu như vậy giúp người nộp đơn quyết định xem
có nên tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp bằng sáng chế tới các cơ quan cấp bằng sáng
chế ở trong nước hay trong khu vực hay không. Các cơ quan sáng chế quốc gia
cũng được hưởng lợi từ quá trình tra cứu quốc tế này khi quyết định có nên cấp
bằng sáng chế quốc gia hay khu vực dựa theo đơn quốc tế nộp theo Hiệp ước
hợp tác sáng chế hay không. Việc tiến hành tra cứu quốc tế và xét nghiệm sơ bộ
quốc tế đã xác định những văn bản liên quan cần thiết giúp các cơ quan sáng chế
quốc gia đảm bảo nguồn lực trong quá trình xét nghiệm và nâng cao chất lượng
xét nghiệm đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế của họ.
1.2.2. Mục đích ký kết Hiệp ước hợp tác sáng chế.
Mục đích cơ bản của việc ký kết Hiệp ước hợp tác sáng chế bao gồm:
-

Hoàn thiện việc bảo hộ pháp lý sáng chế;

-

Đơn giản hoá và đạt được bảo hộ pháp lý sáng chế một cách tiết kiệm hơn
khi một người nộp đơn có nhu cầu bảo hộ ở nhiều nước;

-


Làm thuận tiện và đẩy nhanh sự tiếp cận của công chúng với thông tin kỹ
thuật chứa trong tư liệu mô tả các sáng chế mới;

16


-

Khuyến khích và đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của các nước đang phát
triển nhờ các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống pháp lý của
các nước này được thiết lập để bảo hộ sáng chế, dù đấy là hệ thống quốc
gia hay khu vực, bằng cách cung cấp thông tin để tiếp cận về các giải
pháp kỹ thuật hay đáp ứng các nhu cầu đặc biệt và làm dễ dàng việc tiếp
cận với một số lượng ngày càng tăng các công nghệ hiện đại.
Như vậy, mục đích chủ yếu của Hiệp ước hợp tác sáng chế là đơn giản

hoá thủ tục nộp đơn khi người nộp đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế của mình ở
nhiều nước trên thế giới và làm cho việc nộp đơn đó trở nên có lợi cả cho họ và
các cơ quan sáng chế quốc gia nơi mà sáng chế đó được u cầu bảo hộ.
Những mục đích trên là lý do chính dẫn đến việc hình thành và ký kết
Hiệp ước hợp tác sáng chế. Xét về nguồn gốc sâu xa, mục đích này nảy sinh vì
những lý do chính sau đây:
Thứ nhất, như chúng ta đã biết để được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
về sáng chế tại một nước nhất định, người đã tạo ra sáng chế phải làm đơn và
tiến hành các thủ tục cần thiết liên quan đến đơn này theo quy định của từng
nước đó hoặc nếu muốn nhận được bảo hộ sáng chế ở một số nước thì phải nộp
đơn vào từng nước và muốn được hưởng quyền ưu tiên theo Công ước Paris về
bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp thì đơn đó phải được nộp trong vịng 12 tháng
tính từ ngày nộp đơn tại quốc gia đầu tiên (còn gọi là ngày ưu tiên). Như vậy,

trong vịng một năm tính từ ngày nộp đơn đầu tiên, người nộp đơn phải chuẩn bị
và nộp các đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cho tất cả các nước mà họ
muốn yêu cầu bảo hộ sáng chế tại đó. Điều này có nghĩa là người nộp đơn phải
chịu chi phí cho việc dịch, cho việc thuê dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp ở
các nước khác nhau và phải nộp lệ phí quốc gia cho các cơ quan đăng ký sáng
chế của các nước đó. Trong khi đó, tại thời điểm nộp đơn vào các nước này,
người nộp đơn lại không thể khẳng định một cách chắc chắn rằng liệu có thể
được cấp bằng độc quyền cho sáng chế yêu cầu bảo hộ tại các nước đó hay

17


khơng vì khơng biết được tình trạng kỹ thuật (các giải pháp kỹ thuật đã giải
quyết nhiệm vụ mà sáng chế đề ra) làm cho việc nộp đơn đó đơi khi trở nên vơ
ích (vì bị từ chối do khơng đáp ứng các tiêu chuẩn để được cấp bằng độc quyền).
Lý do thứ hai là tại các cơ quan sáng chế quốc gia các đơn nêu trên cần
được tiến hành xét nghiệm hình thức theo quy định riêng của cơ quan đó. Nếu
việc xét nghiệm nội dung cần được cơ quan đó tiến hành thì mỗi cơ quan phải
tiến hành việc tra cứu thông tin một cách riêng biệt và phải xét nghiệm nội dung
đơn đó theo quy định riêng của mình. Như vậy, cùng một cơng việc (xét nghiệm
hình thức và tra cứu thông tin) cần được nhiều cơ quan tiến hành một cách riêng
biệt làm cho chi phí nói chung cho một đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng
chế gia tăng một cách không cần thiết.
Để đạt mục tiêu nói trên, Hiệp ước hợp tác sáng chế đã đưa ra một nguyên
tắc chủ đạo là cung cấp cho các tác giả một con đường thuận lợi hơn để có được
sự bảo hộ đối với sáng chế của mình trên phạm vi quốc tế. Cả người nộp đơn và
cơ quan sở hữu trí tuệ của các quốc gia là thành viên của Hiệp ước hợp tác sáng
chế đều được hưởng lợi từ việc các thủ tục, yêu cầu nộp đơn được thống nhất, từ
kết quả tra cứu và kết quả xét nghiệm sơ bộ quốc tế, và từ việc công bố đơn quốc
tế tập trung theo Hiệp ước hợp tác sáng chế. Nội dung của nguyên tắc này được

cụ thể hóa như sau:
-

Thiết lập hệ thống quốc tế cho phép việc nộp vào một cơ quan sáng chế
quốc gia duy nhất gọi là “cơ quan nhận đơn” một đơn duy nhất gọi là
“đơn quốc tế” bằng một ngôn ngữ có hiệu lực trong mỗi nước thành viên
Hiệp ước mà người nộp đơn chỉ ra (“chỉ định”) trong đơn của mình;

-

Việc xét nghiệm hình thức đơn quốc tế do một cơ quan sáng chế duy nhất
– Cơ quan xét nghiệm quốc tế thực hiện;

-

Quy định việc tiến hành tra cứu thông tin phục vụ xét nghiệm nội dung
gọi là “tra cứu quốc tế” được kết thúc bởi một Báo cáo tra cứu quốc tế
trong đó chỉ ra các tài liệu (chủ yếu là tài liệu sáng chế đã công bố) có liên

18


quan đến sáng chế nêu trong đơn quốc tế mà cần phải được xem xét khi
đánh giá xem sáng chế đó có khả năng được cấp bằng độc quyền hay
khơng. Báo cáo này trước tiên được gửi cho Người nộp đơn quốc tế và
sau đó được Cơng bố cùng với đơn.
-

Quy định việc công bố tập trung đơn quốc tế cùng với Báo cáo tra cứu
quốc tế có liên quan cũng như quy định việc gửi chúng cho các cơ quan

được chỉ định; và

-

Quy định việc lựa chọn xét nghiệm sơ bộ quốc tế đơn quốc tế; Xét nghiệm
sơ bộ quốc tế kết thúc bởi một Báo cáo xét nghiệm sơ bộ quốc tế, trong đó
có đưa ra ý kiến về việc sáng chế nếu trong đơn quốc tế có đáp ứng các
tiêu chuẩn để được cấp bằng độc quyền hay không và báo cáo nào được
gửi cho các cơ quan sáng chế của nước được chọn.
Ngoài ra, thủ tục cấp bằng sáng chế tại các quốc gia với lệ phí đắt đỏ đã

được lùi lại để trong thời gian đó, người nộp đơn có thể nhận được kết quả tra
cứu quốc tế hay kết quả xét nghiệm sơ bộ quốc tế - những thông tin quan trọng
để người nộp đơn có thể đánh giá khả năng cấp bằng độc quyền cho sáng chế
của mình. Đó cũng là một trong những thuận lợi mà Hiệp ước hợp tác sáng chế
mang lại cho các tác giả và chủ sở hữu sáng chế.
Phạm vi áp dụng của Hiệp ước hợp tác sáng chế là tất cả các công dân các
nước thành viên đồng thời không một quy định nào của Hiệp ước này được hiểu
là sự hạn chế những quyền mà Công ước Paris dành cho bất kỳ công dân hoặc
người cư trú của bất kỳ nước nào tham gia công ước. Cũng như Thoả ước
Madrid, Hiệp ước để ngỏ cho bất kỳ nước thành viên nào của Tổ chức Sở hữu trí
tuệ thế giới cũng có thể tham gia bằng cách ký kết và sau đó nộp chứng thư phê
chuẩn hoặc, nộp lưu văn bản gia nhập. Chứng thư phê chuẩn hoặc các văn bản
gia nhập hay tuyên bố bãi ước đều phải được nộp lưu cho Tổng giám đốc của Tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới.

19


Trong khuôn khổ của Hiệp ước hợp tác sáng chế, các nước thành viên

phải thi hành các điều khoản, quy định một cách chính xác, tuy nhiên trong một
số trường hợp đặc biệt (từ phía quốc gia thành viên) các quốc gia thành viên
cũng có quyền được bảo lưu[3]. Các quốc gia khơng được phép địi hỏi phải đáp
ứng các yêu cầu khác hoặc bổ sung đối với điều khoản quy định về hình thức và
nội dung đơn do Hiệp ước hợp tác sáng chế quy định. Tuy nhiên, các quốc gia
không bị hạn chế về yêu cầu đối với tiêu chuẩn được cấp bằng độc quyền sáng
chế.
Bất kỳ tranh chấp nào giữa hai hoặc nhiều nước thành viên liên quan đến
việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp ước này và Quy chế thi hành Hiệp ước mà
không giải quyết được bằng con đường đàm phán, đều có thể được một nước bất
kỳ liên quan đưa ra xét xử tại Tòa án quốc tế bằng cách nộp đơn theo Quy chế
của Tòa án quốc tế, trừ phi các nước liên quan đó thỏa thuận được biện pháp giải
quyết khác[4].
Hiệp ước này có thể được xem xét lại ở hội nghị đặc biệt của các nước
thành viên[5].

1.3.

Nội dung của Hiệp ƣớc hợp tác sáng chế
Các nội dung chính của Hiệp ước hợp tác sáng chế quy định trong Hiệp

ước. Tuy nhiên, các quy định này được làm rõ và cụ thể trong bộ Quy chế thi
hành Hiệp ước. Hiệp ước hợp tác sáng chế và Quy chế thi hành Hiệp ước gồm
nội dung chính như sau:

[3]

Xem thêm Điều 64 của Hiệp ước, trong đó quy định những trường hợp các quốc gia thành viên được bảo
lưu.
[4]

Quy định tại Điều 59 Hiệp ước.
[5]
Điều 60 của Hiệp ước quy định cụ thể về việc xem xét lại Hiệp ước.

20


1.3.1 Cơ quan thực hiện thủ tục nhận và xử lý đơn nộp theo Hiệp ước hợp
tác sáng chế
Theo Hiệp ước hợp tác sáng chế, có một số các cơ quan sau đây tham gia
vào việc tiếp nhận và xử lý đơn quốc tế về sáng chế:
1.3.1.1

Cơ quan nhận đơn [6]

Cơ quan nhận đơn thường là các cơ quan sáng chế của các quốc gia là
thành viên của Hiệp ước hợp tác sáng chế, cũng có thể là một tổ chức liên chính
phủ được Hiệp ước cơng nhận là cơ quan nhận đơn. Cơ quan này có chức năng
như sau [7]:
-

Kiểm tra sáng chế có thuộc diện sáng chế bí mật hay khơng theo quy định
của nước mình.

-

Kiểm tra xem ngày nộp đơn quốc tế có thể được ghi nhận khơng.

-


Kiểm tra xem hình vẽ được đề cập trong Bản mô tả đã được nộp chưa.

-

Kiểm tra lỗi về mặt hình thức.

-

Thu và gửi lệ phí nộp đơn theo quy định của Hiệp ước hợp tác sáng chế.

-

Kiểm tra xem lệ phí có được nộp đúng hạn khơng.

-

Gửi bản sao cho Văn phòng quốc tế và bản tra cứu cho cơ quan tra cứu
quốc tế.

-

Gửi và tiếp nhận tài liệu từ người nộp đơn và cơ quan quốc tế.

1.3.1.2. Cơ quan tra cứu quốc tế [8]
Cơ quan tra cứu quốc tế là các cơ quan sáng chế quốc gia hay khu vực đáp
ứng các yêu cầu do Hiệp ước hợp tác sáng chế quy định cho cơ quan này về
nguồn lực và được Đại hội đồng của Hiệp ước chỉ định.

[6]


Điều 2 (xv) của Hiệp ước quy định : Cơ quan nhận đơn là cơ quan quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ
nơi đơn quốc tế được nộp.
[7]
Tham khảo điều Quy tắc 20 của Bộ quy chế
[8]
Xem thêm điều 16 Hiệp ước hợp tác sáng chế

21


Cơ quan này được quy định cụ thể tại Điều 16 của Hiệp ước như sau: “Cơ
quan này có thể là Cơ quan quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ, ví dụ như Viện
sáng chế quốc tế, và nhiệm vụ của cơ quan này bao gồm cả việc lập báo cáo tra
cứu tư liệu về tình trạng kỹ thuật đối với các sáng chế là đối tượng của đơn”.
Các cơ quan tra cứu quốc tế do Đại hội đồng chỉ định. Cơ quan sơ hữu trí
tuệ quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ bất kỳ thoả mãn các tiêu chuẩn theo
quy định tại mục c điều 16 của Hiệp ước hợp tác sáng chế đều có thể được chỉ
định làm Cơ quan tra cứu quốc tế. Việc chỉ định cần có sự nhất trí của Cơ quan
sở hữu trí tuệ quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ được chỉ định và cần ký kết
một bản thoả thuận giữa Cơ quan hoặc tổ chức đó với văn phịng quốc tế và phải
được Đại hội đồng phê chuẩn. Bản thoả thuận phải xác định các quyền và nghĩa
vụ của các bên đặc biệt là sự cam kết chính thức của Cơ quan hoặc tổ chức về
việc áp dụng và tuân theo tất cả các quy định chung về tra cứu quốc tế.
Trước khi đưa ra quyết định về việc chỉ định một Cơ quan quốc gia hoặc
tổ chức liên chính phủ nào cũng như quyết định gia hạn hoặc chấm dứt thời hạn
chỉ định, Đại hội đồng phải lắng nghe ý kiến của Cơ quan hoặc tổ chức hữu quan
và tham khảo ý kiến Uỷ ban về hợp tác kỹ thuật khi Uỷ ban này được thành lập.

1.3.1.3


Cơ quan xét nghiệm sơ bộ quốc tế

Cơ quan xét nghiệm sơ bộ sẽ thực hiện công việc xét nghiệm sơ bộ quốc
tế nếu đơn được yêu cầu xét nghiệm theo mong muốn của người nộp đơn.
Cơ quan này sẽ do Cơ quan nhận đơn hoặc Đại hội đồng, theo thỏa thuận
ký kết giữa Cơ quan này với Văn phòng quốc tế, chỉ rõ Cơ quan hoặc các cơ
quan xét nghiệm sơ bộ quốc tế có thẩm quyền thực hiện việc xét nghiệm [9].
Trên thực tế, cơ quan tra cứu quốc tế cũng đóng vai trị là cơ quan xét
nghiệm sơ bộ quốc tế.

[9]

Xem thêm Điều 32 Hiệp ước hợp tác sáng chế

22


×