Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.51 KB, 95 trang )

HUỲNH PHƢƠNG NAM

HÀ NỘI - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NI
KHOA LUT

HUNH PHNG NAM

CHế ĐịNH TàI PHáN
đối với BồI TH-ờng thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra

LUN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
LUẬT DÂN SỰ

HÀ NỘI – 2012

1


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HUNH PHNG NAM

CHế ĐịNH TàI PHáN
đối với BồI TH-ờng thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra

Chuyờn ngnh:



Lut Dõn s

Mó s

60 38 30

:

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Tiến sỹ Nguyễn Cơng Bình

HÀ NỘI - 2012

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN


Huỳnh Phƣơng Nam

3


môc lôc
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

Mở đầu

1

Chƣơng 1: Chƣơng 1: Khái quát chung về chế định tài phán đối với bồi

6

thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
1.1

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chế định tài phán đối với bồi

6

thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
1.2

Cơ sở của chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt


15

động tố tụng hình sự gây ra
1.3

Sơ lƣợc sự hình thành và phát triển của chế định tài phán đối với

19

bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
1.4

Khái quát chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt

31

động tố tụng hình sự gây ra của pháp luật một số nƣớc trên thế giới
Chƣơng 2: Nội dung chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt

37

hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra của pháp luật Việt
nam hiện hành
2.1

Các quy định hiện hành về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại cho

37


ngƣời bị oan, sai do hoạt động tố tụng hình sự gây ra
2.2

Các quy định về thẩm quyền và thủ tục giải quyết bồi thƣờng thiệt
hại cho ngƣời bị oan, sai do hoạt động tố tụng hình sự gây ra tại
Việt nam

4

47


2.2.1

Các quy định về thẩm quyền giải quyết bồi thƣờng thiệt hại do

48

hoạt động tố tụng hình sự gây ra
2.2.2

Các quy định về thủ tục giải quyết bồi thƣờng thiệt hại do hoạt

49

động tố tụng hình sự gây ra
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện chế định tài phán đối với bồi

59


thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và kiến
nghị
3.1

Thực tiễn thực hiện chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại

59

trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
3.2

Một số kiến nghị nhằm hồn thiện chế định tài phán đối với bồi

77

thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
3.2.1

Về xây dựng pháp luật

77

3.2.2

Về thực hiện pháp luật

80

Kết luận


81

Danh mục tài liệu tham khảo

83

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

CQTHTTHS

Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự


BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BTTH

Bồi thƣờng thiệt hại

Nghị quyết 388

Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11

LTNBTCNN

Luật Trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS


Tố tụng dân sự

TTHS

Tố tụng hình sự

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

6


VKSNDTC

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

7


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của Nhà nƣớc pháp quyền là
mọi chủ thể đều bình đẳng trƣớc pháp luật, bất kể chủ thể đó là cá nhân, tổ
chức hay cơ quan Nhà nƣớc. Điều này cũng có nghĩa là cơ quan Nhà nƣớc
cũng phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do ngƣời thi hành công vụ của cơ
quan mình gây ra cho chủ thể khác trong xã hội.
Trong quá trình tiến hành tố tụng các vụ án hình sự, do nhiều ngun
nhân khác nhau mà có thể có những vụ án oan, sai. Để khắc phục hậu quả từ
hành vi gây oan, sai đó từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật Việt
nam đã có quy định riêng về vấn đề này nhƣ Nghị quyết số 388/2003/NQUBTVQH11. Tuy nhiên, quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều hạn chế, bất
cập nhƣ hiệu lực pháp lý không cao, văn bản chƣa đƣợc xây dựng trên quan
điểm coi việc bồi thƣờng là trách nhiệm của Nhà nƣớc nói chung mà chỉ coi
là trách nhiệm của cơ quan cụ thể có ngƣời gây thiệt hại khi thi hành công vụ.
Mặt khác, trong nhiều trƣờng hợp, cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi
thƣờng chƣa xác định đƣợc rõ, chƣa quy định đƣợc trách nhiệm phối hợp giải
quyết bồi thƣờng của các cơ quan Nhà nƣớc có liên quan; các loại thiệt hại và
mức bồi thƣờng không đƣợc quy định rõ ràng, thống nhất gây khó khăn cho
công tác giải quyết bồi thƣờng, bất lợi cho ngƣời bị thiệt hại... Sự ra đời của
Luật trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc ngày 18/6/2009 là một quá trình
đúc rút từ lý luận và thực tiễn công tác bồi thƣờng của Nhà nƣớc nói chung và
bồi thƣờng oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng.
Mặc dù đã có các quy định của pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời bị xử
lý oan, sai do ngƣời có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây
ra, nhƣng các quy định này vẫn còn nhiều bất cập và đối tƣợng đƣợc xem xét
mới chỉ dừng lại ở bị oan, còn đối tƣợng của hành vi làm sai vẫn chƣa đƣợc

8


xem xét triệt để. Bên cạnh đó, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc bồi

thƣờng cũng chƣa đƣợc quy định cụ thể, hợp lý. Việc giao cho Toà án xét xử
yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại do hoạt động tố tụng hình sự gây ra cũng đặt ra
những nghi ngại về sự thiếu khách quan khi các cơ quan tiến tố tụng có mối
quan hệ nhất định với nhau, và đặc biệt là khi Toà án phải xử chính mình
hoặc Tồ án cấp trên của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu thiết lập một cơ quan
tài phán độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng và trình tự, thủ tục giải
quyết việc bồi thƣờng để đảm bảo sự công bằng và khách quan khi giải quyết
yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại là hoàn toàn cần thiết. Với lý do đó, học viên đã
chọn đề tài “Chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố
tụng hình sự gây ra” làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trƣớc đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý
nghiên cứu về bồi thƣờng thiệt hại do hoạt động tiến hành tố tụng gây ra hoặc
trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của Nhà nƣớc. Ví dụ nhƣ:
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự” năm 1997 của tác giả
Lê Mai Anh - Trƣờng Đại học Luật Hà nội;
- Luận án Tiến sỹ Luật học “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra” năm 2002 của tác giả Lê Mai
Anh - Trƣờng Đại học Luật Hà nội;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước” năm 2006 của tác giả Lê
Thái Phƣơng - Trƣờng Đại học Luật Hà nội;
- Bài “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của
Tiến sỹ Phùng Trung Tập - Tạp chí Luật học số 10/2004; v.v.

9


Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của các cơng trình nghiên cứu nêu trên là

nhằm làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thƣờng của
Nhà nƣớc nói riêng. Chƣa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách
có hệ thống và toàn diện về chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại do
hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tài
phán trong việc bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị xử lý oan, sai do hành vi
của ngƣời tiến hành tố tụng hình sự gây ra, làm rõ đặc điểm, nội dung và bản
chất của chế định này. Qua đó, phân tích làm rõ thực trạng pháp luật và thực
tiễn giải quyết bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan, sai do ngƣời có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra, chỉ rõ những hạn chế, bất
cập và tìm ra các giải pháp để hồn thiện chế định này nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác giải quyết bồi thƣờng cũng nhƣ việc khắc phục tốt nhất
những hậu quả của hành vi gây oan, sai trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự.
Để đạt đƣợc các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm
vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định tài phán nói
chung và chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tiến
hành tố tụng hình sự gây ra nói riêng; phân tích, so sánh, đánh giá các quy
định của chế định tài phán bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình
sự trong pháp luật hiện hành và khảo sát việc thực hiện các quy định này trên
thực tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về chế định tài
phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra; chế

10



định tài phán của pháp luật Việt Nam về tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và thực tiễn thực hiện trong những
năm gần đây. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng đƣợc tiến hành đối với pháp
luật của một số nƣớc về vấn đề này để đối chiếu, tham khảo.
“Chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng
hình sự gây ra” là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng. Trong phạm vi
nghiên cứu của một Luận văn Thạc sĩ Luật học, việc nghiên cứu chỉ tập trung
vào những vấn đề sau:
- Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chế định tài phán đối với bồi
thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
- Các nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm,
thẩm quyền và thủ tục giải quyết việc bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan, sai
do ngƣời có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra.
- Thực tiễn thực hiện chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra trong những năm gần đây.
Ngoài ra, việc nghiên cứu còn đƣợc tiến hành đối với một số vấn đề về
trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan, sai do ngƣời có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra để làm cơ sở cho việc
nghiên cứu chế định tài phán trong việc bồi thƣờng này.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ
nghĩa Mác- Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quán
triệt quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam về cải cách tƣ pháp và xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu cũng đƣợc tiến hành với các phƣơng pháp cụ thể nhƣ
phƣơng pháp phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp. Các nguồn thông tin, tƣ
liệu đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu đề tài này là

11



các bài viết, tham luận, báo cáo chuyên đề... của các nhà khoa học pháp lý,
những ngƣời làm thực tiễn ở các cơ quan tƣ pháp và các cơ quan có liên quan.
6. Những điểm mới của đề tài
Đề tài này là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu tƣơng đối tồn
diện và có tính hệ thống về chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu đã
làm sáng tỏ đƣợc một số vấn đề lý luận cơ bản về chế định tài phán đối với
bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra nhƣ khái niệm, đặc
điểm, vai trò và cơ sở của chế định tài phán.
Việc nghiên cứu cũng đã làm rõ đƣợc nội dung của chế định tài phán
đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Trên cơ sở
làm rõ luận cứ khoa học và thực tiễn thực hiện của chế định tài phán đối với
bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, việc nghiên cứu
đề tài đã tìm ra giải pháp, kiến nghị để sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật
hiện hành liên quan đến việc xây dựng hoàn thiện một cơ quan tài phán thực
sự độc lập và hoạt động có hiệu quả, nhằm bảo đảm việc bồi thƣờng cho
ngƣời bị xử lý oan, sai do ngƣời có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự gây ra đƣợc khách quan và đảm bảo công bằng xã hội.
7. Về kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Khái quát chung về chế định tài phán đối với bồi thƣờng
thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
- Chƣơng 2: Nội dung chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra của pháp luật Việt nam hiện hành
- Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện chế định tài phán đối với bồi thƣờng
thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và kiến nghị

12



Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH TÀI PHÁN
ĐỐI VỚI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ GÂY RA
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chế định tài phán đối với
bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
1.1.1. Khái niệm chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự thực
chất là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đối với hành vi gây
oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự. Để làm rõ khái niệm chế định tài
phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, trƣớc
hết cần phải làm rõ một số thuật ngữ, khái niệm liên quan nhƣ oan, sai, bồi
thƣờng và tài phán.
Trong Tiếng Việt, oan đƣợc hiểu là không làm mà phải chịu, bị quy cho
tội mà bản thân không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng
chịu [31, tr.749] hoặc là bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một
cách sai trái, vô lý [63, tr.1269]; sai đƣợc hiểu là không đúng, không hợp với
lẽ phải, lẽ công bằng [52, tr.786] hoặc không phù hợp với cái hoặc điều có
thật, mà có khác đi, chệch đi so với nhau, không khớp với nhau; không phù
hợp với yêu cầu khách quan, lẽ ra phải khác; không phù hợp với phép tắc,
những điều quy định [31, tr.843]. Trong tố tụng hình sự, oan là tình trạng của
một ngƣời khơng thực hiện hành vi phạm tội nhƣng bị các cơ quan tiến hành
tố tụng xác định họ phạm tội và thực hiện các biện pháp tố tụng bất lợi đối với
họ nhƣ khởi tố, tạm giam, truy tố, xét xử... Sai trong tố tụng hình sự thì thể
hiện ở nhiều trƣờng hợp, nhiều mức độ và nguyên nhân khác nhau. Việc điều

13



tra, truy tố, xét xử sai có cả nguyên nhân do vơ ý, cố ý từ phía những ngƣời
tiến hành tố tụng, từ việc thiếu thận trọng, thiếu khách quan hay áp dụng sai
pháp luật, đánh giá sai lệch về chứng cứ hoặc sự kiện khách quan không bộc
lộ đƣợc đúng bản chất của vụ án... Sai trong tố tụng hình sự có thể là quy kết
khơng đúng hành vi của ngƣời phạm tội hoặc tính chất, mức độ hành vi dẫn
đến việc đƣa ra quan điểm xử lý, mức xử lý không phù hợp, không đầy đủ.
Tuy nhiên, sai cũng có thể là vơ ý hay cố ý dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm hoặc
xử lý không đúng với bản chất hành vi, sự việc hoặc mức xử lý q nhẹ so với
tính chất của nó. Cả oan và sai đều có thể gây thiệt hại về vật chất và tinh thần
cho đối tƣợng bị điều tra, truy tố, xét xử cũng nhƣ những ngƣời liên quan đến
vụ án. Nói đến đối tƣợng bị oan thì thƣờng đƣợc hiểu đó là ngƣời bị pháp luật
xử lý khơng đúng, quá mức. Tuy nhiên, đối tƣợng của hành vi làm sai thì đƣợc
hiểu rộng hơn, bao gồm hầu hết mọi đối tƣợng liên quan đến vụ án, trong đó có
cả đối tƣợng bị oan. Nói cách khác, sự thiệt hại của cá nhân, tổ chức không chỉ
giới hạn khi họ vƣớng vào vịng tố tụng.
Theo ngơn ngữ Tiếng Anh, “bồi thƣờng thiệt hại” và “đền bù tổn thất”
đều là “compensation”. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ tiếng Nhật hai khái niệm
này lại đƣợc phân biệt rõ ràng. Theo đó, đền bù đƣợc hiểu là biện pháp, cách
thức để hỗ trợ cho những mất mát, thiếu hụt; còn bồi thƣờng là một nghĩa vụ
phải thực hiện để khắc phục một hậu quả do sự vi phạm gây ra [46]. Trong
ngôn ngữ Tiếng Việt, bồi thƣờng đƣợc hiểu là sự đền bù những tổn hại đã gây
ra, còn đền bù là trả lại tƣơng xứng với giá trị hoặc công lao [63, tr.191, 623].
Hoặc theo cách giải thích khác thì bồi thƣờng là đền trả lại các sự tổn hại [54,
tr.109]. Theo nghĩa Hán- Việt, bồi tức là đền, trả lại [49, tr.109]; thƣờng là
đền bồi, thƣờng tiền [49, tr.919]. Với các nghĩa đó, bồi thƣờng đƣợc hiểu là
sự bù đắp, đền bù lại sự mất mát, thiệt hại bằng một giá trị vật chất khác có

14



giá trị tƣơng xứng hoặc biểu trƣng. Và nhƣ vậy, trong Tiếng Việt, khơng có
sự phân biệt rõ ràng giữa bồi thƣờng và đền bù.
Thuật ngữ “tài phán” có nguồn gốc từ tiếng Latin là “jurisdictio”, trong
tiếng Anh là từ “jurisdiction” có nghĩa là tổng thể những quyền hạn của Tồ
án hoặc cơ quan có thẩm quyền về việc đánh giá khía cạnh pháp lý của những
sự kiện cụ thể, trong đó có việc giải quyết tranh chấp và áp dụng chế tài.
Trong Tiếng Việt thì tài phán chỉ đƣợc hiểu đơn giản là phân xử, xét xử [54,
tr.830]. Và trong thuật ngữ pháp lý, tài phán cũng đƣợc hiểu đồng nghĩa với
xét xử [61, tr.865], có nghĩa là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý
của vụ việc nhằm đƣa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ
việc đó, từ đó nhân danh Nhà nƣớc đƣa ra một phán quyết tƣơng ứng với bản
chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc [61, tr.869]. Nhƣ vậy,
tài phán đƣợc hiểu là toàn bộ các hoạt động, hành vi của cơ quan hay cá nhân
có thẩm quyền theo luật định trong việc giải quyết các vụ việc tranh chấp
pháp lý. Quyền tài phán là quyền năng theo pháp luật, phù hợp với pháp luật
và đƣợc pháp luật bảo hộ. Hiện nay, có hai cách hiểu cơ bản về khái niệm tài
phán:
Cách hiểu thứ nhất, coi tài phán chỉ là hoạt động xét xử các tranh chấp
pháp lý giữa các chủ thể có u cầu và Tồ án có thẩm quyền giải quyết theo
một trình tự tố tụng. Theo cách hiểu này thì tài phán đồng nghĩa với xét xử.
Cách hiểu thứ hai, coi tài phán là toàn bộ các hoạt động xem xét, đánh
giá và đƣa ra phán quyết về một vụ việc tranh chấp pháp lý, có thể bao gồm
cả việc xem xét lại cơ chế giải quyết liên quan đến tranh chấp của cơ quan
khác trƣớc đó (Ví dụ nhƣ việc Tồ án xem xét lại quy trình và nội dung giải
quyết khiếu nại trong vụ kiện hành chính). Quyền tài phán khơng chỉ đƣợc
trao cho cơ quan Tồ án mà còn đƣợc trao cho một số cơ quan chức năng

15



khác thực hiện theo luật định (cơ quan hành chính, thanh tra, trọng tài…).
Theo cách hiểu này thì khái niệm tài phán rộng hơn khái niệm xét xử.
Quyền tài phán thể hiện quyền năng của chủ thể đƣợc pháp luật trao
quyền giải quyết tranh chấp pháp lý. Cũng có loại quyền năng không phải do
pháp luật trực tiếp đặt ra hoặc trao quyền mà do quy phạm pháp luật cho phép
cá nhân, tổ chức liên quan thiết lập. Hiện nay, trên thế giới tồn tại các khái
niệm mơ hình tổ chức tài phán điển hình nhƣ tài phán hiến pháp, tài phán
hành chính và tài phán tƣ pháp.
Tài phán hiến pháp đƣợc hiểu là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các đạo luật do cơ quan lập pháp ban
hành. Ở Mỹ và Anh, khái niệm này thƣờng dùng thuật ngữ “jusdical review”nghĩa là kiểm tra tƣ pháp. Tuỳ theo điều kiện của từng nƣớc mà có mơ hình
tài phán bảo hiến khác nhau nhƣ có thể giao cho Tồ án tƣ pháp xem xét văn
bản đã đƣợc ban hành khi có tranh chấp hay theo sự kiện pháp lý cụ thể
(American model) hay giao cho nghị viện phê chuẩn văn bản trƣớc khi đƣợc
Tổng thống phê chuẩn (French model) hay thành lập cơ quan chuyên trách để
kiểm tra (European model) hoặc trao thẩm quyền hỗn hợp vừa do Toà án bảo
hiến giải quyết, cũng có thể do Tồ án khác giải quyết đối với từng vụ việc cụ
thể (Mixed model) [3].
Tài phán hành chính đƣợc hiểu là hoạt động giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong việc thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc hay các
tranh chấp nảy sinh trong quá trình điều hành, quản lý của các cơ quan hành
chính nhà nƣớc, trong đó chủ yếu là việc xem xét phán quyết về tính đúng
đắn, tính hợp pháp của các quyết định hay hành vi quản lý của cơ quan quản
lý nhà nƣớc và công chức nhà nƣớc với tƣ cách là các chủ thể quản lý, mang
trách nhiệm công vụ.

16



Và mơ hình tài phán chung nhất là tài phán tƣ pháp, thực hiện hoạt
động xét xử những vụ việc về hình sự, dân sự, kinh doanh thƣơng mại... Theo
đó, đối tƣợng của tài phán tƣ pháp rất rộng, bao trùm mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, gồm cả quan hệ giữa công dân, tổ chức với nhau trong lĩnh vực dân
sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh, lao động... và quan hệ giữa nhà nƣớc và
công dân trong lĩnh vực hình sự. Tuy nhiên, tài phán tƣ pháp khơng thể có
thẩm quyền truy tố cơ quan cơng quyền và các nhà chức trách hành chính
trong việc nó thực thi chức năng quản lý nhà nƣớc theo công pháp và theo
pháp luật hành chính, trừ trƣờng hợp cá nhân ngƣời thi hành công vụ vi phạm
pháp luật về dân sự, hình sự…).Vì vậy, có quan điểm cho rằng, tài phán tƣ
pháp là tài phán của nhà nƣớc đối với dân.
Chế định hay chế định pháp luật hoặc định chế pháp luật là tập hợp một
nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm quan
hệ xã hội tƣơng ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế
định có thể đƣợc hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng
là các yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng
thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.
Từ những phân tích nêu trên, có thể kết luận: Chế định tài phán đối với
bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra là tổng hợp các
quy định pháp luật về cơ chế hoạt động của cơ quan có thẩm quyền trong việc
giải quyết yêu cầu về bồi thƣờng thiệt hại đối với hành vi gây oan, sai của
ngƣời có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự
gây ra mà nội dung của nó là tài phán trong việc BTTH cho ngƣời bị oan, sai
do ngƣời có thẩm quyền của CQTHTTHS gây ra mang tính đặc thù khác với

17



các tài phán khác bởi chủ thể tham gia tố tụng- ngƣời bị kiện chính là
CQTHTT, kể cả là Tồ án- một cơ quan có chức năng tài phán. Do vậy, để
giải quyết đƣợc đúng đắn và triệt để yêu cầu của ngƣời bị thiệt hại, chế định
tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có
các đặc điểm sau:
Thứ nhất, có tính quyền lực
Hoạt động tài phán trong việc bồi thƣờng thiệt hại do hoạt động TTHS
gây ra chỉ do các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
tiến hành. Cơ quan tài phán phải đƣợc Nhà nƣớc trao quyền, thể hiện ý chí,
quyền lực Nhà nƣớc, phán quyết phải đƣợc đảm bảo thực thi bằng cƣỡng chế
nhà nƣớc, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cơng dân và bù
đắp những thiệt hại vật chất và tinh thần mà ngƣời bị oan, sai phải gánh chịu,
đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Trong quá trình tiến hành hoạt động
tài phán, chủ thể có thẩm quyền nhân danh quyền lực nhà nƣớc, sử dụng
quyền lực nhà nƣớc để ban hành ra những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt
buộc các chủ thể khác có liên quan phải tơn trọng chấp hành hoặc thực hiện.
Đây là ý chí đơn phƣơng của chủ thể tiến hành tài phán có thẩm quyền trên cơ
sở pháp luật mà khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể khác tham gia. Đồng
thời, hoạt động tài phán này phải đƣợc tiến hành theo những điều kiện, trình
tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ nhƣ thực hiện theo một
trình tự tố tụng riêng hoặc theo trình tự tố tụng dân sự do pháp luật hiện hành
quy định.
Thứ hai, có tính trọng tài
Cơ quan tài phán phải có thực quyền trong phán xử, quyết định trên cơ
sở sự độc lập, khách quan. Sự độc lập ở đây là không chịu bất cứ sự ràng
buộc hay can thiệp nào để làm ảnh hƣởng đến sự đánh giá, nhận định và phán
quyết đối với công việc mà mình phải phân xử. Sự khách quan đƣợc thể hiện

18



ở cách đánh giá phù hợp với chứng cứ khách quan theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, đảm bảo khách quan và tơn trọng sự thật khách quan có nhiều
cách hiểu khác nhau (mối liên hệ giữa sự thật và nghĩa vụ chứng minh sự thật;
ngƣời đúng chƣa hẳn đã chứng minh đƣợc là mình đúng...). Nói đến khách
quan là nói đến những gì tồn tại độc lập ngồi ý thức con ngƣời, không phụ
thuộc vào ý thức con ngƣời. Tính khách quan là dựa vào các nguồn tài liệu,
chứng cứ có thể nhận biết xác thực đƣợc, giúp cho có cái nhìn đúng đắn về
bản chất hoặc diễn biến sự việc, không bị tác động bởi những yếu tố ngồi
căn cứ pháp luật.
Thứ ba, có tính cơng bằng
Cơ quan tài phán đƣa ra phán quyết phải công minh, khách quan, phù
hợp với thiệt hại thực tế, cả về vật chất và tinh thần. Tính cơng bằng là u
cầu cao nhất của bất kỳ hoạt động tài phán. Nó địi hỏi khơng có sự thiên vị,
định kiến trong phán xử. Chính sự cơng bằng của phán quyết mới tạo cho các
bên tự giác thi hành. Tuy nhiên, khái niệm công bằng cũng chỉ là tƣơng đối
bởi trong quan hệ pháp luật bồi thƣờng nhà nƣớc, mối quan hệ giữa Nhà nƣớc
và cơng dân thƣờng khơng bình đẳng về mọi mặt. Đó là sự tƣơng quan giữa
kẻ yếu và kẻ mạnh. Vì vậy, sự cơng bằng chính là quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của kẻ yếu cần phải đƣợc pháp luật tôn trọng hơn, và hành vi lạm quyền,
vi phạm của kẻ mạnh càng phải đƣợc xử lý trách nhiệm triệt để hơn.
Thứ tƣ, có tính nhân đạo
Con ngƣời ln là vị trí trung tâm, là mục tiêu và động lực của mọi
chính sách, đƣờng lối phát triển trong xã hội. Với nhận thức về vị thế của con
ngƣời, vấn đề đảm bảo quyền con ngƣời, quyền cơ bản của công dân cần phải
đƣợc coi trọng và đặt lên hàng đầu. Trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm thực hiện
các quyền dân sự, chính trị của cơng dân đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, rất

19



nhiều đạo luật khác đƣợc ban hành làm công cụ pháp lý quan trọng để bảo
đảm các quyền dân sự của cơng dân.
Trong hoạt động tiến hành tố tụng hình sự, oan, sai là hiện tƣợng vẫn
xảy ra với nhiều nguyên nhân khác nhau, xâm phạm đến quyền cơ bản của
công dân đƣợc pháp luật bảo hộ, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến danh dự, tinh
thần, tài sản... của ngƣời bị thiệt hại. Việc giải quyết bồi thƣờng oan, sai trong
hoạt động TTHS chính là việc khắc phục phần nào thiệt hại do hành vi làm
oan, sai gây ra, bảo đảm các quyền dân sự của công dân mà pháp luật ghi
nhận và mọi phán quyết công bằng, hợp lý, đúng pháp luật chính là nhằm bảo
vệ quyền con ngƣời.
Thứ năm, có tính chun mơn hóa
Lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật của các nƣớc văn minh, tiến bộ
đã chứng minh sự độc lập trong hoạt động tƣ pháp là biểu hiện đặc trƣng của
Nhà nƣớc pháp quyền và nền tƣ pháp dân chủ, bình đẳng và cơng bằng và bảo
vệ hữu hiệu các quyền con ngƣời, quyền công dân [60]. Việc giải quyết yêu
cầu về BTTH do hoạt động TTHS gây oan, sai thƣờng rất phức tạp. Vì vậy,
hoạt động giải quyết yêu cầu này của cơ quan tài phán địi hỏi phải có tính
chun mơn hóa và phải độc lập trong phán quyết, không chịu sự chi phối của
cơ quan, tổ chức khác và chỉ tuân theo pháp luật. Điều này đòi hỏi một cơ chế
để xây dựng mơ hình, cơ cấu tổ chức tài phán và tiêu chuẩn ngƣời thực thi
quyền tài phán. Đây là vấn đề thƣờng chỉ đặt ra trong lý thuyết, trên thực tế
thƣờng khó đạt đƣợc tuyệt đối bởi các sự ảnh hƣởng của các yếu tố chính trị,
quan hệ địa phƣơng, quan hệ ngành... Các yếu tố này có sự ảnh hƣởng rất lớn
đến đƣờng lối xét xử, đƣờng lối giải quyết và kết quả của phán quyết, ảnh
hƣởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng của đƣơng sự trong vụ
án.

20



1.1.3. Vai trò của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động TTHS
gây ra là tập hợp các quy phạm pháp luật tố tụng quy định về hoạt động tài
phán trong việc giải quyết yêu cầu BTTH cho ngƣời bị xử lý oan, sai do
ngƣời có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra. Chế định
này có tác dụng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong q trình giải quyết
u cầu địi BTTH đối với hành vi gây oan, sai của cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự thơng qua việc quy định cụ thể trình tự, thủ tục yêu cầu, giải quyết
yêu cầu, nguyên tắc giải quyết yêu cầu, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia.v.v... tạo hành lang pháp lý cho việc giải quyết yêu cầu của đƣơng
sự.
Nhƣ các chế định pháp luật khác, trƣớc hết chế định tài phán đối với
bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra sẽ bảo đảm cho
ngƣời bị xử lý oan, sai thực hiện đƣợc việc yêu cầu BTTH. Vì thế, bảo vệ
đƣợc quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cơng dân bị thiệt hại bởi hành vi tố
tụng, quyết định tố tụng của ngƣời có thẩm quyền. Bên cạnh đó, chế định này
sẽ tạo ra cơ chế giải quyết của cơ quan có thẩm quyền đối với yêu cầu BTTH,
làm cho việc giải quyết đƣợc thuận lợi, nhanh chóng và thỏa đáng. Qua đó,
chế định này cũng xác định rõ đƣợc hậu quả thiệt hại, làm cơ sở để cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm khắc phục những thiệt hại mà ngƣời
bị xử lý oan, sai và gia đình họ phải gánh chịu, cũng nhƣ là cơ sở để yêu cầu
ngƣời gây thiệt hại phải hoàn trả CQTHTT. Nhƣ vậy sẽ đề cao trách nhiệm,
sự tơn trọng pháp luật, tính chịu trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng, hạn
chế sự lạm quyền và các hành vi vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng
hình sự, hạn chế oan, sai, đảm bảo cơng bằng xã hội. Từ đó cũng bảo vệ đƣợc
uy tín của Nhà nƣớc, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa.


21


1.2. Cơ sở của chế định tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra
1.2.1 Cơ sở lý luận của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Lý do xác định thiệt hại do ngƣời của CQTHTTHS gây ra thuộc trách
nhiệm của CQTHTT đó vì mặc dù các hành vi tố tụng gây thiệt hại cho ngƣời
tham gia tố tụng đều do cá nhân ngƣời tiến hành tố tụng gây ra nhƣng họ thực
hiện hành vi đó trong khi thi hành cơng vụ, nhiệm vụ mà CQTHTTHS giao,
và nhân danh CQTHTTHS trong hoạt động tố tụng. Do vậy, về mặt lý luận,
đây là loại trách nhiệm pháp lý BTTH ngoài hợp đồng mà chủ thể chịu trách
nhiệm là chủ thể đặc biệt- Nhà nƣớc. Ngƣời bị thiệt hại là cá nhân, cơ quan,
tổ chức đã tham gia tố tụng với tƣ cách là bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ
án hình sự.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá
VII (ngày 23/01/1995) về đổi mới hoạt động của cơ quan tƣ pháp khẳng định
rõ yêu cầu: “đối với việc bắt giữ, xét xử oan sai cần truy cứu trách nhiệm của
những người ra lệnh và người thừa hành, đồng thời minh oan công khai, thoả
đáng đối với người bị bắt giữ, xét xử oan sai, đảm bảo quyền công dân đúng
pháp luật.” [8]
Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ chính trị nêu rõ: “Việc
bồi thường thiệt hại cần được thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với những
trường hợp cụ thể”.[8]
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/016/2002 của Bộ chính trị đặt ra nhiệm
vụ cấp bách là: “Khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các
văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị oan,


22


sai trong hoạt động tố tụng; nghiên cứu xây dựng Quỹ bồi thường thiệt hại về
tư pháp.” [6]
Từ đó, nguyên tắc trách nhiệm của CQTHTT phải bồi thƣờng cho
ngƣời bị oan, sai và bị thiệt hại do cơ quan hoặc ngƣời có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra cũng đƣợc ghi nhận tại các điều 29, 30 của
BLTTHS 2003 [38].
Tuy là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nhƣng việc giải quyết yêu
cầu đòi BTTH của ngƣời bị oan, sai trong tố tụng hình sự có nhiều điểm khác
biệt so với việc giải quyết các yêu cầu địi BTTH ngồi hợp đồng khác bởi
chủ thể chịu trách nhiệm bồi thƣờng là Nhà nƣớc, ngƣời gây thiệt hại là ngƣời
thực hiện nhiệm vụ do cơ quan Nhà nƣớc giao. Do vậy, địi hỏi phải có những
quy định mang tính đặc thù mới bảo đảm việc giải quyết yêu cầu BTTH đƣợc
công bằng và đúng pháp luật.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt
hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Thực tiễn giải quyết BTTH cho ngƣời bị oan, sai trong hoạt động
TTHS cho thấy có nhiều bất cập dẫn đến việc giải quyết không đảm bảo
khách quan, không thỏa đáng và khơng bù đắp đƣợc những gì mà ngƣời bị
oan, sai phải gánh chịu. Thiệt hại do hành vi gây oan, sai bao gồm cả vật chất
và tinh thần và ngƣời bị oan đồng thời là ngƣời bị thiệt hại. Thế nhƣng, ngƣời
bị thiệt hại không nhất thiết lúc nào cũng đồng thời là ngƣời bị oan. Khái
niệm “ngƣời bị thiệt hại” cần đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là cá nhân
mà cịn có thể là cơ quan, tổ chức. Ngƣời bị thiệt hại không nhất thiết phải là
ngƣời tham gia tố tụng mà có thể là ngƣời khác gián tiếp chịu thiệt hại do
hành vi gây oan, sai đó gây ra (Ví dụ nhƣ: bố bị bắt oan làm con thất học, gia
đình ly tán; Giám đốc bị bắt dẫn đến hoạt động của công ty bị đình trệ, thất
thu hoặc phá sản ...).


23


Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy có sự khác biệt rất rõ nét trong quan
niệm về tranh chấp. Ngƣời ta thƣờng nói đến sự tranh chấp giữa cơng dân, tổ
chức với nhau mà ít khi coi việc xung đột quyền lợi giữa một bên là Nhà nƣớc
với một bên là công dân, cơ quan, tổ chức là tranh chấp. Tuy nhiên, trong
quan hệ BTTH ngồi hợp đồng nói chung và BTTH do hành vi gây oan, sai
của ngƣời tiến hành tố tụng gây ra, mà bên gây thiệt hại nhân danh Nhà nƣớc,
bên bị thiệt hại là công dân, cơ quan, tổ chức và nếu không thỏa thuận đƣợc
cách thức giải quyết và mức bồi thƣờng thì xung đột đó chính là sự tranh
chấp. Sự nhận thức đó xuất phát từ sự mất cân bằng về địa vị xã hội của mỗi
bên, mặc dù địa vị pháp lý trong lý luận về quan hệ pháp luật BTTH ngoài
hợp đồng là ngang nhau. Và chính sự mất cân bằng đó tạo sự bất bình đẳng
trong quan hệ đối xử khi cơ quan Tòa án- cũng là cơ quan Nhà nƣớc- phải
thực hiện nhiệm vụ phán xét, phân xử đối với CQTHTT khác hoặc đối với
chính mình.
Pháp luật do Nhà nƣớc ban hành. Tòa án cũng do Nhà nƣớc thành lập,
tổ chức. Thẩm phán- những ngƣời “cầm cân nảy mực” của Tòa án cũng là
ngƣời của Nhà nƣớc do đƣợc bổ nhiệm, tuyển dụng và hƣởng lƣơng từ Ngân
sách Nhà nƣớc. Khi xét xử họ cũng phải áp dụng các quy định của pháp luật
do Nhà nƣớc ban hành. Nhƣ vậy, cơ quan xét xử, ngƣời thực thi nhiệm vụ xét
xử là đƣơng nhiên phải chịu sự chi phối, ảnh hƣởng của Nhà nƣớc. Thế
nhƣng, khi mà Nhà nƣớc là bên gây thiệt hại, có trách nhiệm bồi thƣờng với
bên bị thiệt hại là cơng dân, tổ chức khác thì sự chi phối này sẽ dẫn đến sự
thiếu khách quan, thiên vị về phía Nhà nƣớc. Và đặc biệt là trong tố tụng hình
sự, những thiệt hại gây ra cho các cá nhân, tổ chức lại xuất phát từ chính các
CQTHTT, mà trong đó có cả Tịa án- cơ quan xét xử và Viện kiểm sát- cơ
quan có cả chức năng kiểm sát hoạt động xét xử. Với một bên là Nhà nƣớc

với mối quan hệ của các cơ quan nhà nƣớc nhƣ vậy, thực tiễn đã cho thấy

24


thƣờng có sự đùn đẩy, né tránh giữa các cơ quan THTT có ngƣời gây ra oan,
sai, tạo khó khăn hơn cho ngƣời yêu cầu bồi thƣờng. Do vậy, yêu cầu bồi
thƣờng của bên bị thiệt hại do ngƣời có thẩm quyền của CQTHTTHS gây ra
thƣờng không đƣợc giải quyết thỏa đáng và đặc biệt là về vật chất có sự
chênh lệch rất lớn trong mức yêu cầu so với mức bồi thƣờng trong phán quyết
của Tịa án. Đây chính là vấn đề dƣ luận vẫn đang bức xúc trong quá trình
giải quyết BTTH đối với các hành vi gây oan, sai và nhất là là giải quyết hậu
quả của các vụ án oan trong thời gian qua.
***
Tóm lại, qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, có thể khẳng định cần
thiết phải thành lập một cơ quan tài phán với một cơ chế tài phán riêng biệt về
BTTH trong hoạt động TTHS theo yêu cầu của ngƣời bị xử lý oan, sai do
ngƣời có thẩm quyền của CQTHTTHS gây ra. Thế nhƣng, cơ sở lý luận và
thực tiễn vững chắc nào để xác định sự độc lập hay thuộc hệ thống nào cho cơ
quan này lại không hề đơn giản. Vì vậy, để tránh tình trạng thiên lệch về quan
điểm này hoặc quan điểm kia hay cóp nhặt, sao chép máy móc, dập khn
cách thức, mơ hình tài phán của các nƣớc khác trong hoạt động bồi thƣờng
oan, sai do ngƣời của CQTHTTHS gây ra hoặc BTTH do hoạt động TTHS
gây ra, việc nghiên cứu thấu đáo, toàn diện các cơ sở lý luận và thực tiễn là
hoàn toàn cần thiết. Để làm đƣợc nhƣ vậy, đòi hỏi cần có sự tổng kết thực
tiễn, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm và mơ hình của các nƣớc, đánh giá,
rút kinh nghiệm từ công tác thực tiễn trong nƣớc. Đồng thời, nghiên cứu, luận
giải các vấn đề lý luận về cơ chế, quyền tài phán về bồi thƣờng oan, sai do
ngƣời của CQTHTTHS gây ra. Nhƣ vậy, mới có thể xây dựng một hệ thống
cơ quan tài phán và nguyên tắc tài phán đối với bồi thƣờng thiệt hại trong

hoạt động TTHS gây ra phù hợp với đặc điểm chính trị, kinh tế Việt nam và
thông lệ quốc tế.

25


×