Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.24 KB, 94 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



HUỲNH PHƢƠNG NAM




CHẾ ĐỊNH TÀI PHÁN
ĐỐI VỚI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ GÂY RA


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


HÀ NỘI – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
HUỲNH PHƢƠNG NAM LUẬT DÂN SỰ HÀ NỘI - 2012


2
KHOA LUẬT





HUỲNH PHƢƠNG NAM

CHẾ ĐỊNH TÀI PHÁN
ĐỐI VỚI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ GÂY RA

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Tiến sỹ Nguyễn Công Bình

HÀ NỘI - 2012


3

MỤC LỤC
Trang

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt



Mở đầu
1


Chương 1: Chương 1: Khái quát chung về chế định tài phán đối với bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
6
1.1
Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chế định tài phán đối với bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
6
1.2
Cơ sở của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra
15
1.3
Sơ lược sự hình thành và phát triển của chế định tài phán đối với
bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
19
1.4
Khái quát chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra của pháp luật một số nước trên thế giới
31

Chương 2: Nội dung chế định tài phỏn đối với bồi thường thiệt
hại trong hoạt động tố tụng hỡnh sự gõy ra của phỏp luật Việt
nam hiện hành
37
2.1
Các quy định hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người bị oan, sai do hoạt động tố tụng hình sự gây ra
37
2.2

Các quy định về thẩm quyền và thủ tục giải quyết bồi thường thiệt
hại cho người bị oan, sai do hoạt động tố tụng hình sự gây ra tại
Việt nam
47


4
2.2.1
Các quy định về thẩm quyền giải quyết bồi thường thiệt hại do
hoạt động tố tụng hình sự gây ra
48
2.2.2
Các quy định về thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại do hoạt
động tố tụng hình sự gây ra
49

Chương 3: Thực tiễn thực hiện chế định tài phỏn đối với bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hỡnh sự gõy ra và kiến
nghị
59
3.1
Thực tiễn thực hiện chế định tài phỏn đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hỡnh sự gõy ra
59
3.2
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định tài phán đối với bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
77
3.2.1
Về xây dựng pháp luật

77
3.2.2
Về thực hiện pháp luật
80

Kết luận
81

Danh mục tài liệu tham khảo
83











5






DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


CQĐT
Cơ quan điều tra
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
CQTHTTHS
Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
BLHS
Bộ luật hình sự
BLDS
Bộ luật dân sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
BTTH
Bồi thường thiệt hại
Nghị quyết 388
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11
LTNBTCNN
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TTDS
Tố tụng dân sự
TTHS
Tố tụng hình sự
VKSND
Viện Kiểm sát nhân dân



6
VKSNDTC
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa



7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền là
mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật, bất kể chủ thể đó là cá nhân, tổ
chức hay cơ quan Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là cơ quan Nhà nước
cũng phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do người thi hành công vụ của cơ
quan mình gây ra cho chủ thể khác trong xã hội.
Trong quá trình tiến hành tố tụng các vụ án hình sự, do nhiều nguyên
nhân khác nhau mà có thể có những vụ án oan, sai. Để khắc phục hậu quả từ
hành vi gây oan, sai đó từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật Việt
nam đã có quy định riêng về vấn đề này như Nghị quyết số 388/2003/NQ-
UBTVQH11. Tuy nhiên, quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều hạn chế, bất
cập như hiệu lực pháp lý không cao, văn bản chưa được xây dựng trên quan
điểm coi việc bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước nói chung mà chỉ coi
là trách nhiệm của cơ quan cụ thể có người gây thiệt hại khi thi hành công vụ.
Mặt khác, trong nhiều trường hợp, cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi

thường chưa xác định được rõ, chưa quy định được trách nhiệm phối hợp giải
quyết bồi thường của các cơ quan Nhà nước có liên quan; các loại thiệt hại và
mức bồi thường không được quy định rõ ràng, thống nhất gây khó khăn cho
công tác giải quyết bồi thường, bất lợi cho người bị thiệt hại Sự ra đời của
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ngày 18/6/2009 là một quá trình
đúc rút từ lý luận và thực tiễn công tác bồi thường của Nhà nước nói chung và
bồi thường oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng.
Mặc dù đã có các quy định của pháp luật về bồi thường cho người bị xử
lý oan, sai do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây
ra, nhưng các quy định này vẫn còn nhiều bất cập và đối tượng được xem xét
mới chỉ dừng lại ở bị oan, còn đối tượng của hành vi làm sai vẫn chưa được


8
xem xét triệt để. Bên cạnh đó, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc bồi
thường cũng chưa được quy định cụ thể, hợp lý. Việc giao cho Toà án xét xử
yêu cầu bồi thường thiệt hại do hoạt động tố tụng hình sự gây ra cũng đặt ra
những nghi ngại về sự thiếu khách quan khi các cơ quan tiến tố tụng có mối
quan hệ nhất định với nhau, và đặc biệt là khi Toà án phải xử chính mình
hoặc Toà án cấp trên của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu thiết lập một cơ quan
tài phán độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng và trình tự, thủ tục giải
quyết việc bồi thường để đảm bảo sự công bằng và khách quan khi giải quyết
yêu cầu bồi thường thiệt hại là hoàn toàn cần thiết. Với lý do đó, học viên đã
chọn đề tài “Chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố
tụng hình sự gây ra” làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý
nghiên cứu về bồi thường thiệt hại do hoạt động tiến hành tố tụng gây ra hoặc
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Ví dụ như:
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự” năm 1997 của tác giả
Lê Mai Anh - Trường Đại học Luật Hà nội;
- Luận án Tiến sỹ Luật học “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra” năm 2002 của tác giả Lê Mai
Anh - Trường Đại học Luật Hà nội;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước” năm 2006 của tác giả Lê
Thái Phương - Trường Đại học Luật Hà nội;
- Bài “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của
Tiến sỹ Phùng Trung Tập - Tạp chí Luật học số 10/2004; v.v.


9
Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của các công trình nghiên cứu nêu trên là
nhằm làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước nói riêng. Chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách
có hệ thống và toàn diện về chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại do
hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tài
phán trong việc bồi thường thiệt hại cho người bị xử lý oan, sai do hành vi
của người tiến hành tố tụng hình sự gây ra, làm rõ đặc điểm, nội dung và bản
chất của chế định này. Qua đó, phân tích làm rõ thực trạng pháp luật và thực
tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai do người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra, chỉ rõ những hạn chế, bất
cập và tìm ra các giải pháp để hoàn thiện chế định này nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác giải quyết bồi thường cũng như việc khắc phục tốt nhất
những hậu quả của hành vi gây oan, sai trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự.

Để đạt được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm
vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định tài phán nói
chung và chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tiến
hành tố tụng hình sự gây ra nói riêng; phân tích, so sánh, đánh giá các quy
định của chế định tài phán bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình
sự trong pháp luật hiện hành và khảo sát việc thực hiện các quy định này trên
thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về chế định tài
phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra; chế


10
định tài phán của pháp luật Việt Nam về tài phán đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và thực tiễn thực hiện trong những
năm gần đây. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với pháp
luật của một số nước về vấn đề này để đối chiếu, tham khảo.
“Chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng
hình sự gây ra” là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng. Trong phạm vi
nghiên cứu của một Luận văn Thạc sĩ Luật học, việc nghiên cứu chỉ tập trung
vào những vấn đề sau:
- Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chế định tài phán đối với bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
- Các nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm,
thẩm quyền và thủ tục giải quyết việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai
do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra.
- Thực tiễn thực hiện chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra trong những năm gần đây.
Ngoài ra, việc nghiên cứu còn được tiến hành đối với một số vấn đề về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai do người có thẩm

quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra để làm cơ sở cho việc
nghiên cứu chế định tài phán trong việc bồi thường này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quán
triệt quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam về cải cách tư pháp và xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu cũng được tiến hành với các phương pháp cụ thể như
phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp. Các nguồn thông tin, tư
liệu được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu đề tài này là


11
các bài viết, tham luận, báo cáo chuyên đề của các nhà khoa học pháp lý,
những người làm thực tiễn ở các cơ quan tư pháp và các cơ quan có liên quan.
6. Những điểm mới của đề tài
Đề tài này là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu tương đối toàn
diện và có tính hệ thống về chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu đã
làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận cơ bản về chế định tài phán đối với
bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra như khái niệm, đặc
điểm, vai trò và cơ sở của chế định tài phán.
Việc nghiên cứu cũng đã làm rõ được nội dung của chế định tài phán
đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Trên cơ sở
làm rõ luận cứ khoa học và thực tiễn thực hiện của chế định tài phán đối với
bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, việc nghiên cứu
đề tài đã tìm ra giải pháp, kiến nghị để sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật
hiện hành liên quan đến việc xây dựng hoàn thiện một cơ quan tài phán thực
sự độc lập và hoạt động có hiệu quả, nhằm bảo đảm việc bồi thường cho
người bị xử lý oan, sai do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng

hình sự gây ra được khách quan và đảm bảo công bằng xã hội.
7. Về kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về chế định tài phán đối với bồi thường
thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
- Chương 2: Nội dung chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra của pháp luật Việt nam hiện hành
- Chương 3: Thực tiễn thực hiện chế định tài phán đối với bồi thường
thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và kiến nghị



12
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH TÀI PHÁN
ĐỐI VỚI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ GÂY RA

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chế định tài phán đối với
bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
1.1.1. Khái niệm chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự thực
chất là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đối với hành vi gây
oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự. Để làm rõ khái niệm chế định tài
phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, trước
hết cần phải làm rõ một số thuật ngữ, khái niệm liên quan như oan, sai, bồi
thường và tài phán.
Trong Tiếng Việt, oan được hiểu là không làm mà phải chịu, bị quy cho
tội mà bản thân không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng

chịu [31, tr.749] hoặc là bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một
cách sai trái, vô lý [63, tr.1269]; sai được hiểu là không đúng, không hợp với
lẽ phải, lẽ công bằng [52, tr.786] hoặc không phù hợp với cái hoặc điều có
thật, mà có khác đi, chệch đi so với nhau, không khớp với nhau; không phù
hợp với yêu cầu khách quan, lẽ ra phải khác; không phù hợp với phép tắc,
những điều quy định [31, tr.843]. Trong tố tụng hình sự, oan là tình trạng của
một người không thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị các cơ quan tiến hành
tố tụng xác định họ phạm tội và thực hiện các biện pháp tố tụng bất lợi đối với
họ như khởi tố, tạm giam, truy tố, xét xử Sai trong tố tụng hình sự thì thể
hiện ở nhiều trường hợp, nhiều mức độ và nguyên nhân khác nhau. Việc điều


13
tra, truy tố, xét xử sai có cả nguyên nhân do vô ý, cố ý từ phía những người
tiến hành tố tụng, từ việc thiếu thận trọng, thiếu khách quan hay áp dụng sai
pháp luật, đánh giá sai lệch về chứng cứ hoặc sự kiện khách quan không bộc
lộ được đúng bản chất của vụ án Sai trong tố tụng hình sự có thể là quy kết
không đúng hành vi của người phạm tội hoặc tính chất, mức độ hành vi dẫn
đến việc đưa ra quan điểm xử lý, mức xử lý không phù hợp, không đầy đủ.
Tuy nhiên, sai cũng có thể là vô ý hay cố ý dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm hoặc
xử lý không đúng với bản chất hành vi, sự việc hoặc mức xử lý quá nhẹ so với
tính chất của nó. Cả oan và sai đều có thể gây thiệt hại về vật chất và tinh thần
cho đối tượng bị điều tra, truy tố, xét xử cũng như những người liên quan đến
vụ án. Nói đến đối tượng bị oan thì thường được hiểu đó là người bị pháp luật
xử lý không đúng, quá mức. Tuy nhiên, đối tượng của hành vi làm sai thì được
hiểu rộng hơn, bao gồm hầu hết mọi đối tượng liên quan đến vụ án, trong đó có
cả đối tượng bị oan. Nói cách khác, sự thiệt hại của cá nhân, tổ chức không chỉ
giới hạn khi họ vướng vào vòng tố tụng.
Theo ngôn ngữ Tiếng Anh, “bồi thường thiệt hại” và “đền bù tổn thất”
đều là “compensation”. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ tiếng Nhật hai khái niệm

này lại được phân biệt rõ ràng. Theo đó, đền bù được hiểu là biện pháp, cách
thức để hỗ trợ cho những mất mát, thiếu hụt; còn bồi thường là một nghĩa vụ
phải thực hiện để khắc phục một hậu quả do sự vi phạm gây ra [46]. Trong
ngôn ngữ Tiếng Việt, bồi thường được hiểu là sự đền bù những tổn hại đã gây
ra, còn đền bù là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao [63, tr.191, 623].
Hoặc theo cách giải thích khác thì bồi thường là đền trả lại các sự tổn hại [54,
tr.109]. Theo nghĩa Hán- Việt, bồi tức là đền, trả lại [49, tr.109]; thường là
đền bồi, thường tiền [49, tr.919]. Với các nghĩa đó, bồi thường được hiểu là
sự bù đắp, đền bù lại sự mất mát, thiệt hại bằng một giá trị vật chất khác có


14
giá trị tương xứng hoặc biểu trưng. Và như vậy, trong Tiếng Việt, không có
sự phân biệt rõ ràng giữa bồi thường và đền bù.
Thuật ngữ “tài phán” có nguồn gốc từ tiếng Latin là “jurisdictio”, trong
tiếng Anh là từ “jurisdiction” có nghĩa là tổng thể những quyền hạn của Toà
án hoặc cơ quan có thẩm quyền về việc đánh giá khía cạnh pháp lý của những
sự kiện cụ thể, trong đó có việc giải quyết tranh chấp và áp dụng chế tài.
Trong Tiếng Việt thì tài phán chỉ được hiểu đơn giản là phân xử, xét xử [54,
tr.830]. Và trong thuật ngữ pháp lý, tài phán cũng được hiểu đồng nghĩa với
xét xử [61, tr.865], có nghĩa là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý
của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ
việc đó, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản
chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc [61, tr.869]. Như vậy,
tài phán được hiểu là toàn bộ các hoạt động, hành vi của cơ quan hay cá nhân
có thẩm quyền theo luật định trong việc giải quyết các vụ việc tranh chấp
pháp lý. Quyền tài phán là quyền năng theo pháp luật, phù hợp với pháp luật
và được pháp luật bảo hộ. Hiện nay, có hai cách hiểu cơ bản về khái niệm tài
phán:
Cách hiểu thứ nhất, coi tài phán chỉ là hoạt động xét xử các tranh chấp

pháp lý giữa các chủ thể có yêu cầu và Toà án có thẩm quyền giải quyết theo
một trình tự tố tụng. Theo cách hiểu này thì tài phán đồng nghĩa với xét xử.
Cách hiểu thứ hai, coi tài phán là toàn bộ các hoạt động xem xét, đánh
giá và đưa ra phán quyết về một vụ việc tranh chấp pháp lý, có thể bao gồm
cả việc xem xét lại cơ chế giải quyết liên quan đến tranh chấp của cơ quan
khác trước đó (Ví dụ như việc Toà án xem xét lại quy trình và nội dung giải
quyết khiếu nại trong vụ kiện hành chính). Quyền tài phán không chỉ được
trao cho cơ quan Toà án mà còn được trao cho một số cơ quan chức năng


15
khác thực hiện theo luật định (cơ quan hành chính, thanh tra, trọng tài…).
Theo cách hiểu này thì khái niệm tài phán rộng hơn khái niệm xét xử.
Quyền tài phán thể hiện quyền năng của chủ thể được pháp luật trao
quyền giải quyết tranh chấp pháp lý. Cũng có loại quyền năng không phải do
pháp luật trực tiếp đặt ra hoặc trao quyền mà do quy phạm pháp luật cho phép
cá nhân, tổ chức liên quan thiết lập. Hiện nay, trên thế giới tồn tại các khái
niệm mô hình tổ chức tài phán điển hình như tài phán hiến pháp, tài phán
hành chính và tài phán tư pháp.
Tài phán hiến pháp được hiểu là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các đạo luật do cơ quan lập pháp ban
hành. Ở Mỹ và Anh, khái niệm này thường dùng thuật ngữ “jusdical review”-
nghĩa là kiểm tra tư pháp. Tuỳ theo điều kiện của từng nước mà có mô hình
tài phán bảo hiến khác nhau như có thể giao cho Toà án tư pháp xem xét văn
bản đã được ban hành khi có tranh chấp hay theo sự kiện pháp lý cụ thể
(American model) hay giao cho nghị viện phê chuẩn văn bản trước khi được
Tổng thống phê chuẩn (French model) hay thành lập cơ quan chuyên trách để
kiểm tra (European model) hoặc trao thẩm quyền hỗn hợp vừa do Toà án bảo
hiến giải quyết, cũng có thể do Toà án khác giải quyết đối với từng vụ việc cụ
thể (Mixed model) [3].

Tài phán hành chính được hiểu là hoạt động giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong việc thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước hay các
tranh chấp nảy sinh trong quá trình điều hành, quản lý của các cơ quan hành
chính nhà nước, trong đó chủ yếu là việc xem xét phán quyết về tính đúng
đắn, tính hợp pháp của các quyết định hay hành vi quản lý của cơ quan quản
lý nhà nước và công chức nhà nước với tư cách là các chủ thể quản lý, mang
trách nhiệm công vụ.


16
Và mô hình tài phán chung nhất là tài phán tư pháp, thực hiện hoạt
động xét xử những vụ việc về hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại Theo
đó, đối tượng của tài phán tư pháp rất rộng, bao trùm mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, gồm cả quan hệ giữa công dân, tổ chức với nhau trong lĩnh vực dân
sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, lao động và quan hệ giữa nhà nước và
công dân trong lĩnh vực hình sự. Tuy nhiên, tài phán tư pháp không thể có
thẩm quyền truy tố cơ quan công quyền và các nhà chức trách hành chính
trong việc nó thực thi chức năng quản lý nhà nước theo công pháp và theo
pháp luật hành chính, trừ trường hợp cá nhân người thi hành công vụ vi phạm
pháp luật về dân sự, hình sự…).Vì vậy, có quan điểm cho rằng, tài phán tư
pháp là tài phán của nhà nước đối với dân.
Chế định hay chế định pháp luật hoặc định chế pháp luật là tập hợp một
nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm quan
hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế
định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng
là các yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng
thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.

Từ những phân tích nêu trên, có thể kết luận: Chế định tài phán đối với
bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra là tổng hợp các

quy định pháp luật về cơ chế hoạt động của cơ quan có thẩm quyền trong việc
giải quyết yêu cầu về bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây oan, sai của
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự
gây ra mà nội dung của nó là tài phán trong việc BTTH cho người bị oan, sai
do người có thẩm quyền của CQTHTTHS gây ra mang tính đặc thù khác với


17
các tài phán khác bởi chủ thể tham gia tố tụng- người bị kiện chính là
CQTHTT, kể cả là Toà án- một cơ quan có chức năng tài phán. Do vậy, để
giải quyết được đúng đắn và triệt để yêu cầu của người bị thiệt hại, chế định
tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có
các đặc điểm sau:
Thứ nhất, có tính quyền lực
Hoạt động tài phán trong việc bồi thường thiệt hại do hoạt động TTHS
gây ra chỉ do các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
tiến hành. Cơ quan tài phán phải được Nhà nước trao quyền, thể hiện ý chí,
quyền lực Nhà nước, phán quyết phải được đảm bảo thực thi bằng cưỡng chế
nhà nước, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công dân và bù
đắp những thiệt hại vật chất và tinh thần mà người bị oan, sai phải gánh chịu,
đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Trong quá trình tiến hành hoạt động
tài phán, chủ thể có thẩm quyền nhân danh quyền lực nhà nước, sử dụng
quyền lực nhà nước để ban hành ra những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt
buộc các chủ thể khác có liên quan phải tôn trọng chấp hành hoặc thực hiện.
Đây là ý chí đơn phương của chủ thể tiến hành tài phán có thẩm quyền trên cơ
sở pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể khác tham gia. Đồng
thời, hoạt động tài phán này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình

tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ như thực hiện theo một
trình tự tố tụng riêng hoặc theo trình tự tố tụng dân sự do pháp luật hiện hành
quy định.
Thứ hai, có tính trọng tài
Cơ quan tài phán phải có thực quyền trong phán xử, quyết định trên cơ
sở sự độc lập, khách quan. Sự độc lập ở đây là không chịu bất cứ sự ràng
buộc hay can thiệp nào để làm ảnh hưởng đến sự đánh giá, nhận định và phán
quyết đối với công việc mà mình phải phân xử. Sự khách quan được thể hiện


18
ở cách đánh giá phù hợp với chứng cứ khách quan theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, đảm bảo khách quan và tôn trọng sự thật khách quan có nhiều
cách hiểu khác nhau (mối liên hệ giữa sự thật và nghĩa vụ chứng minh sự thật;
người đúng chưa hẳn đã chứng minh được là mình đúng ). Nói đến khách
quan là nói đến những gì tồn tại độc lập ngoài ý thức con người, không phụ
thuộc vào ý thức con người. Tính khách quan là dựa vào các nguồn tài liệu,
chứng cứ có thể nhận biết xác thực được, giúp cho có cái nhìn đúng đắn về
bản chất hoặc diễn biến sự việc, không bị tác động bởi những yếu tố ngoài
căn cứ pháp luật.
Thứ ba, có tính công bằng
Cơ quan tài phán đưa ra phán quyết phải công minh, khách quan, phù
hợp với thiệt hại thực tế, cả về vật chất và tinh thần. Tính công bằng là yêu
cầu cao nhất của bất kỳ hoạt động tài phán. Nó đòi hỏi không có sự thiên vị,
định kiến trong phán xử. Chính sự công bằng của phán quyết mới tạo cho các
bên tự giác thi hành. Tuy nhiên, khái niệm công bằng cũng chỉ là tương đối
bởi trong quan hệ pháp luật bồi thường nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước
và công dân thường không bình đẳng về mọi mặt. Đó là sự tương quan giữa
kẻ yếu và kẻ mạnh. Vì vậy, sự công bằng chính là quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của kẻ yếu cần phải được pháp luật tôn trọng hơn, và hành vi lạm quyền,

vi phạm của kẻ mạnh càng phải được xử lý trách nhiệm triệt để hơn.
Thứ tư, có tính nhân đạo
Con người luôn là vị trí trung tâm, là mục tiêu và động lực của mọi
chính sách, đường lối phát triển trong xã hội. Với nhận thức về vị thế của con
người, vấn đề đảm bảo quyền con người, quyền cơ bản của công dân cần phải
được coi trọng và đặt lên hàng đầu. Trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm thực hiện
các quyền dân sự, chính trị của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp, rất


19
nhiều đạo luật khác được ban hành làm công cụ pháp lý quan trọng để bảo
đảm các quyền dân sự của công dân.
Trong hoạt động tiến hành tố tụng hình sự, oan, sai là hiện tượng vẫn
xảy ra với nhiều nguyên nhân khác nhau, xâm phạm đến quyền cơ bản của
công dân được pháp luật bảo hộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, tinh
thần, tài sản của người bị thiệt hại. Việc giải quyết bồi thường oan, sai trong
hoạt động TTHS chính là việc khắc phục phần nào thiệt hại do hành vi làm
oan, sai gây ra, bảo đảm các quyền dân sự của công dân mà pháp luật ghi
nhận và mọi phán quyết công bằng, hợp lý, đúng pháp luật chính là nhằm bảo
vệ quyền con người.
Thứ năm, có tính chuyên môn hóa
Lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật của các nước văn minh, tiến bộ
đã chứng minh sự độc lập trong hoạt động tư pháp là biểu hiện đặc trưng của
Nhà nước pháp quyền và nền tư pháp dân chủ, bình đẳng và công bằng và bảo
vệ hữu hiệu các quyền con người, quyền công dân [60]. Việc giải quyết yêu
cầu về BTTH do hoạt động TTHS gây oan, sai thường rất phức tạp. Vì vậy,
hoạt động giải quyết yêu cầu này của cơ quan tài phán đòi hỏi phải có tính
chuyên môn hóa và phải độc lập trong phán quyết, không chịu sự chi phối của
cơ quan, tổ chức khác và chỉ tuân theo pháp luật. Điều này đòi hỏi một cơ chế
để xây dựng mô hình, cơ cấu tổ chức tài phán và tiêu chuẩn người thực thi

quyền tài phán. Đây là vấn đề thường chỉ đặt ra trong lý thuyết, trên thực tế
thường khó đạt được tuyệt đối bởi các sự ảnh hưởng của các yếu tố chính trị,
quan hệ địa phương, quan hệ ngành Các yếu tố này có sự ảnh hưởng rất lớn
đến đường lối xét xử, đường lối giải quyết và kết quả của phán quyết, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng của đương sự trong vụ
án.


20
1.1.3. Vai trò của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động TTHS
gây ra là tập hợp các quy phạm pháp luật tố tụng quy định về hoạt động tài
phán trong việc giải quyết yêu cầu BTTH cho người bị xử lý oan, sai do
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra. Chế định
này có tác dụng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết
yêu cầu đòi BTTH đối với hành vi gây oan, sai của cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự thông qua việc quy định cụ thể trình tự, thủ tục yêu cầu, giải quyết
yêu cầu, nguyên tắc giải quyết yêu cầu, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia.v.v tạo hành lang pháp lý cho việc giải quyết yêu cầu của đương
sự.
Như các chế định pháp luật khác, trước hết chế định tài phán đối với
bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra sẽ bảo đảm cho
người bị xử lý oan, sai thực hiện được việc yêu cầu BTTH. Vì thế, bảo vệ
được quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công dân bị thiệt hại bởi hành vi tố
tụng, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền. Bên cạnh đó, chế định này
sẽ tạo ra cơ chế giải quyết của cơ quan có thẩm quyền đối với yêu cầu BTTH,
làm cho việc giải quyết được thuận lợi, nhanh chóng và thỏa đáng. Qua đó,
chế định này cũng xác định rõ được hậu quả thiệt hại, làm cơ sở để cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm khắc phục những thiệt hại mà người

bị xử lý oan, sai và gia đình họ phải gánh chịu, cũng như là cơ sở để yêu cầu
người gây thiệt hại phải hoàn trả CQTHTT. Như vậy sẽ đề cao trách nhiệm,
sự tôn trọng pháp luật, tính chịu trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, hạn
chế sự lạm quyền và các hành vi vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng
hình sự, hạn chế oan, sai, đảm bảo công bằng xã hội. Từ đó cũng bảo vệ được
uy tín của Nhà nước, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa.


21
1.2. Cơ sở của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra
1.2.1 Cơ sở lý luận của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Lý do xác định thiệt hại do người của CQTHTTHS gây ra thuộc trách
nhiệm của CQTHTT đó vì mặc dù các hành vi tố tụng gây thiệt hại cho người
tham gia tố tụng đều do cá nhân người tiến hành tố tụng gây ra nhưng họ thực
hiện hành vi đó trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ mà CQTHTTHS giao,
và nhân danh CQTHTTHS trong hoạt động tố tụng. Do vậy, về mặt lý luận,
đây là loại trách nhiệm pháp lý BTTH ngoài hợp đồng mà chủ thể chịu trách
nhiệm là chủ thể đặc biệt- Nhà nước. Người bị thiệt hại là cá nhân, cơ quan,
tổ chức đã tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ
án hình sự.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII (ngày 23/01/1995) về đổi mới hoạt động của cơ quan tư pháp khẳng định
rõ yêu cầu: “đối với việc bắt giữ, xét xử oan sai cần truy cứu trách nhiệm của
những người ra lệnh và người thừa hành, đồng thời minh oan công khai, thoả
đáng đối với người bị bắt giữ, xét xử oan sai, đảm bảo quyền công dân đúng
pháp luật.” [8]
Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ chính trị nêu rõ: “Việc

bồi thường thiệt hại cần được thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với những
trường hợp cụ thể”.[8]
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/016/2002 của Bộ chính trị đặt ra nhiệm
vụ cấp bách là: “Khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các
văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị oan,


22
sai trong hoạt động tố tụng; nghiên cứu xây dựng Quỹ bồi thường thiệt hại về
tư pháp.” [6]
Từ đó, nguyên tắc trách nhiệm của CQTHTT phải bồi thường cho
người bị oan, sai và bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra cũng được ghi nhận tại các điều 29, 30 của
BLTTHS 2003 [38].
Tuy là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nhưng việc giải quyết yêu
cầu đòi BTTH của người bị oan, sai trong tố tụng hình sự có nhiều điểm khác
biệt so với việc giải quyết các yêu cầu đòi BTTH ngoài hợp đồng khác bởi
chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường là Nhà nước, người gây thiệt hại là người
thực hiện nhiệm vụ do cơ quan Nhà nước giao. Do vậy, đòi hỏi phải có những
quy định mang tính đặc thù mới bảo đảm việc giải quyết yêu cầu BTTH được
công bằng và đúng pháp luật.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn của chế định tài phán đối với bồi thường thiệt
hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Thực tiễn giải quyết BTTH cho người bị oan, sai trong hoạt động
TTHS cho thấy có nhiều bất cập dẫn đến việc giải quyết không đảm bảo
khách quan, không thỏa đáng và không bù đắp được những gì mà người bị
oan, sai phải gánh chịu. Thiệt hại do hành vi gây oan, sai bao gồm cả vật chất
và tinh thần và người bị oan đồng thời là người bị thiệt hại. Thế nhưng, người
bị thiệt hại không nhất thiết lúc nào cũng đồng thời là người bị oan. Khái
niệm “người bị thiệt hại” cần được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là cá nhân

mà còn có thể là cơ quan, tổ chức. Người bị thiệt hại không nhất thiết phải là
người tham gia tố tụng mà có thể là người khác gián tiếp chịu thiệt hại do
hành vi gây oan, sai đó gây ra (Ví dụ như: bố bị bắt oan làm con thất học, gia
đình ly tán; Giám đốc bị bắt dẫn đến hoạt động của công ty bị đình trệ, thất
thu hoặc phá sản ).


23
Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy có sự khác biệt rất rõ nét trong quan
niệm về tranh chấp. Người ta thường nói đến sự tranh chấp giữa công dân, tổ
chức với nhau mà ít khi coi việc xung đột quyền lợi giữa một bên là Nhà nước
với một bên là công dân, cơ quan, tổ chức là tranh chấp. Tuy nhiên, trong
quan hệ BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH do hành vi gây oan, sai
của người tiến hành tố tụng gây ra, mà bên gây thiệt hại nhân danh Nhà nước,
bên bị thiệt hại là công dân, cơ quan, tổ chức và nếu không thỏa thuận được
cách thức giải quyết và mức bồi thường thì xung đột đó chính là sự tranh
chấp. Sự nhận thức đó xuất phát từ sự mất cân bằng về địa vị xã hội của mỗi
bên, mặc dù địa vị pháp lý trong lý luận về quan hệ pháp luật BTTH ngoài
hợp đồng là ngang nhau. Và chính sự mất cân bằng đó tạo sự bất bình đẳng
trong quan hệ đối xử khi cơ quan Tòa án- cũng là cơ quan Nhà nước- phải
thực hiện nhiệm vụ phán xét, phân xử đối với CQTHTT khác hoặc đối với
chính mình.
Pháp luật do Nhà nước ban hành. Tòa án cũng do Nhà nước thành lập,
tổ chức. Thẩm phán- những người “cầm cân nảy mực” của Tòa án cũng là
người của Nhà nước do được bổ nhiệm, tuyển dụng và hưởng lương từ Ngân
sách Nhà nước. Khi xét xử họ cũng phải áp dụng các quy định của pháp luật
do Nhà nước ban hành. Như vậy, cơ quan xét xử, người thực thi nhiệm vụ xét
xử là đương nhiên phải chịu sự chi phối, ảnh hưởng của Nhà nước. Thế
nhưng, khi mà Nhà nước là bên gây thiệt hại, có trách nhiệm bồi thường với
bên bị thiệt hại là công dân, tổ chức khác thì sự chi phối này sẽ dẫn đến sự

thiếu khách quan, thiên vị về phía Nhà nước. Và đặc biệt là trong tố tụng hình
sự, những thiệt hại gây ra cho các cá nhân, tổ chức lại xuất phát từ chính các
CQTHTT, mà trong đó có cả Tòa án- cơ quan xét xử và Viện kiểm sát- cơ
quan có cả chức năng kiểm sát hoạt động xét xử. Với một bên là Nhà nước
với mối quan hệ của các cơ quan nhà nước như vậy, thực tiễn đã cho thấy


24
thường có sự đùn đẩy, né tránh giữa các cơ quan THTT có người gây ra oan,
sai, tạo khó khăn hơn cho người yêu cầu bồi thường. Do vậy, yêu cầu bồi
thường của bên bị thiệt hại do người có thẩm quyền của CQTHTTHS gây ra
thường không được giải quyết thỏa đáng và đặc biệt là về vật chất có sự
chênh lệch rất lớn trong mức yêu cầu so với mức bồi thường trong phán quyết
của Tòa án. Đây chính là vấn đề dư luận vẫn đang bức xúc trong quá trình
giải quyết BTTH đối với các hành vi gây oan, sai và nhất là là giải quyết hậu
quả của các vụ án oan trong thời gian qua.
***
Tóm lại, qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, có thể khẳng định cần
thiết phải thành lập một cơ quan tài phán với một cơ chế tài phán riêng biệt về
BTTH trong hoạt động TTHS theo yêu cầu của người bị xử lý oan, sai do
người có thẩm quyền của CQTHTTHS gây ra. Thế nhưng, cơ sở lý luận và
thực tiễn vững chắc nào để xác định sự độc lập hay thuộc hệ thống nào cho cơ
quan này lại không hề đơn giản. Vì vậy, để tránh tình trạng thiên lệch về quan
điểm này hoặc quan điểm kia hay cóp nhặt, sao chép máy móc, dập khuôn
cách thức, mô hình tài phán của các nước khác trong hoạt động bồi thường
oan, sai do người của CQTHTTHS gây ra hoặc BTTH do hoạt động TTHS
gây ra, việc nghiên cứu thấu đáo, toàn diện các cơ sở lý luận và thực tiễn là
hoàn toàn cần thiết. Để làm được như vậy, đòi hỏi cần có sự tổng kết thực
tiễn, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm và mô hình của các nước, đánh giá,
rút kinh nghiệm từ công tác thực tiễn trong nước. Đồng thời, nghiên cứu, luận

giải các vấn đề lý luận về cơ chế, quyền tài phán về bồi thường oan, sai do
người của CQTHTTHS gây ra. Như vậy, mới có thể xây dựng một hệ thống
cơ quan tài phán và nguyên tắc tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong
hoạt động TTHS gây ra phù hợp với đặc điểm chính trị, kinh tế Việt nam và
thông lệ quốc tế.


25
1.3. Sơ lược sự hình thành và phát triển của chế định tài phán đối
với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
1.3.1. Giai đoạn trước năm 2003
Ở chế độ phong kiến, quân chủ chuyên chế, Nhà nước không chịu bất
kỳ loại trách nhiệm pháp lý nào đối với người dân của họ. Vua là người đứng
đầu nhà nước và có quyền quyết định tối cao và không giới hạn về mọi vấn đề
trong xã hội như chính trị, quân sự, kinh tế và tôn giáo. Quyền lực nhà nước
cũng chính là quyền lực của Nhà Vua. Dưới chế độ này, mặc dù vấn đề trách
nhiệm của nhà nước hay Vua trước hành vi sai trái của quan lại không được
đặt ra nhưng vấn đề xử lý trách nhiệm của quan lại gây oan, sai đối với dân
chúng cũng được ban hành trong từng trường hợp cụ thể hoặc bằng việc
ban hành luật lệ. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này cũng chưa có sự phân
định rõ ràng giữa dân sự và hình sự, giữa cơ quan tài phán và cơ quan quản
lý hành chính.
Ngay từ thời Lê sơ (thế kỷ XV), nguyên tắc tránh gây oan sai cũng đã
được hình thành. Điều 677 Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật- 1483)
quy định: “Khi lấy khẩu cung người phạm tội, quan tra phải xem xét kỹ tìm ra
sự thật, để cho kẻ phạm phải nhận tội, không được hỏi quá rộng đến cả người
ngoài để tìm chứng cứ bậy.” Điều 237 Bộ luật này cũng đặt ra trách nhiệm
của người làm oan, sai cho người khác mà không chịu khắc phục hậu quả:
“Những ty quan làm việc có điều lầm lỗi, sự tình đã rõ ràng mà không chịu
phục tình tạ lỗi, lại còn dối trá che đậy, xét tội nhẹ thì xử biếm hay tội đồ,

nặng thì xử lưu”. Như vậy có thể thấy rằng, ngay từ thời kỳ này, mặc dù
không quy định chi tiết về trách nhiệm bồi thường của các quan lại điều tra,
xét xử sai nhưng Luật này cũng đã đưa ra mức xử lý đối với người không chịu
bồi thường, không chịu “phục tình tạ lỗi”. Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là những vấn

×