Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Hình phạt tù và thi hành hình phạt tù những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.17 KB, 127 trang )

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang

1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.

2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.

3.1.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TÙ
VÀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Khái niệm và mục đích của hình phạt tù
Bản chất pháp lý và điều kiện áp dụng hình phạt tù
Khái niệm, mục đích và bản chất của thi hành hình phạt tù


Điều kiện, trình tự thủ tục thi hành hình phạt tù
Điều kiện thi hành hình phạt tù
Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tù
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ VÀ
THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT AN
Sơ lược quá trình phát triển các quy định pháp luật về hình
phạt tù và thi hành hình phạt tù từ năm 1945 đến nay
Quá trình phát triển các quy định về hình phạt tù trong luật
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay
Quá trình phát triển các quy định pháp luật về thi hành hình
phạt tù từ năm 1945 đến nay
Thực trạng áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù ở
Việt Nam
Thực trạng áp dụng hình phạt tù ở Việt Nam
Thực trạng thi hành hình phạt tù ở Việt Nam
Chương 3 : QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ
VF THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hình phạt tù và thi hành
hình phạt tù
Giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
hình phạt tù và thi hành hình phạt tù
Những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
hình phạt tù
Những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
hình phạt tù
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

10
10
15
25
31
25
37
41
41
41
53
72
72
90
99

99
101
101
112
120
123


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ, trật tự xã hội, Nhà nước ta
dùng nhiều biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, pháp lý… vừa có
tính thuyết phục, vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh với những hành vi vi

phạm pháp luật và tội phạm. Các biện pháp này đan xen hỗ trợ nhau và tùy
thuộc vào yêu cầu cụ thể của công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong từng thời kỳ mà biện pháp này hay biện pháp kia được đặt lên hàng đầu.
Trong các biện pháp đấu tranh đó, hình phạt tuy không phải là biện pháp đầu
tiên, biện pháp quyết định, nhưng nó giữ một vai trị rất quan trọng.
Hình phạt là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được qui định
trong luật hình sự, do Tịa án áp dụng đối với người phạm tội theo thủ tục do
luật định, để tước hoặc hạn chế một số quyền hay lợi ích đối với người bị kết
án. Hình phạt có mục đích giáo dục, cải tạo người bị kết án trở thành người có
ích cho xã hội, có ý thức tn theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống xã
hội, phòng ngừa họ phạm tội mới và phòng ngừa những người khác phạm tội
(thực hiện việc răn đe và phịng ngừa chung). Hình phạt cịn giáo dục mọi
người tơn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Trong lịch sử pháp luật hình sự các nước trên thế giới, lịch sử pháp
luật Việt Nam, hình phạt đã thực sự trở thành cơng cụ, một phương thức có
hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Nhà nước coi hình
phạt như là một cơng cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của xã hội của Nhà nước.
"Hình phạt khơng phải là một cái gì khác ngồi phương tiện để tự bảo vệ
mình của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó" (C.Mác).
Tuy nhiên, trong các thời đại khác nhau, ở các kiểu nhà nước khác
nhau, hình phạt được quan niệm và sử dụng ở mức độ và những xu hướng

1


cũng khác nhau tùy thuộc vào bản chất của giai cấp thống trị, giai cấp cầm
quyền, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý và
truyền thống của mỗi nước, mỗi dân tộc. Nhìn chung ở các thời đại trước và ở
các xã hội có chế độ bóc lột thì hình phạt được sử dụng ở mức độ rất nghiêm
khắc và nhằm mục đích trừng phạt là chính. Ngược lại, ở nhà nước xã hội chủ

nghĩa, hình phạt vẫn được coi là cơng cụ hữu hiệu để đấu tranh chống tội
phạm, tính nghiêm khắc và sự trừng phạt của hình phạt vẫn được duy trì,
nhưng mục đích khơng để trừng phạt người phạm tội mà là giáo dục cải tạo
người phạm tội.
Từ trước đến nay có nhiều cơng trình khoa học trong và ngồi nước đề
cập đến hình phạt, hệ thống hình phạt. Tuy nhiên, việc nghiên cứu diễn ra ở
nhiều cấp độ, bình diện khác nhau, chưa có cơng trình nghiên cứu chun sâu,
tồn diện về hình phạt tù. Bên cạnh đó, thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp
luật hình sự Việt Nam đã và đang gặp khơng ít những vướng mắc khi quy
định và áp dụng hình phạt tù. Việc xác định ý nghĩa xã hội - pháp lý cũng như
hiệu quả hình phạt nói chung, trong đó có hình phạt tù cũng là một vấn đề nan
giải, điều đó được chứng minh trên thực tế rằng không phải cứ áp dụng hình
phạt thật nặng thì tội phạm sẽ giảm.
Hơn nữa, trong thời gian qua, việc nghiên cứu pháp luật hình sự chưa
làm rõ những dấu hiệu căn bản của từng hình phạt tù, vai trị và khả năng của
nó trong việc giáo dục chung, phòng ngừa riêng trong tổng thể các hình phạt
được pháp luật qui định cũng như trong các biện pháp đấu tranh phịng chống
tội phạm nói chung, đáp ứng được yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của
nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta.
Hiện nay, đất nước ta trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng hội nhập và giao lưu quốc tế thì hình
phạt tù cần được nghiên cứu để làm rõ mục đích tính chất, tác dụng, hiệu quả
của hình phạt tù, quy định đầy đủ các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm;

2


quy định khung hình phạt tương xứng với từng tội phạm cụ thể; làm rõ điều
kiện áp dụng và thi hành hình phạt tù. Từ đó, cần đề ra những kiến nghị có cơ sở
khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tù.

Xét xử đúng, khách quan là vô cùng quan trọng song các bản án không
thi hành được hoặc thi hành khơng đúng thì lao động của tồn bộ hệ thống cơ
quan điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác mất hết ý
nghĩa. Thi hành hình phạt tù là hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo hiệu lực
của các bản án, quyết định của Tịa án góp phần đảm bảo quyền con người,
quyền cơng dân; đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Hiệu lực và hiệu
quả của toàn bộ hệ thống tư pháp thể hiện ở giai đoạn thi hành án. Đây là hoạt
động hành chính tư pháp phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội, đặc biệt là quyền của con người, do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phối hợp tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định phạt
tù của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Tuy nhiên,
thi hành án phạt tù hiện nay còn chưa được nhận thức một cách thống nhất.
Thực tiễn thi hành hình phạt tù vẫn cịn nhiều tồn tại như: Bản án, quyết định
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành; người bị kết
án tù, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng họ vẫn chưa đi chấp hành hình
phạt tù tại trại giam; việc quản lý người bị kết án được hoãn hay tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù cịn để xảy ra nhiều đối tượng lợi dụng bỏ trốn. Công
tác quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân trong các trại giam còn nhiều yếu
kém, sơ hở, vi phạm, để phạm nhân phạm tội trong trại giam, trốn trại vẫn còn
xảy ra, nhiều đối tượng sau khi ra khỏi trại giam đã gây ra những vụ án nghiêm
trọng; việc hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân và cơng tác tái hịa nhập
cộng đồng chưa thực hiện tốt, đặc biệt là chưa được xã hội hóa dẫn đến tỷ lệ tái
phạm trong số những người đã chấp hành xong hình phạt tù còn khá cao (18%).
Các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù cịn chưa được
ban hành một cách kịp thời nhằm cụ thể hóa chủ trương chính sách của Đảng
về tổ chức thi hành án hình sự theo hướng tập trung, thống nhất; chưa sửa đổi,

3



bổ sung cho phù hợp, nhiều văn bản được ban hành đã hết hiệu lực nhưng
thực tiễn vẫn phải áp dụng; nhiều quy định cịn khơng phù hợp với thực tiễn.
Nghiên cứu về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù gắn liền với nhu
cầu hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành
án hình sự trong cải cách tư pháp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02-6-2005 của Bộ Chính trị đã đặt ra vấn đề cải cách các cơ quan tư pháp,
trong đó có cơ quan thi hành án theo hướng xây dựng mơ hình thống nhất, tập
trung quản lý công tác thi hành án; đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tiếp tục chỉ ra phương hướng đổi
mới cơ quan tư pháp: "Kiện toàn các tổ chức thi hành án, đảm bảo thi hành
đầy đủ, nhanh chóng các bản án và quyết định của Tòa án…chấn chỉnh các
trại giam để giáo dục, cải tạo tốt phạm nhân". Các quan điểm chỉ đạo có ý
nghĩa rất quan trọng, thơng qua đó để làm rõ hơn chính sách hình sự của Nhà
nước ta, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các hành vi phạm tội, củng cố
pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên nói lên tính cấp thiết của việc
nghiên cứu đề tài: "Hình phạt tù và thi hành hình phạt tù - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn" và cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài này làm luận
văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình khoa học, sách báo pháp lý
chuyên ngành trong nước nghiên cứu ở các mức độ và các bình diện khác
nhau về đề tài hình phạt và hệ thống hình phạt như: "Hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam" của tập thể tác giả Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ

4



Tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995; "Tội phạm học, luật hình sự
và tố tụng hình sự" của tập thể tác giả do GS, TSKH Đào Trí Úc chủ biên,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995; Luận án tiến sĩ Luật học: "Các hình
phạt chính trong luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Sơn; một số luận văn
thạc sĩ Luật học viết về đề tài hình phạt như: "Hệ thống hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam" của Nguyễn Văn Vĩnh; "Hệ thống hình phạt trong luật
hình sự nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Đặng Đức Thạo;
"Những vấn đề về hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam" của
Nguyễn Phi Hùng; "Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam" của Lê
Văn Hường… Ngồi ra cũng có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành về vấn đề này.
Đề tài thi hành hình phạt tù đã được nghiên cứu trong một số cơng
trình khoa học như: Sách chuyên khảo "Pháp luật thi hành án hình sự Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", của GS.TS. Võ Khánh Vinh và
PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng; "Xây dựng mơ hình thống nhất cơng tác thi
hành án", của Hồng Thọ Khiêm, đề tài khoa học, 1996; "Thực trạng pháp
luật thi hành án phạt tù và phương hướng hoàn thiện" của Tiến sĩ Phạm Văn
Lợi đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02/2006; Luận án tiến sĩ
Luật học: "Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự"
của Vũ Trọng Hách; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Thi hành hình phạt tù" của
Nguyễn Văn Nông; "Bảo đảm quyền con người trong thi hành án phạt tù ở
Việt Nam hiện nay" đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 04/2007 v.v...
và một số bài viết trên các tạp chí chun ngành.
Nhìn chung, các cơng trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu có tính
chất tổng thể hoặc là về những vấn đề chung của hệ thống hình phạt, hoặc là
về một hình phạt cụ thể nào đó, hay nghiên cứu về cơng tác thi hành án hình
sự. Nhưng cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách
chun sâu, tồn diện và có hệ thống về mặt lý luận cũng như thực tiễn về

hình phạt tù và thi hành hình phạt tù trên cả ba bình diện: lập pháp, áp dụng

5


pháp luật và thi hành án, để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập
pháp về vấn đề này trên phương diện tổng thể cho phù hợp với đặc điểm, điều
kiện của Việt Nam. Vì vậy sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nếu có một cơng
trình nghiên cứu đề tài này ở cả ba bình diện nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi và thời gian nghiên
cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của hình phạt tù, thi hành hình phạt tù theo pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự và thi hành án hình sự Việt Nam, từ đó xác định những bất cập, hạn
chế để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù nhằm đảm bảo công lý,
công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nói trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Bằng cách tiếp cận tổng thể từ cái chung đến cái cụ thể, đi từ lý luận
đến đánh giá thực tiễn xét xử, tác giả làm rõ khái niệm, mục đích của hình
phạt tù, vai trị ý nghĩa, bản chất pháp lý của hình phạt tù.
- Làm rõ các vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tù như khái niệm;
các điều kiện thi hành hình phạt tù; trình tự thủ tục thi hành hình phạt tù.
- Đánh giá thực trạng áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù
nhằm làm rõ những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của nó.
- Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước về hình phạt tù và
thi hành hình phạt tù, luận văn đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần nâng

cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù.

6


3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn của hình phạt tù và thi hành hình phạt tù theo pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự và thi hành án hình sự Việt Nam, cụ thể là: khái niệm, mục đích, bản
chất của hình phạt tù; khái niệm, bản chất, các điều kiện, trình tự thi hành
hình phạt tù…
Nêu ra những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng hình phạt tù và thi
hành hình phạt tù ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu những tiến bộ
trong việc áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù của một số nước trên
thế giới, qua đó nêu lên quan điểm, yêu cầu và các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt
tù và thi hành hình phạt tù theo pháp luật hình sự và pháp luật thi hành án
hình sự Việt Nam, đồng thời luận văn cũng có đề cập tới một số quy phạm
của luật tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối
tượng nghiên cứu.
Do điều kiện về thời gian, trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ luật
học nên tác giả chỉ nghiên cứu hình phạt tù có thời hạn và việc thi hành hình
phạt này trong thực tiễn. Kinh nghiệm nước ngoài về vấn đề này sẽ được lồng
ghép trong mục 2.2.2 của chương 2 và mục 3.2.1 của chương 4.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên đây, các vấn đề khoa học được tiếp cận trên
cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp

luật, các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng
và chống tội phạm; về cải tạo, giáo dục người phạm tội; về tính nhân đạo của

7


pháp luật, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lý
luận về Nhà nước và pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, pháp luật thi
hành án hình sự Việt Nam, những luận điểm khoa học trong các cơng trình
nghiên cứu, sách chun khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà
khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt
khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch
sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tế, lý luận kết hợp
với thực tiễn.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Từ trước đến nay, đã có nhiều cơng trình khoa học trong và ngồi nước
đề cập đến hình phạt, nhưng chưa có cơng trình nghiên cứu về hình phạt tù
trong mối quan hệ biện chứng với thi hành hình phạt tù. Từ góc nhìn của hình
phạt tù, luận văn đánh giá việc áp dụng hình phạt này trong thực tiễn. Nghiên
cứu thực tiễn áp dụng và thực tiễn thi hành hình phạt tù để tìm ra đâu là căn
nguyên của những vướng mắc, bất cập của thực trạng thi hành án hình sự hiện
nay. Trên cơ sở thực tiễn, luận văn có những kiến nghị khoa học góp phần
hồn thiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu đề cập một cách tương
đối có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tù
và thi hành hình phạt tù ở Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với
những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên.
Về mặt thực tiễn: Luận văn rút ra một số kết luận mang tính khoa học

góp phần xác định đúng đắn thực tiễn áp dụng hình phạt tù và thi hành hình
phạt tù. Cụ thể, luận văn hồn thiện là tài liệu tham khảo có giá trị trong việc
xây dựng và hồn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình

8


sự, góp phần khắc phục những khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng và thi
hành hình phạt tù, nhằm nâng cao hiệu quả của chúng, đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật, đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù
Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù ở
Việt Nam
Chương 3: Quan điểm, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
hình phạt tù và thi hành hình phạt tù

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TÙ
VÀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ

1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÌNH PHẠT TÙ

Trong lịch sử lồi người, hình phạt luôn được coi là phương thức chủ
yếu để đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong cuộc đấu tranh với những

hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải có những biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước, mà một trong những biện pháp cưỡng chế đó là hình phạt. Hình
phạt được coi là một trong những công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh
phịng chống tội phạm. C.Mác nói: "Hình phạt khơng phải là một cái gì khác
ngồi phương tiện để tự bảo vệ mình của xã hội, chống lại sự vi phạm các
điều kiện tồn tại của nó" [22, tr. 153].
Trong pháp luật hình sự nước ta từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945
đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999, khái niệm hình phạt chưa
được ghi nhận một cách chính thức ở bất kỳ một văn bản pháp luật nào, chỉ
đến khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 thì khái niệm hình phạt lần đầu
tiên mới được quy định. Điều 26 Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định: "Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được qui định
trong Bộ luật Hình sự và do Tịa án quyết định" [29].
Có thể thấy luật hình sự nước ta đã tiếp thu, thấm nhuần sâu sắc tinh
thần dân chủ và nhân đạo, tiến bộ, coi hình phạt là biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người thực hiện tội phạm và ngăn ngừa
tội phạm. Pháp luật hình sự nước ta khơng cho phép áp dụng hình phạt đối
với những hành vi không phải là tội phạm, không được quy định trong hệ
thống hình phạt hiện hành và trong chế tài của các điều luật cụ thể. Đây là
một đòi hỏi nghiêm khắc của nguyên tắc pháp chế. Khi một hành vi nguy

10


hiểm cho xã hội được coi là tội phạm đòi hỏi phải quy định những loại hình
phạt và mức hình phạt tương xứng cho hành vi đó. Do đó, hình phạt cũng là
một dấu hiệu để phân biệt hành vi phạm tội với những hành vi không phải là
tội phạm.
Theo luật hình sự Việt Nam, hệ thống hình phạt bao gồm: hình phạt

chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính gồm có: cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo khơng giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình; các
hình phạt bổ sung gồm có: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
một công việc nhất định, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, tịch thu tài
sản, phạt tiền, trục xuất (phạt tiền, trục xuất khi khơng áp dụng là hình phạt
chính). Danh mục các hình phạt quy định tại Điều 28 Bộ luật Hình sự năm
1999 được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ (cảnh cáo) đến nặng (tử hình). Việc sắp
xếp các hình phạt theo thứ tự như vậy có ý nghĩa to lớn về mặt nguyên tắc và
thực tiễn. Điều đó thể hiện ở chỗ căn cứ vào thứ tự sắp xếp như vậy, người ta
hiểu được sự đánh giá chính thức của Nhà nước về tính chất nghiêm khắc của
mỗi loại hình phạt và Tịa án có thể lựa chọn hình phạt nào khi giải quyết vấn
đề chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Cách phân loại như
vậy, về cơ bản là căn cứ vào vai trị, tính chất và nội dung của hình phạt.
Đặc điểm của hệ thống hình phạt trong Bộ luật Hình sự nước ta là thể
hiện tính đa dạng, cho phép trong mọi trường hợp thực hiện được các nguyên
tắc của việc quyết định hình phạt. Hệ thống đó thể hiện tính nhân đạo sâu sắc,
khơng có những hình phạt nhằm khủng bố, trả thù, làm nhục hình, đầy đọa
thân xác và chà đạp phẩm giá con người. Danh mục các hình phạt trong luật
hình sự được sửa đổi để phù hợp với tình hình đấu tranh phịng, chống tội
phạm qua các thời kỳ phát triển nhất định của xã hội. Ngồi pháp luật, khơng
có một ai có quyền thay đổi, bổ sung danh mục các hình phạt đó.
Hình phạt tù nằm trong hình phạt chính, bao gồm hình phạt tù có thời
hạn và tù chung thân và cũng được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, có
mức độ nghiêm khắc phù hợp với các thang bậc mức độ nghiêm trọng, nguy

11


hiểm khác nhau của các loại tội phạm. Sự sắp xếp đó đảm bảo tính hệ thống.
Ngồi việc, hình phạt tù được quy định như vậy phản ánh sự đánh giá chính

thức của Nhà nước về mức độ nặng nhẹ của từng loại hình phạt mà nó cịn thể
hiện mỗi loại hình phạt trong hình phạt tù có tính độc lập, khác biệt về cơ bản
với nội dung của hình phạt khác, đủ để thực hiện mục đích của hình phạt là
trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội, đồng thời đáp ứng được yêu cầu
phòng ngừa, giáo dục chung. Hơn nữa tính hệ thống cịn thể hiện ở chỗ, hình
phạt tù chỉ có thể do pháp luật quy định và được Tòa án áp dụng. Yêu cầu này
đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong thực tiễn xét xử - yêu cầu số một của tư
pháp hình sự.
Hình phạt tù và các loại hình phạt tương ứng về cơ bản với tội phạm,
có khả năng thể hiện sự phản ứng của nhà nước đối với tội phạm. Hình phạt
tù trong mối liên kết của cả hệ thống hình phạt cho phép lựa chọn loại hình
phạt và mức độ xử phạt tương xứng với các hành vi phạm tội trong thực tế. Vì
ý nghĩa đó mà các hình phạt tù được gọi là hình phạt chính. Nó ln chứa
đựng những yếu tố trừng trị và cải tạo vừa và đủ để hình phạt có thể đạt được
mục đích khi nó được áp dụng đối với người phạm tội cụ thể. Hình phạt tù
ln được tun độc lập đối với mỗi loại tội phạm. Trong số bảy hình phạt
chính được quy định tại Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 chỉ có 4 hình
phạt được luật xác định về nội dung, trong đó có hình phạt tù có thời hạn và
tù chung thân. Đây là yếu tố thuận lợi cho việc áp dụng hình phạt tù, dù rằng
các dấu hiệu về nội dung cũng chưa đủ rõ và chưa toàn diện.
Có thể đưa ra khái qt khái niệm về hình phạt tù như sau: Hình phạt
tù là hình phạt tước quyền tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách ly
cuộc sống bình thường của xã hội, sống trong một mơi trường riêng biệt có sự
kiểm sốt chặt chẽ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hình phạt tù bao

12


Theo Điều 3 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù: "Trong thời gian chấp
hành hình phạt người bị kết án tù phải bị giam giữ, lao động và học tập theo

quy định của pháp luật" [49]. Trong thời gian chấp hành hình phạt tù có thời
hạn, người bị kết án phải chấp hành đầy đủ các nội quy, quy chế của trại
giam. Họ được phép học văn hóa và học nghề, tham gia lao động do trại giam
tổ chức và được tạo điều kiện để hình thành và phát triển ý thức tuân thủ pháp
luật. Khi có kết quả cải tạo tốt, họ có thể được giảm án hoặc miễn chấp hành
phần hình phạt cịn lại. Việc tước tự do của người phạm tội và buộc họ phải
cải tạo còn có mục đích phịng ngừa chung. Khi người bị kết án tù và phải
chấp hành án này tại trại giam, họ khơng cịn những điều kiện nhất định để
phạm tội mới gây thiệt hại đến an ninh quốc gia, trật tự an tồn xã hội. Như
vậy, nội dung hình phạt tù có thời hạn (Điều 33 Bộ luật Hình sự) chưa quy
định rõ chế độ giam giữ, lao động, học tập với người bị kết án, song Pháp
lệnh Thi hành án phạt tù đã cụ thể hóa các nội dung này.
Điều 33 Bộ luật Hình sự quy định thời gian tù tối thiểu là ba tháng,
thời hạn tù tối đa là hai mươi năm. Tuy nhiên, đây phải hiểu là thời hạn
chung. Các chế tài cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự quy
định những thời hạn tù cụ thể đối với từng cấu thành tội phạm cụ thể, cịn các
tịa án thì quyết định trong các bản án của mình những mức án tù cụ thể.
Thời hạn của hình phạt tù có thời hạn là cơ sở để phân biệt hình phạt
này với hình phạt tù chung thân. Tù chung thân là hình phạt tù giam khơng thời
hạn hay cịn gọi là tù suốt đời, là hình phạt rất nghiêm khắc mà nội dung của
nó là tước quyền tự do của người bị kết án khơng có thời hạn. Trong các hình
phạt chính xét về mức độ nghiêm khắc thì hình phạt tù có thời hạn đứng trước
các hình phạt khơng tước tự do và đứng sau hình phạt tù chung thân, tử hình.
Cũng như bất kỳ các loại hình phạt khác, tù có thời hạn mục đích là
giáo dục, cải tạo người phạm tội và nó chỉ được áp dụng trong các trường hợp
khi xét thấy cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội trong một thời
gian luật định. Tuy nhiên đối với người phạm tội, Tòa án chỉ được áp dụng

19



hình phạt tù có thời hạn khi và chỉ khi trong khung hình phạt của điều luật mà
họ bị kết án có quy định hình phạt này. Hình phạt tù có thời hạn có những đặc
thù riêng do tính chất nghiêm khắc của nó (là hình phạt tước tự do của người
bị kết án trong một thời hạn nhất định), do vậy việc nghiên cứu mục đích của
hình phạt tù có thời hạn là hồn tồn cần thiết. Nó tạo cơ sở để xác định cái
mốc cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định hình phạt tù
có thời hạn trong luật hình sự và áp dụng hình phạt này trong thực tế.
Tịa án khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội đã
thay mặt Nhà nước căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội về hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 45
Bộ luật Hình sự) quyết định mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội. Với
mức hình phạt cụ thể và nội dung tương đối nghiêm khắc của hình phạt tù có
thời hạn (buộc người kết án phải chấp hành hình phạt tại các trại giam, cách
ly với xã hội với chế độ quản lý nghiêm ngặt trong một thời gian nhất định).
Tác động đến người bị kết án để họ thấy rằng sự bị phạt là tất yếu khi có hành
vi phạm tội bị coi là tội phạm, tương xứng với hành vi phạm tội, hình phạt mà
người phạm tội phải chấp hành đủ để răn đe giáo dục họ trở thành người có
ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã
hội chủ nghĩa. Sự phạt ở đây không phải là sự trả thù mà nhằm mục đích giáo
dục họ trở thành người lương thiện, đồng thời việc cách ly người phạm tội với
đời sống xã hội chịu sự quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước còn để ngăn ngừa
họ phạm tội mới, tội phạm càng nguy hiểm thì thời gian cần phải cách ly
người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội càng phải dài. Việc quản lý giám sát
chặt chẽ người bị kết án hạn chế đến mức thấp nhất khả năng họ có thể phạm
tội lại (mục đích phịng ngừa riêng).
Tịa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội khơng
chỉ tác động đến người bị kết án mà còn tác động đến các thành viên khác
trong xã hội - những bộ phận công dân "không vững vàng" thấy được hậu quả


20


pháp lý - trách nhiệm hình sự mà họ phải gánh chịu nếu thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Để cho mọi người có thể thấy rằng,
mọi hành vi phạm tội bị coi là tội phạm đều có thể bị phát hiện và phải chịu
hình phạt và hình phạt bị áp dụng là thỏa đáng với tội lỗi mà người phạm tội
đã gây ra, từ đó xây dựng cho mình ý thức tn thủ pháp luật, từ bỏ ý định
phạm tội (nếu có), đồng thời thận trọng lựa chọn cách xử sự để tránh xử sự
của mình trở thành hành vi phạm tội.
Bộ luật Hình sự quy định thời hạn tù cụ thể đối với từng cấu thành tội
phạm cụ thể. Đây là hình phạt phổ biến trong hệ thống hình phạt của mọi
quốc gia. Tù có thời hạn có ý nghĩa xã hội và pháp lý rất quan trọng. Ý nghĩa
đó cho phép cách ly những người phạm tội có mức độ nguy hiểm lớn đối với
xã hội. Nó đảm bảo được giáo dục và phòng ngừa riêng, lại vừa đảm bảo
được giáo dục và phòng ngừa chung.
Xét về bản chất, tù có thời hạn là một hiện tượng có mâu thuẫn nội tại
của nó. Một mặt nó giữ để người phạm tội không thể gây nguy hại và thiệt hại
cho đối tượng mà luật hình sự bảo hộ nhưng lại gây ra những yếu tố tiêu cực
đối với người bị kết án mà xét trong hồn cảnh bình thường, xã hội khơng hề
muốn có đối với các cơng dân của mình (tức là không muốn họ phải bị cách ly).
Tù giam với nội dung là sự cách ly và hạn chế tự do đối với người bị kết
án. Đến lượt nó, việc hạn chế lâu dài các chức năng xã hội bình thường của một
con người làm tê liệt, làm lãng qn các thói quen xã hội có ích ở họ như học
tập, quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, bạn bè, nghề nghiệp… Sau này, việc
khôi phục lại các quan hệ đó là cả một sự khó khăn đáng kể. Chính vì vậy mà lý
luận hình sự xã hội chủ nghĩa cũng như thực tiễn đấu tranh chống tội phạm ở
nước ta đã đi đến một điều khẳng định là: trong những trường hợp, khi mà mục
đích của hình phạt vẫn có thể đạt được mà khơng cần đến cách ly người phạm tội

ra khỏi mơi trường bình thường của xã hội, thì cần áp dụng các hình phạt khơng
phải là hình phạt tù. Trong Bộ luật Hình sự hiện hành của nước ta, quy tắc đó
được cụ thể hóa bằng cách đưa ra quy tắc ở Phần chung cho phép Tịa án có thể

21


chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn hoặc quy định các chế tài
lựa chọn ở Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự, trong đó bên cạnh hình phạt
tù là các hình phạt khơng phải là tù. Hạn chế những mặt phản tác dụng của hình
phạt tù cũng là lý do của việc không ngừng bổ sung các hình phạt có khả năng
thay thế hình phạt tù, nhất là đối với loại hình phạt tù có mức tù ngắn hạn.
Người phạm tội bị Tòa án tuyên hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó
bị giam giữ, tạm giam thì thời hạn tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian
chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.
Trong phần chung Bộ luật Hình sự khơng quy định điều kiện áp dụng
của hình phạt tù có thời hạn. Các hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
khơng giam giữ… thì quy định rõ điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt
này, ví dụ:
Hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt
(điều kiện) (Điều 29 Bộ luật Hình sự).
Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội
ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng... (điều
kiện) (Điều 30 Bộ luật Hình sự).
Cải tạo khơng giam giữ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có
nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm
tội ra khỏi xã hội (điều kiện) (Điều 31 Bộ luật Hình sự).
Nghiên cứu trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự hiện hành, ta có

thể thấy những tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm
trọng, chỉ có quy định hình phạt tù có thời hạn là chế tài độc lập thì khơng cần
phải đặt ra vấn đề nghiên cứu điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Đối với các tội phạm có quy định hình phạt tù có thời hạn là chế tài
lựa chọn với các hình phạt khác thì cần phải làm rõ điều kiện áp dụng của

22


hình phạt tù có thời hạn. Bộ luật Hình sự nước ta khơng quy định điều kiện áp
dụng hình phạt tù có thời hạn, song qui định điều kiện áp dụng các hình phạt
khác theo phép loại trừ, như vậy có thể hiểu những đối tượng phạm tội khơng
đủ điều kiện để áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo khơng giam
giữ, tù chung thân, tử hình thì đủ điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
Từ những phân tích nêu trên có thể khái qt khái niệm về hình phạt
tù có thời hạn như sau: Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp
hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục cải tạo
người phạm tội, đảm bảo công lý, công bằng xã hội. Tù có thời hạn đối với
người phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm.
Một nội dung hết sức quan trọng khi nghiên cứu về hình phạt tù có
thời hạn đó là chế định án treo. Theo pháp luật hình sự Việt Nam, án treo
khơng phải là một hình phạt độc lập trong hệ thống hình phạt mà "án treo là
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện". Đây là trường hợp ngoại lệ đặc
biệt của việc thi hành hình phạt tù, người bị kết án tù có thời hạn khơng buộc
phải chấp hành hình phạt tại trại giam mà được chấp hành hình phạt ngồi xã
hội với những điều kiện ràng buộc nhất định.
Với ý nghĩa là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện,
chế định án treo là một trong những quy định của Bộ luật Hình sự thể hiện
tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bị
kết án tự lao động cải tạo để trở thành người tốt. Phạm vi áp dụng của án treo

được áp dụng đối với những trường hợp người phạm tội bị Tòa án tun hình
phạt tù có thời hạn và mức hình phạt là không quá ba năm. Chế định án treo là
một trong những quy định chú trọng đến việc tự cải tạo, giáo dục của người
phạm tội nên Tòa án chỉ cho người kết án hưởng án treo khi có căn cứ rõ ràng
để xác định việc không cần phải bắt người phạm tội cách ly khỏi xã hội nhưng
cũng đạt được mục đích của hình phạt về phịng ngừa riêng cũng như phòng
ngừa chung. Án treo chỉ được quyết định sau khi Tịa án đã quyết định hình
phạt đúng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

23


Các điều kiện để một người bị kết án phạt tù được hưởng án treo về cơ
bản cũng phải đáp ứng các điều kiện để một người bị kết án được miễn chấp
hành hình phạt. Theo đó, những điều kiện để Tịa án có thể quyết định cho
người phạm tội được hưởng án treo phải cho phép xác định tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã xảy ra cho xã hội là không lớn. Điều
kiện này là cơ sở để Tòa án xem xét việc có thể cho người bị kết án được
hưởng án treo hay khơng. Đây là điều kiện phải có trước, trên cơ sở điều kiện
này Tòa án còn phải căn cứ vào những điều kiện khác chứng tỏ người phạm
tội có nhân thân tốt. Nghĩa là người bị kết án tù nhưng được hưởng án treo
phải có các dấu hiệu, đặc điểm về nhân thân là ít nguy hiểm cho xã hội và
chứng tỏ họ có khả năng tự giác cải tạo. Ngồi ra cịn phải có những tình tiết
giảm nhẹ làm cho hành vi phạm tội khơng mang tính chất nguy hiểm lớn cho
xã hội hoặc làm giảm bớt trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
mà Tịa án có thể cho người bị kết án được hưởng án treo, nhà làm làm luật
thường căn cứ vào mức hình phạt tù mà Tịa án đã tun đối với người phạm
tội. Theo đó, mức hình phạt tù mà Tòa án đã tuyên được nhà làm luật quy
định là một trong những điều kiện bắt buộc và là điều kiện trước hết để xem

xét việc có cho người bị kết án được hưởng án treo hay khơng. Vì vậy, có thể
nói mức hình phạt tù mà Tịa án đã tun đối với người phạm tội chính là cơ
sở để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Trong
luật hình sự, tùy thuộc vào chính sách hình sự và tình hình thực tiễn đấu tranh
phịng, chống tội phạm mà mức hình phạt có thể áp dụng án treo được xác
định cụ thể. Trước đây trong Sắc lệnh số 21/SL ngày 14-2-1956 về tổ chức
các Tòa án quân sự, Điều 10 quy định mức đó là khơng q 05 năm tù, hiện
nay theo Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 60 quy định là không quá 03 năm
tù. Với quy định về mức hình phạt này, luật hình sự cũng đã gián tiếp xác
định loại tội phạm có thể được cho phép áp dụng án treo.

24


Khi cho người phạm tội được hưởng án treo, Tòa án ấn định thời gian
thử thách từ một năm đến năm năm. Đây là thời gian người bị án treo được
giao cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc, học tập
hoặc thường trú để theo dõi giáo dục. Thời gian thử thách đối với người được
hưởng án treo là khoảng thời gian để người đó chứng minh sự giáo dục cải tạo
của mình, đồng thời giúp Tịa án có điều kiện kiểm tra tính đúng đắn của
quyết định cho hưởng án treo. Người bị án treo sẽ không được miễn mà buộc
phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên nếu trong thời gian thử thách lại phạm
tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý. Trong trường hợp
này, Tịa án sẽ tổng hợp hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo với hình
phạt mới tuyên theo quy định của luật hình sự về tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án. Việc quy định án treo trong luật hình sự Việt Nam là sự thể hiện
nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo
dục, cải tạo".
Án treo có tác dụng tạo điều kiện khuyến khích người phạm tội tự giác
cải tạo trong môi trường không bị cách ly khỏi xã hội dưới sự giám sát của cơ

quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội. Các quy định về án treo có sự thay đổi
qua các thời kỳ để ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu của đấu tranh
phịng, chống tội phạm.
Từ phân tích trên có thể khái quát khái niệm về hình phạt tù cho
hưởng án treo như sau: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện do Tịa án áp dụng đối với người phạm tội bị xử phạt tù không quá
ba năm và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
1.3. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH VÀ BẢN CHẤT CỦA THI HÀNH HÌNH
PHẠT TÙ

Thi hành hình phạt tù là buộc người bị kết án phạt tù phải chấp hành
hình phạt tại trại giam trong thời hạn được quyết định trong bản án. Thống kê

25


các cấu thành tội phạm trong Bộ luật Hình sự hiện hành cho thấy 100% các điều
luật quy định về tội phạm cụ thể đều có hình phạt tù. Thực tiễn áp dụng hình phạt
nước ta trong những năm gần đây cũng cho thấy rằng hàng năm có từ 70% đến
80% số bị cáo bị kết án phạt tù. Như vậy, thi hành hình phạt tù là bộ phận hết
sức quan trọng trong thi hành án hình sự. Có thể nói thi hành hình phạt tù là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, hạn chế những quyền, lợi ích về vật chất hoặc
tinh thần quan trọng nhất của con người như quyền được tự do, đi lại, quyền được
trao đổi thư từ, quyền được tự do cư trú… Tất nhiên việc hạn chế những quyền,
lợi ích về vật chất hoặc tinh thần nói trên phải theo quy định của pháp luật.
Thi hành án phạt tù có đặc trưng cơ bản đó là nhằm vào đối tượng là
những người bị Tịa án kết án tù có thời hạn, tù chung thân. Trong các hoạt
động thi hành án hình sự, hoạt động thi hành án phạt tù ln thể hiện tính
cưỡng chế nghiêm khắc. Nó tước đi quyền tự do - một trong những quyền cơ
bản của con người đã ghi nhận tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992. Người chấp

hành án tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống và hoạt động của các
cơng dân bình thường khác; chịu sự quản lý, giáo dục trong một môi trường
tách biệt và chịu sự điều chỉnh của những quy định pháp luật rất chặt chẽ,
nghiêm ngặt. Trại giam chính là cơng cụ chun chính trực tiếp của Nhà
nước. Bất kỳ Nhà nước của giai cấp nào cũng tổ chức các trại giam để quản
lý, giam giữ, cách ly người phạm tội đã bị kết án tù có thời hạn, tù chung
thân. Xét về mặt tổ chức thì trại giam là một loại cơ quan nhà nước đặc thù,
có trách nhiệm tiếp nhận quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo người bị kết án
tù trong suốt cả thời hạn phạt tù mà Tòa án đã tuyên.
Xét về phương diện chủ thể chấp hành án phạt tù khác với việc chấp
hành án dân sự, kinh tế, hành chính: chủ thể chấp hành án phạt tù là cá nhân
người phạm tội, trong khi đó chủ thể của việc chấp hành án dân sự, kinh tế,
hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Người bị kết án phải chấp hành
bản án, quyết định của Tòa án dù đã chấp hành xong hình phạt vẫn cịn phải
chịu hậu quả pháp lý trong một thời gian nhất định, đó là án tích.

26


Thi hành hình phạt tù là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt.
Vì thế mọi phương pháp, hình thức tác động đến việc chấp hành hình phạt của
người bị kết án đều dẫn đến mục đích: trừng phạt và giáo dục nhằm cải tạo
người bị kết án, giúp họ nhận ra lỗi lầm, có thói quen của người lao động,
người lương thiện, tránh xa những mưu toan và hành động phạm tội, cho nên
hiệu quả cuối cùng của công tác này là ở chỗ: người mãn hạn tù đạt được
những phẩm chất mới như đã nêu trên. Ngồi ra một một đích khác khơng
kém phần quan trọng đối với xã hội là: thông qua việc tổ chức và thực hiện
các chế độ đối với người bị kết án tù, Nhà nước chứng tỏ cho mọi công dân
biết tính nghiêm minh của pháp luật, sự trừng phạt nghiêm khắc và kịp thời
đối với bất cứ ai phạm tội… khả năng cảnh tỉnh, răn đe này của việc thi hành

hình phạt tù ln ln tồn tại và giữ vai trị là chức năng phịng ngừa chung
của loại hình phạt này. Trong xã hội khác nhau, tính chất trừng phạt của thi
hành án phạt tù cũng khác nhau. Ví dụ, việc thi hành hình phạt trong xã hội
phong kiến mang đậm tính trả thù, hà khắc cao độ, chà đạp nhân phẩm, hành
hạ, gây ra cho con người phạm tội sự đau đớn về thể xác. Nhưng ở xã hội ta
hiện nay thì trừng phạt trong thi hành án phạt tù chỉ là thuộc tính, nội dung,
biện pháp để đạt đến mục đích giáo dục, cải tạo và phịng ngừa tội phạm.
Xác định đúng đắn và đầy đủ mục đích thi hành hình phạt tù khơng
chỉ là cần thiết cho sự khởi đầu bất cứ mọi nghiên cứu nào về loại hình phạt
này mà điều cần thiết hơn là nhằm duy trì định hướng đúng và tập chung mọi
biện pháp, mọi khả năng để đạt hiệu quả lao động.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 thì:
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ
thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết
định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh
án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy
thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án [30].

27


Khoản 1 Điều 257 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Cơ quan Cơng an
thi hành hình phạt tù trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tham gia Hội đồng
thi hành hình phạt tử hình theo quy định tại Điều 259 của Bộ luật này" [30].
Từ những quy định nêu trên, có thể thấy thi hành hình phạt tù có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thi hành hình phạt tù là hoạt động của cơ quan nhà nước và
người có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm đưa những người bị kết án tù có
thời hạn đi chấp hành hình phạt tại trại giam và tổ chức thực hiện các biện

pháp giáo dục họ nhanh chóng trở thành người lương thiện. Cơ quan và cá
nhân có thẩm quyền thi hành hình phạt tù được nhân danh Nhà nước, sử dụng
quyền lực nhà nước để buộc người bị kết án tù phải chấp hành hình phạt tại
trại giam. Đối với người bị kết án tù nếu không chịu chấp hành hình phạt sẽ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 304 Bộ luật Hình sự, cịn đối với
người bị kết án tù đang tại ngoại mà khơng có mặt để đến trại giam chấp hành
án sẽ bị áp dụng biện pháp áp giải. Do vậy, thi hành hình phạt tù là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước;
Thứ hai, thi hành án phạt tù là hoạt động được tiến hành theo một
trình tự pháp lý, tức là được tiến hành theo trình tự thủ tục trong pháp luật về
thi hành án phạt tù (Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Thi hành án phạt tù,
Qui chế trại giam..). Như vậy, hoạt động thi hành hình phạt tù khơng những
mang tính quyền lực Nhà nước mà cịn mang tính thủ tục pháp lý, tức là được
tiến hành theo trình tự thủ tục được quy định trong pháp luật về hình phạt tù.
Thứ ba, thi hành hình phạt tù là hoạt động của các cơ quan nhà nước
và người có thẩm quyền nhằm đưa người bị kết án tù đi chấp hành hình phạt
tại trại giam và tổ chức thực hiện các biện pháp cải tạo, giáo dục nhằm giúp
họ nhanh chóng trở thành người lương thiện, khơng phạm tội mới, đồng thời
nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật và trật tự pháp luật, ngăn ngừa
các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng. Do đó, hoạt

28


động thi hành hình phạt tù là hoạt động mang tính định hướng, tính mục đích
rõ ràng.
Thi hành hình phạt tù là hoạt động áp dụng pháp luật hướng vào thực
hiện những nhiệm vụ nhất định. Trước hết, thi hành hình phạt tù có nhiệm vụ
đảm bảo làm sao hình phạt tù mà Tòa án đã tuyên đối với các bị cáo khi đã có
hiệu lực pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Đây là

nhiệm vụ hàng đầu và hết sức quan trọng vì nếu hình phạt tù đã được tuyên
trong bản án và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật khơng được thực hiện hoặc
thực hiện khơng đầy đủ, thì q trình tố tụng trước đó như khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử khó có ý nghĩa đầy đủ, đồng thời khó giáo dục được công dân
ý thức tôn trọng pháp luật và trật tự pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của họ.
Cải tạo, giáo dục người bị kết án tù trở thành người lương thiện, có ích cho xã
hội, tạo mọi điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng, phòng ngừa họ phạm tội
mới là một trong những mục đích mà thi hành hình phạt tù cần đạt tới.
Thi hành hình phạt tù địi hỏi phải gắn q trình cải tạo, giáo dục người
bị kết án phạt tù có thời hạn với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về thi hành hình phạt, huy động các tổ chức xã hội, đồn thể, cơng dân và
gia đình của người bị kết án tham gia cải tạo giáo dục người phạm tội.
Nội dung của hoạt động thi hành hình phạt tù rất phong phú, đó là việc
ra quyết định thi hành hình phạt tù; xét hỗn chấp hành hình phạt tù đối với
những trường hợp có đủ điều kiện mà pháp luật quy định; xét giảm thời hạn
chấp hành hình phạt tù; tổ chức quản lý các trại giam; giáo dục và cải tạo
người chấp hành hình phạt tù có thời hạn bằng lao động, dạy nghề, học văn
hóa… Để thực hiện có hiệu quả những nội dung của thi hành hình phạt tù,
những người có thẩm quyền thi hành hình phạt tù, đặc biệt là giám thị, phó
giám thị trại giam, cán bộ quản giáo…phải có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt là kiến thức pháp luật nói chung và
kiến thức pháp luật về thi hành án hình sự, trong đó có thi hành hình phạt tù

29


nói riêng. Ngồi ra, những người đó phải có ý thức pháp luật cao, có tâm huyết
với cơng việc mới, hồn thiện được cơng việc đầy khó khăn và phức tạp để
cải tạo và giáo dục phạm nhân trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức
tn theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa

họ phạm tội mới.
Như vậy, xét theo dấu hiệu nội dung thì:
Thi hành hình phạt tù là hoạt động áp dụng pháp luật mang
tính quyền lực nhà nước, tính thủ tục, tính định hướng mục đích,
tính sáng tạo và tính khoa học do cơ quan nhà nước và cá nhân có
thẩm quyền thực hiện dựa trên những nguyên tắc nhất định nhằm
đưa bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế
nhằm cải tạo giáo dục người bị kết án tù có thời hạn trở thành người
lương thiện, có ích cho xã hội [54, tr. 235].
Xét theo dấu hiệu hình thức, thi hành hình phạt tù là khái niệm để chỉ
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong
việc thi hành hình phạt tù, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Pháp luật thi hành hình phạt tù là một chế định quan trọng của luật thi
hành án hình sự Việt Nam trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Các quy định
của pháp luật thi hành hình phạt tù hiện nằm rải rác ở các văn bản quy phạm
pháp luật khác nhau, như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh
Thi hành án phạt tù, Nghị định 60/CP ngày 16/9/1993 của Chính phủ ban
hành quy chế trại giam, các thông tư hướng dẫn trong các lĩnh vực cụ thể của
thi hành hình phạt tù.
Thi hành hình phạt tù được hiểu ở hai góc độ, đó là góc độ nội dung và
góc độ hình thức. Với việc tiếp cận thi hành hình phạt tù ở cả hai góc độ cho
phép chúng ta nghiên cứu thi hành hình phạt tù một cách toàn diện, cả thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành hình phạt tù.

30


×