Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯU ĐỨC ANH

PH¹M VI BảO Hộ QUYềN Sở HữU CÔNG NGHIệP
ĐốI VớI NHÃN HIệU THEO PH¸P LT VIƯT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯU ĐỨC ANH

PH¹M VI BảO Hộ QUYềN Sở HữU CÔNG NGHIệP
ĐốI VớI NHÃN HIệU THEO PH¸P LT VIƯT NAM
Chun ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ QUẾ ANH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Lưu Đức Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ PHẠM VI BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU ........................................ 8
1.1.

Khái niệm và phân loại nhãn hiệu .................................................... 8

1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu ............................................................................. 9
1.1.2. Phân loại nhãn hiệu............................................................................. 12

1.2.

Khái niệm và phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ............ 14

1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp ................................................ 14
1.2.2. Phạm vi bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp ....................................... 15
1.3.

Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu và phạm vi của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu ..................................................................................... 18

1.3.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ................... 18
1.3.2. Khái niệm phạm vi bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu .............. 22
1.4.

Cơ sở xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu............................................................................... 22

1.4.1. Phạm vi bảo hộ về thời gian ............................................................... 23
1.4.2. Phạm vi bảo hộ về không gian ........................................................... 24
1.4.3. Phạm vi bảo hộ về nội dung ............................................................... 28
1.4.4. Phạm vi hàng hóa, dịch vụ được gắn nhãn hiệu ................................. 36
1.4.5. Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu ................................................... 38


Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ PHẠM VI BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU ................................................... 41
2.1.


Quy định của pháp luật Việt Nam về phạm vi bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ............................................ 44

2.1.1. Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu về
thời gian .............................................................................................. 45
2.1.2. Phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu về
không gian .......................................................................................... 45
2.1.3. Phạm vi nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ....... 46
2.2.

Xử lý các hành vi xâm phạm phạm vi quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu .................................................................. 59

2.2.1. Các quy định chung về xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu ........................................................... 59
2.2.2. Biện pháp dân sự ................................................................................ 61
2.2.3. Biện pháp quản lý nhà nước ............................................................... 68
Chương 3: THỰC TIỄN XÂM PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN PHẠM
VI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN
HIỆU VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT Ở VIỆT NAM........................................................................ 75
3.1.

Thực tiễn vi phạm liên quan đến phạm vi thời gian và không
gian của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ................. 75

3.2.

Thực tiễn vi phạm liên quan đến phạm vi nội dung quyền sở

hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ................................................. 78

3.2.1. Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá,
dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ đăng ký kèm theo nhãn hiệu ........ 78


3.2.2. Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng
hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ đăng
ký kèm theo nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc
hàng hoá, dịch vụ ................................................................................ 79
3.2.3. Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng
hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ đăng ký kèm theo nhãn
hiệu có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ ...... 79
3.2.4. Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng
hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hố, dịch vụ đăng ký
kèm theo nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng
hoá, dịch vụ.......................................................................................... 79
3.3.

Thực tiễn vi phạm liên quan đến phạm vi hàng hóa được
gắn nhãn hiệu .................................................................................... 82

3.4.

Những xâm phạm mới liên quan đến môi trường internet .......... 83

3.5.

Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phạm vi
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu .................... 85


KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

SHCN:

Sở hữu công nghiệp

SHTT:

Sở hữu trí tuệ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với sự phát triển xã hội loài người theo quy luật “Quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…” mà C. Mác đã
khẳng định, kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đã bao trùm nền kinh tế của
các nước…, thì hàm lượng chất xám, trí tuệ trong mỗi sản phẩm ngày càng
chiếm tỷ trọng cao, đặc biệt là có những sản phẩm thuần túy là trí tuệ được
lưu thơng trong thị trường với giá trị không nhỏ. Cách đây hàng thế kỷ, nhiều
nước đã có luật sở hữu cơng nghiệp. Với các nỗ lực chung của các quốc gia
có nền kinh tế thị trường, ngay từ thế kỷ XIX đã ra đời Liên minh quốc tế bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp - đó là Cơng ước Paris năm 1883.
Ngày nay, nền kinh thị trường cạnh tranh gay gắt, việc bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu không những bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu với những sản phẩm chất lượng, mẫu mã

tương ứng…, mà điều quan trọng hơn là bảo vệ lợi ích chính đáng của người
tiêu dùng được các quốc gia, các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp… rất
quan tâm, vì nó tạo ra sự khuyến khích, bảo đảm cho đầu tư trong, ngoài nước
và cũng là động lực tăng trưởng kinh tế.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có nhãn hiệu đã trở thành
vấn đề mang tính tồn cầu. Một trong số 16 cơ quan chun mơn của Liên
hợp quốc là Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) có trụ sở ở Géneve, Thụy
Sĩ, được thành lập năm 1967 với Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) nhằm thúc đẩy tiến
trình bảo hộ sở hữu trí tuệ trên tồn thế giới, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc
gia và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, khuyến khích việc ký
kết các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, hiện đại hóa pháp luật quốc gia các
nước thành viên, quản lý các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ…

1


Từ tầm quan trọng đặc biệt đó, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói
chung và bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng trở
thành vấn đề thách thức đối với nhiều quốc gia, đã trở thành một trong những
điều kiện bắt buộc để một nước trở thành thành viên của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Đối với nước ta, thách thức đó trở nên cấp bách hơn bao giờ
hết, khi mà việc đàm phán, thương lượng song phương hay đa phương để
được trở thành thành viên chính thức của WTO đã ở giai đoạn sắp kết thúc.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở nước ta trong
thời gian qua cũng đã có được bước chuyển biến khả quan kể cả trong lĩnh
vực xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến cơ chế thực thi, cũng như xử lý các
vi phạm…, tuy nhiên trong lĩnh vực này vẫn cịn nhiều bất cập, đó là:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp nói chung và bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với nhãn hiệu nói

riêng cịn thiếu, chưa đạt đủ các tiêu chí của Hiệp định TRIPS/WTO;
- Hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp cịn chưa hạn
chế, chưa đẩy lùi được tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và
xâm phạm nhãn hiệu đang diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng;
- Việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và xâm
phạm nhãn hiệu vẫn còn thiên về xu hướng “hành chính hóa”, “hình sự hóa”,
mà chưa chú ý xử lý vi phạm bằng biện pháp, chế tài dân sự…
- Nhiều tranh chấp phát sinh liên quan đến nhãn hiệu gây tranh cãi do chưa
xác định được phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
Tình trạng này đã gây khó khăn khơng chỉ cho các doanh nghiệp trong
nước mà còn với cả các nhà đầu tư nước ngồi.
Xuất phát từ tình hình đó, việc nghiên cứu đề tài: “Phạm vi bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam” sẽ
góp phần lý giải nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện

2


pháp luật, bảo đảm cơ chế và nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng
trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ngồi đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về bảo hộ quyền sở hữu
cơng nghiệp đối với nhãn hiệu như: Quyền sở hữu công nghiệp của các giáo sư
Albert Chavane và Jean Jacques Burst (Cộng hòa Pháp, 1993); Nhãn hiệu - sự
sáng tạo, giá trị và sự bảo hộ của Francis Le FEBVRE (Cộng hòa Pháp, 1994);
Nhãn hiệu của giáo sư Andrea Semprini Đại học Montpellier III (Cộng hòa
Pháp, 1995); Bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp của Tiến sĩ Gordian N.
Hasselblatt (Cộng hịa Liên bang Đức, Beck Mỹnchen, 2001)… Các cơng trình
nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề luật nhãn hiệu của các nước đó.
Ở nước ta, một số nhà khoa học, luật gia đã có những cơng trình khoa

học liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu như:
“Nâng cao vai trò và năng lực của Tịa án trong việc thực thi quyền sở hữu trí
tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (TS. Đinh Ngọc Hiện Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, 1999); “Ý nghĩa của Nghị
định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp và vấn đề tổ chức thực hiện” (PGS.TS Đoàn Năng); “Pháp luật về sở
hữu trí tuệ - Thực trạng và hướng phát triển trong những năm đầu thế kỷ
XXI” (PGS.TS Lê Hồng Hạnh - đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, 2000);
“Nhãn hiệu trong pháp luật dân sự” (PGS.TS Đinh Văn Thanh, luật gia Đinh
Thị Hằng)...; trong các hội thảo khoa học, nhiều nhà khoa học cũng đề cấp
đến vấn đề này, như: “Xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và thực
hiện Nghị định 12/CP/1999 của Chính phủ” (PGS.TS Đồn Năng), “Vai trò
của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt
Nam” (TS. Đinh Ngọc Hiện), “Tình hình đăng ký sở hữu cơng nghiệp và thực
trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam”; “Tầm quan trọng

3


của bảo hộ nhãn hiệu trong kỷ nguyên hội nhập kinh tế nhằm tăng cường tính
cạnh tranh tồn cầu” (Trần Việt Hùng). Tạp chí Nhà nước và Pháp luật cũng
có bài nghiên cứu, như: “Về thực trạng và phương hướng tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp ở nước ta hiện nay” (PGS.TS
Đồn Năng)...; trong Tạp chí Luật học cũng có một số bài như: “Thương hiệu
hay nhãn hiệu” (PGS.TS Lê Hồng Hạnh)...
Các công trình của các tác giả Việt Nam đề cập vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong mối quan hệ chung với các đối
tượng khác của sở hữu trí tuệ, có nêu lên thực trạng xâm phạm, có kiến nghị
giải pháp khắc phục... Nhưng, nhìn chung chưa có cơng trình nào nghiên cứu
chun sâu, tồn diện và có hệ thống về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu cơng
nghiệp đối với nhãn hiệu.

3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận, cơ sở pháp
lý, cho việc xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu ở nước ta và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
Với mục đích trên, trong luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Nghiên cứu nhãn hiệu với tư cách là một đối tượng của quyền sở hữu
công nghiệp trong mối quan hệ chung của việc bảo hộ sở hữu công nghiệp;
xây dựng một số khái niệm khoa học có liên quan đến nhãn hiệu, phạm vi bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu… nhằm tạo ra hệ quan điểm,
quan niệm và cách nhìn đúng đắn về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu trong thời đại hiện nay;
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về phạm vi bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam, đánh giá hiệu

4


quả điều chỉnh của pháp luật hiện hành; chỉ ra những hạn chế cần khắc phục
trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu trong hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ;
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu liên quan đến phạm vi bảo hộ, do các cơ quan nhà
nước và của Tòa án nhân dân, từ đó đề xuất các biện pháp đồng bộ nhằm bảo
hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu;
- Nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về phạm vi bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, bộ máy và biện pháp thực thi
bảo hộ nhãn hiệu của các nước, so sánh và tham khảo kinh nghiệm của nước
ngồi, nhất là mơ hình Tịa án về sở hữu công nghiệp;

- Đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng thực thi bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thông qua xác định phạm vi bảo hộ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về sở hữu cơng nghiệp nói chung.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử q
trình nghiên cứu và hồn thành luận văn, các phương pháp nghiên cứu khoa
học chuyên ngành như: Tổng kết thực tiễn, phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê, hệ thống hóa… cũng được sử dụng triệt để nhằm làm rõ các vấn đề
liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp nói chung và phạm vi bảo hộ quyền
sở hữu cơng nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Là cơng trình khoa học đầu tiên đi chun sâu nghiên cứu một cách
tồn diện và có hệ thống từ chế định pháp luật, cơ chế thực thi và thực trạng
về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam,
trong nội dung của luận văn đã có được một số đóng góp mới, cụ thể như:
5


5.1. Nêu rõ mọi khía cạnh của phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và từ việc nghiên cứu
pháp luật Việt Nam, chỉ rõ hiệu quả và những nguyên nhân, hạn chế.
5.2. So sánh, đối chiếu các quy định pháp luật Việt Nam về phạm vi
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu với quy định về bảo hộ
nhãn hiệu trong một số điều ước quốc tế và pháp luật của một số nước khác
trên thế giới, từ đó chỉ rõ “tính đầy đủ” và “tính hiệu quả” của pháp luật Việt
nam và mục tiêu cụ thể cần đạt tới.
5.3. Xây dựng được một số khái niệm khoa học có liên quan đến lĩnh
vực nghiên cứu như:
- Nhãn hiệu - đối tượng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp;

- Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu;
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu;
- Hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu;
- Hành vi sản xuất hàng giả và hàng giả...
5.4. Nêu ra các khuyến nghị và giải pháp đồng bộ nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật, tăng cường hiệu quả các hoạt động
thực thi bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với nhãn hiệu theo các tiêu
chí “đầy đủ” và “hiệu quả” để các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong
việc hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận án góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý
luận trong khoa học chuyên ngành pháp luật dân sự, thống nhất chung về khái
niệm phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu… và tầm
quan trọng của việc xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu và các kiến nghị trong luận văn phần nào

6


cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình soạn thảo
văn bản quy phạm pháp luật.
Nhiều kiến giải trong luận văn có ý nghĩa thực tiễn góp phần hồn thiện
cơ chế xác định phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Những giải pháp được nêu trong luận văn có tác dụng thiết thực đối với các
doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình bảo vệ nhãn hiệu của mình.
Những luận cứ khoa học và thực tiễn được trình bầy trong luận văn có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy khối

kiến thức về sở hữu trí tuệ; những kết luận, khuyến nghị trong luận án có thể
được tham khảo trong hướng dẫn thi hành và áp dụng pháp luật ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu.
Chương 2: Những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về phạm vi
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
Chương 3: Thực tiễn xâm phạm liên quan đến phạm vi quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu và Một số khuyến nghị hoàn thiện pháp luật ở
Việt Nam.

7


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ PHẠM VI BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
1.1. Khái niệm và phân loại nhãn hiệu
Sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất
và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng
cho hàng hoá cùng chủng loại. Thường nếu khơng có sự khác biệt rõ ràng đối
với người tiêu dùng, chúng thường chỉ khác nhau về chất lượng, giá cả và các
đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được hướng dẫn, giúp họ suy xét
các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn cho riêng mình trong số các hàng
hoá cạnh tranh. Do vậy, hàng hoá cần phải được đặt tên. Phương tiện để đặt
tên hàng hố trên thị trường chính là nhãn hiệu hàng hố. Thơng qua đó,
khuyến khích chủ sở hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lượng các
sản phẩm bán ra dưới nhãn hiệu đó, để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu

dùng và không ngừng nâng cao uy tín của mình trên thị thường đối với các
sản phẩm do mình sản xuất ra. Từ đó khiến nhãn hiệu khơng chỉ cịn là thơng
điệp và sự bảo đảm của nhà sản xuất, kinh doanh đối với người tiêu dùng mà
đã trở thành giá trị kết cấu của nền kinh tế, vì thế sự bảo hộ của Nhà nước và
rộng hơn là của pháp luật quốc tế đối với hàng hóa và nhãn hiệu ln là vấn
đề thời sự quan trọng. Bảo hộ đối với một đối tượng nào đó là vấn đề cần phải
làm rõ nó là gì, nghĩa là phải xác định được những đặc trưng hay các dấu hiệu
của đối tượng. Nói khía cạnh khoa học thì đó là khái niệm về đối tượng bảo
hộ và ở đây chính là khái niệm nhãn hiệu.
Trong khoa học cũng như trong điều chỉnh pháp luật hay trong quản lý,
khái niệm về nhãn hiệu đã được các học giả, các nhà lập pháp hay các nhà
quản lý, các nhà sản xuất, kinh doanh… xác định khá nhiều và cũng rất khác

8


nhau. Tuy khơng thể nêu và phân tích hết được, song những khái niệm nhãn
hiệu được giới thiệu và phân tích dưới đây sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn vấn
đề nghiên cứu.
1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu
Theo cách tiếp cận được lựa chọn tại Mục 1(1) của Luật Mẫu WIPO
về nhãn hiệu thì một nhãn hiệu hàng hố là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng
phân biệt hàng hố của doanh nghiệp này với hàng hoá của các đối thủ cạnh
tranh [21]. Cụ thể hơn, Hiệp định TRIPs cũng có đưa ra khái niệm nhãn hiệu là:
Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp dấu hiệu nào. Có khả năng phân biệt
hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu
hiệu đó đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình
họa và tổ hợp các sắc mầu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có
khả năng được đăng ký là nhãn hiệu. Trường hợp bản thân các dấu hiệu khơng
có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các thành viên có thể

quy định rằng khả năng được đăng ký thuộc vào tính phân biệt đạt được thơng
qua việc sử dụng. Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng
ký các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được [30, Đ.15]
Có thể thấy, định nghĩa nhãn hiệu theo quy định của WIPO chỉ tập
trung vào bản chất của nhãn hiệu đồng thời là hai chức năng chính của nhãn
hiệu, chức năng chỉ nguồn gốc và chức năng phân biệt. Trong khi đó, TRIPs
định nghĩa được đưa ra tại TRIPs lại có tính cụ thể nhưng vẫn bảo đảm bao
qt chung nhất các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu, từ bản chất, chức năng,
các yếu tố cấu thành đến điều kiện bảo hộ của nhãn hiệu đều được đề cập.
Ở cấp độ khu vực, Liên minh châu Âu cũng đưa ra một khái niệm về
nhãn hiệu theo các Chỉ thị số 89/104 và 40/94. Theo đó,
Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm bất kỳ dấu hiệu nào được trình
bày một cách rõ ràng và chi tiết (represented graphically), đặc biệt là các từ,

9


bao gồm tên riêng, các phác hoạ hình ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng của
hàng hố hoặc của bao bì sản phẩm, với điều kiện là những dấu hiệu đó phải
có khả năng phân biệt hàng hố hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với
hàng hoá, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác [25, tr. 14].
Với sự tiếp thu có chọn lọc tinh thần của định nghĩa nhãn hiệu trong
Hiệp định TRIPs và định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng khẳng định bản chất của nhãn hiệu
cũng như nêu bật các yếu tố cấu thành nhãn hiệu trong định nghĩa đề cập trên,
tuy nhiên Hiệp định này khơng chỉ dừng ở đó mà cịn đưa vào định nghĩa đó
phân loại nhãn hiệu:
Trong hiệp định này, nhãn hiệu được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ
hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa dịch
vụ của một người với hàng hóa dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên

người,hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu sắc, các yếu tố hình hoặc hình
dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu bao gồm
cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận [20, Đ.6].
Khái niệm theo Hiệp định này gần giống với khái niệm đưa ra theo Đạo
luật Lanham của Hoa Kỳ (1946):
Nhãn hiệu là từ hoặc một số từ, chữ số hoặc ký tự, hình ảnh
hoặc ký hiệu hoặc thiết kế đồ họa hoặc âm thanh hoặc sự kết hợp
các yếu tố đó mà một doanh nghiệp sử dụng để nhận biết hàng hóa
hoặc dịch vụ của mình và phân biệt chúng với hàng hóa hoặc dịch
vụ của người khác [27].
Theo quy định nêu trên, về cơ bản nhãn hiệu ở Hoa Kỳ là các dấu hiệu
vừa truyền thống vừa hiện đại. Quy định tương tự cũng được pháp luật Đức
quy định theo Điều 3 Luật nhãn hiệu 1995:
Các từ ngữ (bao gồm cả tên riêng), hình ảnh, chữ cái, chữ số,

10


dấu hiệu âm thanh, hình ảnh khơng gian ba chiều (bao gồm cả hình
dáng của hàng hóa và bao bì của hàng hóa) cũng như các màu sắc
và sự kết hợp của các màu sắc đó. Các dấu hiệu có liên quan phải
có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp này
với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác [26].
Khái niệm nhãn hiệu nêu trên tuy được quy định khái quát chung
nhưng cũng đã thể hiện được các điều kiện cơ bản của nhãn hiệu. Các dấu
hiệu được quy định trong luật không chỉ bao gồm các dấu hiệu truyền thống
được quy định trong các điều ước quốc tế mà còn bao gồm cả các dấu hiệu
hiện đại như dấu hiệu âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều.
Theo pháp luật về nhãn hiệu của Australia, “âm thanh, mùi vị có thể
được đăng ký. Thêm vào đó, nhãn hiệu được đăng ký ngay cả khi chúng

khơng có sẵn tính phân biệt với điều kiện là nhãn hiệu đó đã đạt được tính
phân biệt thơng qua sử dụng” [22].
Nhãn hiệu được bảo hộ theo quy định nêu trên có những nết đặc thù so
với các quy định về nhãn hiệu trong luật của Cộng hòa Liên bang Đức và Hoa
Kỳ đó là: ngồi dấu hiệu âm thanh thì mùi vị cũng có thể được đăng ký bảo hộ là
nhãn hiệu. Nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ thông qua việc sử dụng của các nhà
sản xuất, kinh doanh; nếu nhãn hiệu đó đã đạt được tính phân biệt thơng qua sử
dụng mặc dù trước khi sử dụng nhãn hiệu khơng có sẵn tính phân biệt.
Tóm lại, qua khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật nhãn hiệu của các tổ
chức quốc tế và của các nước như Đức, Hoa Kỳ, Australia nêu trên, thì thấy
rằng: Luật pháp quốc tế và luật pháp của các nước này đều xác định rõ nhãn
hiệu phải có những dấu hiệu thể hiện khả năng nhận biết và phân biệt. Dấu
hiệu nhận biết và phân biệt được coi là yếu tố định lượng rất quan trọng khi
phân biệt nhãn hiệu này với nhãn hiệu khác. Nhãn hiệu có các chức năng
phân biệt và nhận biết hàng hóa, dịch vụ (khơng bắt buộc phải là hàng hóa,

11


dịch vụ cùng loại) của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của chủ
thể kinh doanh khác (doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác). Đây là điều
kiện quan trọng nhất bảo đảm cho nhãn hiệu thực hiện chức năng của mình,
tạo dựng bản sắc riêng cho từng chủ thể kinh doanh và tránh sự nhầm lẫn khi
hàng hóa được đưa vào lưu thơng trên thị trường.
Như vậy, Nhãn hiệu là dấu hiệu hữu hình mà từ đó xác định được
nguồn gốc, đồng thời giúp phân biệt hàng hóa, dịch vụ với các sản phẩm
cùng loại nhưng khác nguồn gốc.
1.1.2. Phân loại nhãn hiệu
Mục đích của việc phân loại này sẽ giúp làm rõ bản chất của nhãn hiệu
với những nét đặc thù cho phép xác định đặc trưng của một loại nhãn hiệu đặc trưng này không chỉ ảnh hưởng tới yếu tố cảm nhận nhãn hiệu trong

người tiêu dùng, tới tính chất của việc sử dụng nhãn hiệu mà cịn ảnh hưởng
tới cả q trình đăng ký nhãn hiệu đó. Đồng thời cịn ảnh hưởng tới việc xác
định chế độ pháp lý đối với từng loại nhãn hiệu [1]. Trong nghiên cứu này, tác
giả phân loại các nhãn hiệu theo hai nhóm tiêu chí. Một là về chủ sở hữu
(gồm sở hữu của tập thể, hoặc một chủ sở hữu) và hai là dựa trên chức năng
của nhãn hiệu (gồm nhãn hiệu thường và nhãn hiệu chứng nhận).
1.1.2.1. Phân loại theo tiêu chí chủ sở hữu
Nhãn hiệu thuộc về một chủ sở hữu là nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo
hộ cho một tổ chức, hoặc cá nhân duy nhất và chỉ có tổ chức, các nhân đó mới
có quyền sở hữu nhãn hiệu. Đây là dạng nhãn hiệu phổ biến nhất, thường gặp
nhất trong quá trình thẩm định nhãn hiệu.
Nhãn hiệu tập thể: hầu hết các nước đều thừa nhận nhãn hiệu tập thể
là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của thành viên một “tập
thể” [29, Điều 7Bis] hay “tổ chức” (theo khoản 17, Điều 4, Luật SHTT 2005)
với hàng hoá, dịch vụ của các đối tượng khác không phải là thành viên. Đây

12


cũng là nhãn hiệu được đa số các văn bản quy định và các nước bảo hộ vì
phải tuân thủ nghĩa vụ bảo hộ trong Công ước Paris. Dễ thấy, nhãn hiệu tập
thể có các đặc điểm sau giúp phân biệt với các nhãn hiệu thông thường: Thứ
nhất, chủ sở hữu nhãn hiệu là một tổ chức còn người sử dụng lại là thành viên
của tổ chức; Thứ hai, chức năng của nhãn hiệu là nhằm phân biệt hàng hoá,
dịch vụ của tổ chức với các chủ thể khác, nó như sự bảo đảm cho hàng hoá,
dịch vụ của thành viên bằng uy tín của tổ chức sở hữu nhãn hiệu.
1.2.2.2. Phân loại theo tiêu chí chức năng
Ngồi những nhãn hiệu thơng thường, người ta cịn sử dụng nhãn hiệu
để chứng nhận cho hàng hóa, dịch vụ.
Nhãn hiệu chứng nhận: khác với cách phân loại theo chủ sở hữu nhãn

hiệu, cách phân loại theo chức năng này ít được các điều ước quốc tế và các
quốc gia điều chỉnh do việc các điều ước lớn như Công ước Paris, TRIPS
không quy định nghĩa vụ phải bảo hộ nó và do bản chất của nhãn hiệu chỉ
mang tính xác nhận một đặc điểm nào đó của hàng hố, dịch vụ mang nó, mà
khơng mang tính độc quyền hay áp dụng nội bộ. Có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về nhãn hiệu chứng nhận ở các quốc gia. Một số quốc gia quy định,
nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu của tổ chức có chức năng kiểm sốt,
chứng nhận về hàng hố, dịch vụ được dùng cho hàng hoá, dịch vụ của các cá
nhân, tổ chức kinh doanh khi hàng hoá, dịch vụ của họ phù hợp với các điều
kiện của nhãn hiệu chứng nhận. Nhưng tại Hoa Kỳ, không phải bất kỳ ai tuân
thủ các tiêu chuẩn đã xác định đều có thể sử dụng nhãn hiệu chứng nhận, mà
chỉ các doanh nghiệp đã được chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận cho phép
mới được sử dụng nhãn hiệu đó [21, tr.68]. Khoản 18, Điều 4, Luật SHTT
2005 của Việt Nam cũng quy định theo nghĩa hẹp như vậy:
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu
cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của

13


tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên
liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch
vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an tồn hoặc các đặc tính khác của
hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu [15].
Tuy nhiên, có thể rút ra một số đặc điểm của nhãn hiệu này: thứ nhất, là
nhãn hiệu của tổ chức có thẩm quyền chứng nhận về đặc tính nào đó của sản
phẩm, dịch vụ; thứ hai, bản thân tổ chức không được sử dụng mà chỉ áp dụng
cho các chủ thể khi họ phải đáp ứng các điều kiện nhất định của tổ chức sở
hữu nhãn hiệu; thứ ba, nhãn hiệu sẽ là một bảo đảm cho hàng hoá, dịch vụ
mang nhãn hiệu đáp ứng đặc tính nào đó mà nó chứng nhận, vì vậy sẽ giúp

chúng tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài những cách phân loại trên, cịn có thể phân chia nhãn hiệu theo
các tiêu chí khác như tính liên quan của nhãn hiệu (nhãn hiệu thông thường và
nhãn hiệu liên kết), mức độ phổ biến của nhãn hiệu (nhãn hiệu thông thường
và nhãn hiệu nổi tiếng),…
1.2. Khái niệm và phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
“Sở hữu cơng nghiệp” là một khái niệm mang tính chất ước lệ và được
nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, cấn nhấn mạnh rằng
việc sử dụng thuật ngữ “quyền sở hữu công nghiệp” là chỉ một dạng quyền sở
hữu trí tuệ chứ khơng phải chỉ quyền sở hữu đối với các tài sản cụ thể liên
quan đến ngành sản xuất công nghiệp.
Quyền sở hữu công nghiệp là các quyền hợp pháp của cá nhân, pháp
nhân đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp. Quyền sở hữu công nghiệp
phát sinh khi đối tượng sở hữu công nghiệp đáp ứng đủ các tiêu chuẩn bảo hộ
hoặc khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ. Hiện
nay, các đối tượng sở hữu công nghiệp (theo các công ước quốc tế và thực

14


tiễn luật các nước) bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích (hoặc mẫu hữu ích);
kiểu dáng cơng nghiệp; nhãn hiệu; tên thương mại; chỉ dẫn địa lý; thiết kế bố
trí mạch tích hợp; thơng tin bí mật (bí mật kinh doanh); quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh.
Theo Điều 1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết
ngày 20/03/1883 và được sửa đổi vào năm 1967, các đối tượng sở hữu công
nghiệp được bảo hộ là: sáng chế; mẫu hữu ích; kiểu dáng cơng nghiệp; nhãn
hiệu; nhãn hiệu dịch vụ; tên thương mại; chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa; tên gọi
xuất xứ hàng hóa; quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Sau hơn một thế kỷ, cho đến nay danh sách các đối tượng sở hữu cơng
nghiệp nói trên đã được bổ sung thêm một số đối tượng mới, đó là:
- Bí mật kinh doanh (bí mật thương mại, thông tin không bộc lộ...);
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp;
Quyền sở hữu cơng nghiệp là một loại quyền sở hữu, do vậy nó cũng
mang đặc điểm chung của quyền sở hữu (chẳng hạn chủ thể mang quyền ln
xác định cịn chủ thể mang nghĩa vụ là khơng xác định....). Ngồi ra, quyền sở
hữu cơng nghiệp cịn có những đặc điểm riêng để phân biệt khơng chỉ với
quyền sở hữu tài sản vật chất mà còn phân biệt với quyền tác giả - một lĩnh
vực thuộc quyền sở hữu trí tuệ.
1.2.2. Phạm vi bảo hộ Quyền sở hữu cơng nghiệp
Phạm vi có hiệu lực bảo hộ đối với quyền sở hữu công nghiệp là một đặc
trưng cơ bản của quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu cơng nghiệp
nói riêng. Đây chính là sự khác biệt giữa quyền sở hữu các đối tượng là tài sản
vật chất hữu hình với các đối tượng là tài sản vật chất vơ hình. Phạm vi bảo hộ
quyền sở hữu cơng nghiệp có tính hạn chế được thể hiện ở nhiều khía cạnh như
hạn chế về khơng gian, hạn chế về thời gian, hạn chế về các nội dung quyền
của chủ sở hữu (quyền sở hữu công nghiệp có thể bị hạn chế bởi quyền của

15


người sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng hoặc chủ sở hữu phải có nghĩa
vụ sử dụng sáng chế, nhãn hiệu hay quyền sử dụng sáng chế có thể bị chuyển
giao bắt buộc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền), việc sử
dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp không thuộc quyền sở hữu của mình
phải được sự cho phép của chủ sở hữu đối với quyền sở hữu cơng nghiệp đó,
v.v… Về cơ bản, phạm vi của quyền sở hữu công nghiệp thể hiện ở hai khía
cạnh đó là tính hạn chế về khơng gian và tính hạn chế về thời gian
a) Về khơng gian: Quyền sở hữu cơng nghiệp mang tính lãnh thổ tuyệt

đối. Khác với quyền sở hữu tài sản vật chất, chỉ một số loại tài sản nhất định
mới phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sở hữu công nghiệp chỉ phát sinh trên
cơ sở công nhận hoặc cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia nhất định đã
công nhận hoặc cấp văn bằng đó. Việc bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp trên
thế giới đều tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc pháp luật quốc gia. Cũng khác với
quyền tác giả mặc nhiên phát sinh ngay sau khi tác phẩm được tác giả sáng
tạo ra và thể hiện dưới một hình thức nhất định, quyền sở hữu công nghiệp
muốn được bảo hộ phải có đơn u cầu bảo hộ hoặc cơng nhận và được bảo
hộ từ thời điểm được cấp văn bằng bảo hộ hoặc quyết định công nhận (trừ
một số đối tượng như tên thương mại, bí mật kinh doanh).
Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ đặc trưng của đối
tượng sở hữu công nghiệp - một loại tài sản vơ hình được truyền bá bằng con
đường nhận thức nên rất dễ bị xâm phạm, khó kiểm sốt. Hơn nữa, việc áp
dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp chủ yếu gắn với q trình sản xuất
cơng nghiệp, với mục đích thương mại và thỏa mãn nhu cầu vật chất của con
người nên thường mang lại lợi ích lớn, có ảnh hưởng tới sự phát triển của
khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy, quyền sở hữu cơng
nghiệp mang tính khơng gian và lãnh thổ tuyệt đối.

16


b) Về thời gian: Nhìn chung, quyền sở hữu cơng nghiệp chỉ được bảo
hộ trong một khoảng thời gian nhất định được ghi trong văn bằng bảo hộ và
chủ sở hữu các quyền sở hữu công nghiệp phải nộp lệ phí cho sự bảo hộ đó.
Khoảng thời gian nhất định để bảo hộ là khoảng thời gian hợp lý để chủ sở
hữu các quyền sở hữu công nghiệp khai thác các đối tượng sở hữu cơng
nghiệp của mình để bù đắp những chi phí vật chất và tinh thần khi tạo ra đối
tượng đó. Khi kết thúc thời hạn bảo hộ (kể cả thời gian gia hạn), quyền sở

hữu công nghiệp của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu chuyển giao quyền
sử dụng cũng chấm dứt, ngoại trừ một số đối tượng sở hữu công nghiệp như
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý... được bảo hộ vô thời hạn nhưng các đối tượng
đó cũng như chủ sở hữu các đối tượng đó phải đảm bảo một số điều kiện do
pháp luật quy định.
Yêu cầu về phạm vi thời gian bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp xuất
phát từ sự phát triển của khoa học công nghệ, của kinh tế xã hội bởi vì các đối
tượng của quyền sở hữu cơng nghiệp là những sản phẩm trí tuệ có ích cho xã
hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ. Nếu những
đối tượng quyền sở hữu cơng nghiệp được bảo hộ vĩnh viễn thì sẽ kìm hãm sự
sáng tạo, dẫn đến tình trạng bưng bít thông tin. Sau khi hết thời hạn bảo hộ, các
đối tượng sở hữu công nghiệp này sẽ trở thành tài sản chung của nhân loại.
c. Phạm vi nội dung quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp là một quyền dân sự theo nghĩa rộng. Đây
không phải là một quyền dân sự “tuyệt đối” theo cách hiểu truyền thống từ
trước đến nay về quyền dân sự. Quyền sở hữu công nghiệp thường gắn với các
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mục đích của các quan hệ dân sự về quyền sở
hữu công nghiệp không phải là để thỏa mãn những mục đích tiêu dùng dân sự
thường ngày của các chủ thể mà chính là các lợi ích kinh tế thu được từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh có sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.

17


Đặc tính khơng hữu hình của sản phẩm sáng tạo trí tuệ nói chung và
của đối tượng quyền sở hữu cơng nghiệp nói riêng sau khi bộc lộ có thể lan
truyền vơ giới hạn, khơng thể kiểm sốt được. Do vậy, để chiếm giữ, người
chiếm giữ hoặc là không công bố, giữ bí mật về sản phẩm, khơng đưa vào sử
dụng, khai thác hoặc có khai thác nhưng phải giữ không cho người khác biết
về bản chất của đối tượng đó. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này khơng thể thực

hiện được hoặc nếu có thực hiện được thì khơng có ý nghĩa. Do vậy, quyền
năng quan trọng nhất trong nội dung quyền sở hữu công nghiệp là quyền sử
dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Quyền sở hữu công nghiệp là một quyền đặc biệt thể hiện khả năng độc
quyền khai thác, sử dụng của chủ sở hữu đối với đối tượng được bảo hộ. Việc
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, của
tác giả bằng cách tạo điều kiện cho họ thu lợi, bù đắp những chi phí mà họ đã bỏ
ra. Do đó, chỉ chủ sở hữu mới có quyền sử dụng và chuyển giao cho người khác
quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu các đối tượng sở hữu cơng nghiệp của mình.
Trong đó, phạm vi độc quyền của chủ sở hữu nằm ở ba nội dung chính:
độc quyền sử dụng, độc quyền ngăn cấm và độc quyền định đoạt. Tất nhiên,
mỗi độc quyền này cũng có những giới hạn tương ứng.
1.3. Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
và phạm vi của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1.3.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Trong nền kinh tế thị trường với sự tự do cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp vấn đề bảo hộ nhãn hiệu bằng quyền sở hữu cơng nghiệp có vai trị rất
quan trọng.
Nhãn hiệu là một tài sản vơ hình rất có giá trị trong giao lưu thương
mại, là một đối tượng sở hữu trí tuệ dễ bị xâm hại. Nhãn hiệu đóng vai trị
quan trọng trong việc bảo vệ những nhà sản xuất, kinh doanh trung thực, bảo

18


×