Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Pháp luật về hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.77 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM CHUNG THỦY

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC
VÀ CHẾ BIẾN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM CHUNG THỦY

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC
VÀ CHẾ BIẾN KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang

HÀ NỘI - 2012

2


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, và nhất là gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) khiến cho Việt Nam có một vị trí nhất định trên trường
quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước đem lại những đổi thay tích cực trong kinh tế, văn hóa, chính trị, xã
hội. Song chính những điều đó lại tác động khơng ít đến môi trường. Vấn đề ô
nhiễm môi trường đã và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn ở Việt
Nam. Hàng ngày, trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta dễ dàng
bắt gặp những hình ảnh, những thơng tin về việc mơi trường đang bị suy
thối, đang bị ơ nhiễm. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ môi trường, tình
trạng ơ nhiễm mơi trường càng lúc càng trở nên trầm trọng. Việc ô nhiễm môi
trường ở nước ta do nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân
chính là việc khai thác khoáng sản tràn lan. Chúng ta vẫn tự hào rằng đất
nước mình có "Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu". Nằm ở khu vực Đơng
Nam Châu Á, Việt Nam có nguồn tài ngun khống sản phong phú, đa dạng,
là nguồn nguyên liệu, tiềm năng lớn của quốc gia. Đó là một lợi thế. Nhưng
dường như, việc khai thác khoáng sản một cách tối đa, vay mượn cả tài
nguyên của các thế hệ tương lai, bất chấp quy luật tự nhiên và đạo lý xã hội,
gạt bỏ vấn đề về mơi sinh và những lợi ích chính đáng của thế hệ sau đã tạo
nên một thách thức về mơi trường mang tính sống cịn đối với Việt Nam. Vơ

tình hay hữu ý, chúng ta đang làm chảy máu nguồn tài ngun khống sản,
phá hủy mơi trường sống của chính mình một cách nghiêm trọng. Hoạt động
khai thác và chế biến khoáng sản ngày càng gia tăng ở Việt Nam, những tác
động xấu của hoạt động này đến mơi trường ngày càng đa dạng và phức tạp
địi hỏi sự quan tâm của Nhà nước, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật.
Hiện nay, một số văn bản pháp luật đã quy định về hoạt động khai thác và chế

3


biến khoáng sản tạo ra những cơ sở pháp lý nhất định để hoạt động khai thác
và chế biến khoáng sản phát triển, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, vẫn cịn
thiếu sót trong những quy định đó, chưa đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh
hoạt động này trên thực tế để bảo vệ môi trường. Đặc biệt, việc thực thi
những quy định này còn yếu kém, nhiều bất cập, cần được bổ sung kịp thời.
Với những lý do trên, tác giả mong muốn tìm hiểu nghiên cứu đề tài "Pháp
luật về hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản ở Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay ở nước ta, ngồi một số bài báo, cơng trình nghiên cứu như:
PGS.TS. Nguyễn Đức Khiển, Luật và các tiêu chuẩn chất lượng môi trường,
Nxb Hà Nội, 2002; TS. Bùi Đường Nghiêu, Thuế mơi trường, Nxb. Tài chính,
Hà Nội, 2006; ThS. Bùi Đức Hiển, Về quyền được sống trong mơi trường
trong lành ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học, số 11/2011... chỉ đề cập
đến một khía cạnh nào đó của hoạt động khai thác và chế biến khống sản, thì
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ
về vấn đề: Khía cạnh pháp lý của hoạt động khai thác, chế biến khống sản
với các quy phạm pháp luật có nội dung quan tâm đến quyền lợi của mơi
trường. Ngồi ra, hoạt động khoáng sản liên quan trực tiếp đến rất nhiều văn
bản pháp luật: Luật đầu tư, Luật xây dựng, Luật Doanh nghiệp, Luật bảo vệ
môi trường... và Luật Khống năm 2010 mới ra đời. Vì vậy, việc nghiên cứu

một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật đầy
đủ, phù hợp với thực trạng khai thác và chế biến khoáng sản ở Việt Nam và là
cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường trong
hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản. Những kiến nghị của đề tài hy
vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định
pháp luật của Việt Nam trong hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản.
Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một
tài liệu tham khảo có giá trị.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
điều chỉnh pháp luật về hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ cụ thể của luận
văn là:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động khai thác, chế biến
khoáng sản và điều chỉnh pháp luật về hoạt động khai thác, chế biến khống
sản ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động khai thác, chế
biến khống sản, từ đó đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của pháp luật
hiện hành về hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản.
- Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, luận
văn đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về
hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu luận văn
Để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu trên, luận văn sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: Phương pháp tổng hợp và

phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp
nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn
được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện
chứng; Trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là: Các vấn đề lý luận về hoạt động
khai thác, chế biến khoáng sản và pháp luật về hoạt động khai thác, chế biến
khoáng sản; Các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về hoạt động khai

5


thác, chế biến khoáng sản. Thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật về hoạt
động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam.
Luật khoáng sản 1996; Luật số 46/2005/Q11 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật khoáng sản được Quốc Hội thông qua ngày 14/6/2005; Nghị
định 07/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số
160/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật khoáng sản, hoạt động khoáng sản bao gồm khảo sát, thăm dị, khai
thác và chế biến khống sản ở thể rắn, thể khí, nước khống và nước nóng
thiên nhiên, riêng dầu khí và các loại nước thiên nhiên khác được điều chỉnh
bằng các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, theo Luật khoáng sản năm 2010
quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật như sau:
Luật này quy định việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản,
bảo vệ khống sản chưa khai thác, thăm dị, khai thác khống sản,
quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội
thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc thù kinh tế và thềm
lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [30, Điều 1].

Vậy là Luật Khoáng sản năm 2010 chỉ điều chỉnh hoạt động khoáng
sản bao gồm hoạt động thăm dị khống sản và hoạt động khai thác khống
sản. Trong khai thác khoáng sản bao gồm cả phân loại, làm giàu khống sản
gắn với q trình khai thác. Hoạt động chế biến khoáng sản sau khai thác
(thường gọi là chế biến sâu khoáng sản), hoạt động tiêu thụ, tàng trữ, vận
chuyển khống sản khơng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khống sản
năm 2010. Chính vì vậy, hai chữ chế biến trong luận văn bản chất chính là
hoạt động phân loại, làm giàu khống sản gắn với q trình khai thác, chứ
khơng phải là hoạt động chế biến khống sản sau khai thác. Theo quan điểm
trong Luật khoáng sản năm 2010 cũng như các văn bản pháp luật về khoáng
sản thì hoạt động khống sản bao gồm cả thăm dị, khai thác khoáng sản. Tuy

6


nhiên trong luận văn này, tác giả xin tập trung nghiên cứu hoạt động khai thác
khoáng sản trong nước. Tác giả khơng đi sâu nghiên cứu hoạt động thăm dị
khống sản.
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung cơ
bản của pháp luật về hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản theo Luật
khoáng sản năm 2010. Vì vậy, tác giả khơng đề cập đến sự điều chỉnh của
pháp luật trong lĩnh vực khai thác và chế biến dầu khí, cũng như các loại nước
thiên nhiên khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát pháp luật về hoạt động khai thác, chế biến
khoáng sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động khai thác khoáng sản và
chế biến khoáng sản ở Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của pháp luật về hoạt
động khai thác, chế biến khoáng sản.

7


Chương 1
KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC,
CHẾ BIẾN KHOÁNG SẢN

1.1. KHÁI NIỆM KHOÁNG SẢN VÀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, CHẾ
BIẾN KHỐNG SẢN

1.1.1. Định nghĩa khống sản
Khống sản là từ Hán - Việt, bính âm là Kuàng chăn. Trong đó theo
Hán Việt Thiều Chửu thì "qng/ khống nghĩa là quặng mỏ và phàm vật gì
lấy ra ở mỏ đều gọi là quáng, người Việt quen đọc là khoáng. Cịn sản là nơi
sinh ra. Khống sản có nghĩa là nơi sinh ra quặng mỏ" [18].
Khoáng sản là những dạng vật chất rất gần gũi và đóng vai trị to lớn
trong đời sống con người như sắt, than đá, kẽm, vàng, dầu khí, nước khống
thiên nhiên… Khống sản là tài nguyên hầu hết không tái tạo được, là tài sản
quan trọng của quốc gia, phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý,
tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Khống sản có thể tồn tại ở trạng thái rắn (quặng, đá...),
lỏng (dầu, nước khống...) hoặc khí (khí đốt...).
Khống sản cũng có thể hiểu là nguồn ngun liệu tự nhiên có nguồn
gốc vơ cơ hoặc hữu cơ, tuyệt đại bộ phận nằm trong lịng đất và q trình hình
thành có liên quan mật thiết đến q trình lịch sử phát triển của vỏ trái đất
trong thời gian dài từ ngàn năm đến hàng chục, hàng trăm triệu năm.

Trong địa chất học, khoáng sản được định nghĩa là các đá hoặc tập
hợp kháng vật tự nhiên trong vỏ trái đất, tạo thành do các quá trình địa chất
xác định, mà từ đó con người có thể lấy kim loại, các hợp chất hay các
khoáng vật để sử dụng trong nền kinh tế quốc dân. Các ngành kinh tế khác
nhau có các u cầu khác nhau đối với khống sản được sử dụng cho ngành

8


đó. Vì vậy, chúng ta có khống sản kim loại đen, khống sản kim loại màu,
khống sản hóa chất, khống sản năng lượng (dầu mỏ, khí đốt), khống sản đá
q. Theo từ điển địa chất thì "khống sản (Hữu ích) là những thành tạo
khống vật tự nhiên mà ta có thể lợi dụng trực tiếp hoặc từ đó lấy ra những
kim loại hay khoáng vật sử dụng trong nền kinh tế quốc dân". Khoáng sản
chia ra: khoáng sản kim loại (Quặng), khoáng sản phi kim loại (thường gọi là
quặng) và các đá hữu cơ chảy được (Các nhiên liệu như than, dầu lửa, khí
đốt...). XA. Va khơ-rơ-mê-ép định nghĩa: "Khống sản (hữu ích) là những
khống chất tự nhiên mà về chất cũng như về lượng đều có lợi khi sử dụng
trong nền kinh tế quốc dân" [19].
Dưới góc độ pháp luật, khống sản được hiểu là các tài ngun trong
lịng đất, trên mặt đất dưới dạng những tích tụ tự nhiên khống vật, khống chất
có ích ở thể rắn, thể lỏng, thể khí hiện tại hoặc sau này có thể khai thác, khoáng
vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ mà sau này có thể được khai thác lại, cũng là
khống sản. Luật Khống sản năm 2010 có quy định: "Khống sản là khống vật,
khống chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong
lịng đất, trên mặt bao gồm cả khống vật, khống chất ở bãi thải của mỏ" [30].
Tóm lại, khống sản là khống vật, khống chất có ích được tích tụ tự
nhiên hàng ngàn, hàng nghìn năm ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong
lịng, trên mặt đất. Khống sản là tài ngun hầu hết khơng tái tạo được, là tài
sản quan trọng của quốc gia. Giá trị to lớn của khống sản cũng như tính phức

tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khảo sát, thăm dị, khai thác,
chế biến khống sản tất yếu dẫn tới Nhà nước quản lý khoáng sản bằng pháp luật.
1.1.2. Phân loại khoáng sản
* Theo chức năng sử dụng, khống sản được phân ra làm 3 nhóm lớn:
1) Khống sản kim loại:
• Nhóm khống sản sắt và hợp kim sắt: Sắt, mangan, crom, vanadi,
niken, molipden, vonfram, coban...

9


• Nhóm kim loại cơ bản: Thiếc, đồng, chì, kẽm, antimoan...
• Nhóm kim loại nhẹ: Nhơm, titan, berylly...
• Nhóm kim loại q hiếm: vàng, bạc, bạch kim...
• Nhóm kim loại phóng xạ: Uran,thori..., nhóm kim loại hiếm và đất hiếm.
2) Khống sản phi kim loại:
• Nhóm khống sản hóa chất và phân bón: Apatit, photphorit, barit,
fluorit, muối mỏ, thạch cao, S (pirit, prontin,…), spectin...
• Nhóm ngun liệu: Sứ, gốm, thủy tinh chịu lửa, bảo ơn (sét - kaolin,
magnezit, fenspat, diatomit)…
• Nhóm nguyên liệu kỹ thuật: Kim cương, grafit, thạch anh, atbet, zeolit.
• Vật liệu xây dựng: Đá macma và biến chất, đá vơi, đá hoa, cát sỏi...
3) Khống sản cháy: than (than đá, than nâu, than bùn), dầu khí (dầu
mỏ, khí đốt, đá dầu)...
* Theo mục đích và cơng dụng người ta cũng có thể chia ra các
dạng khống sản như sau:
1) Khống sản nhiên liệu hay nhiên liệu hóa thạch bao gồm: Dầu mỏ,
hơi đốt, đá phiến dầu, thanh bùn, than...
2) Khoáng sản phi kim bao gồm: Các dạng vật liệu xây dựng như đá vôi,
cát, đất sét..., đá xây dựng như đá hoa cương... và các khoáng sản phi kim khác.

3) Khoáng sản kim loại bao gồm: Các loại quặng kim loại đen, kim
loại màu và kim loại đá quý.
4) Nhiên liệu đá màu bao gồm: Ngọc thạch anh, đá mã não, canxedon,
charoit, nefrit...và các loại đá quý như kim cương, ngọc lục bảo, hồng ngọc,
xa phia...
5) Thủy khoáng bao gồm: Nước khoáng và nước ngọt ngầm dưới đất.

10


6) Nhiên liệu khống - hóa bao gồm: Apatit và các muối khoáng khác
như photphat, barit, borat...
* Theo trạng thái vật lý có thể phân chia khống sản ra:
1) Khống sản rắn: Quặng kim loại đen, kim loại màu, đá...
2) Khống sản lỏng: Dầu mỏ, nước khống...
3) Khống sản khí: Khí đốt, khí trơ...
1.1.3. Hoạt động khai thác và chế biến khống sản, vai trị và ảnh
hƣởng của nó đến phát triển kinh tế - xã hội
Hoạt động khai thác, chế biến khống sản có từ khá lâu đời. Lúc đầu,
hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam cũng như các quốc gia
khác trên thế giới chỉ là khai thác đá, sắt, đồng… để làm công cụ phục vụ cho
chăn ni, trồng trọt, luyện vũ khí để chống giặc ngoại xâm. Từ rất lâu, từ
trong truyền thuyết Thánh Gióng, dân mình đã biết rèn binh đao để đánh giặc,
tức là đã biết khai thác và chế biến quặng sắt. Theo ghi chép của Bác học Lê
Quý Đôn thì từ xa xưa dân mình đã biết những dấu tìm kiếm khống sản như
căn cứ vào lồi cây mọc trên đất tự nhiên mà biết dưới lịng đất có khống sản
gì. Nhưng phải đến thời Pháp thuộc, khai thác khống sản mới định hình như
một nghề. Khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, chúng đã cho thành lập Sở địa
chất Đông Dương. Nơi đây tập trung nhiều nhà bác học địa chất nổi tiếng của
nước Pháp và cả thế giới lúc bấy giờ. Rất nhiều mỏ khoáng sản của Việt Nam

đã được người Pháp phát hiện ra. Thực dân Pháp khai thác khoáng sản để làm
nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu của chúng. Tịa quyền Đơng Dương đã bán
nhiều mỏ khống sản của ta cho các cơng ty khai khoáng của Pháp. Khi đất
nước thống nhất chúng ta lại quan tâm đến việc phát triển kinh tế. Chỉ đến gần
đây, đất nước ta mới chú trọng đến hoạt động khoáng sản, mới nhận thấy tầm
quan trọng của hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản trong sự phát triển
kinh tế, xã hội.

11


Tuy khơng có vai trị quyết định đến sự tồn tại và phát triển của loài
người như các thành phần mơi trường nước, đất, khơng khí…nhưng tài
ngun khống sản cũng là yếu tố hết sức quan trọng trong việc bảo đảm sự
duy trì và phát triển xã hội. Vai trị và tầm quan trọng của khoáng sản được
thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Về phương diện kinh tế: Khi nói đến vai trị của khống sản, ta khơng
thể khơng kể đến tầm quan trọng của nó đối với các ngành cơng nghiệp.
Khống sản là nguồn ngun liệu chính cho nhiều ngành cơng nghiệp then
chốt. Điển hình như: Đá vơi dùng cho sản xuất xi măng, sản xuất vật liệu xây
dựng; Quặng sắt được dùng cho ngành luyện kim đen, luyện kim màu, cơ khí,
cơng nghiệp phân bón, cơng nghiệp hóa chất…; Than đá, dầu mỏ, khí gas,
than bùn, khí đốt, băng cháy là những khoáng sản cung cấp năng lượng chủ
yếu cho nhiều ngành kinh tế quan trọng cũng như phục vụ sinh hoạt hàng
ngày của con người. Nước khống, nước nóng thiên nhiên…là những tài
ngun có giá trị cao trong việc bảo vệ sức khỏe con người, đồng thời cũng là
nguồn nguyên liệu đặc biệt đối với một số ngành công nghiệp. Không thể liệt
kê hết được vai trị của khống sản với tư cách là một nguồn nguyên liệu. Tuy
nhiên công nghiệp chế biến của Việt Nam cịn chưa phát triển, các loại
khống sản khai thác được vẫn chủ yếu dùng để xuất khẩu thơ.

Tài ngun khống sản đã có những đóng góp nhất định vào tăng
trưởng kinh tế. Khống sản hay nói chính xác là ngành cơng nghiệp khai
khống là một ngành chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế của nhiều nước.
Mặc dù ngành công nghiệp khai khoáng ở nước ta chưa phát triển mạnh
nhưng nó cũng đã đóng một vai trị đáng kể trong nền kinh tế quốc dân Việt
Nam hiện nay. Theo Tổng cục Thống kê:
Năm 1995 giá trị sản xuất toàn ngành cơng nghiệp khai
khống đóng góp khoảng 4,81% tổng thu nhập quốc dân. Năm
2008, thu nhập của ngành công nghiệp khai khoáng đạt 131.968 tỷ

12


đồng tăng gấp 3,1 so với năm 2000 và gấp gần 12 lần so với năm
1995. Tốc độ tăng trưởng ngành thuộc loại rất cao 15,2/năm [35].
Khi tiến hành các hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản, doanh nghiệp
phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước. Trong đó đáng kể
nhất là thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập
doanh nghiệp. Theo số liệu từ Bộ Tài chính, "nguồn thu từ cơng nghiệp khai
khống của Việt Nam (kể cả dầu khí) đạt trung bình 26% - 27% trong giai
đoạn 2001 - 2005, riêng năm 2006 đạt xấp xỉ 31% do giá dầu thô tăng" [3].
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, "doanh thu hàng năm từ các chất
hydrocarbon của Việt Nam đạt 31,8% trong giai đoạn 2000 - 2003" [5]. Vậy
khai khoáng đã tạo ra một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
Về phương diện chính trị: Tài nguyên khống sản giúp các quốc gia
bình ổn, giữ gìn trật tự xã hội. Cơng nghiệp khai khống đã tạo cơng ăn việc
làm cho người lao động. "Năm 2008, tổng số lao động trong ngành khai
khống khoảng 431, 2 nghìn người, chiếm 0,96% tổng số lao động đang làm
việc trong nước. Tuy số lượng lao động này chỉ đứng thứ 11/18 trong các
ngành và lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam" [40]. Nhưng một phần nào ngành cơng

nghiệp khai khống đã giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động,
giảm bớt các tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Hơn nữa, khống
sản cịn tạo cho các quốc gia có một vị trí quan trọng trong giao lưu quốc tế.
Tài ngun khống sản góp phần khơng nhỏ vào việc làm tăng tính độc lập, tự
chủ của mỗi quốc gia. Thậm chí trong một số trường hợp, tài ngun khống
sản cịn làm tăng các ảnh hưởng về mặt chính trị của quốc gia này đối với
quốc gia khác. Các quốc gia khơng có tài ngun khống sản thường phụ
thuộc rất nhiều về kinh tế cũng như chính trị đối với các quốc gia có ưu thế
trong vấn đề này.
Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt của nó. Việc khai thác khống sản
đem lại rất nhiều lợi nhuận. Nhưng cũng tác động không nhỏ đến môi trường,

13


đến cuộc sống của con người. Hoạt động khai thác khống sản thường được
tiến hành trên quy mơ rộng lớn, với số lượng khai thác nhiều, thời gian hoạt
động kéo dài và thường phải sử dụng nhiều phương diện và hóa chất trợ giúp.
Do vậy, phạm vi và mức độ ảnh hưởng tới môi trường của hoạt động này
thường là rất nghiêm trọng. Để kiểm soát hoạt động khai thác khoáng sản,
Luật khoáng sản đã ra đời. Pháp luật về khoáng sản tạo ra những hành lang
pháp lý minh bạch, thúc đẩy nền cơng nghiệp khai khống phát triển, đem lại
nhiều lợi ích nhất cho Việt Nam và hạn chế tối đa những tác động xấu đến
môi trường.
1.2. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT KHỐNG SẢN

Pháp luật khống sản là một lĩnh vực pháp luật tương đối mới không
chỉ đối với hệ thống pháp luật Việt Nam mà còn cả đối với hệ thống pháp luật
của nhiều nước đang phát triển khác. Sự vắng bóng hoặc tình trạng kém phát
triển của luật khống sản ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta

được giải thích bởi nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên có một lý do khá phổ
biến đối với các nước đang phát triển là sự phát triển bằng mọi giá, kể cả hy
sinh các nguồn tài nguyên khoáng sản. Vấn đề được các nước đang phát triển
quan tâm là làm sao khai thác khoáng sản đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho
quốc gia, chứ không hề quan tâm đến việc khai thác khoáng sản tác động như
thế nào đến mơi trường sống.
Định nghĩa pháp luật khống sản và xác định phạm vi của pháp luật
khoáng sản là rất khó. Bởi vì tài ngun khống sản vốn là tài sản của quốc
gia nên sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan nhà nước vào việc quản lý, bảo
vệ tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản là rất lớn. Khiến cho lĩnh
vực pháp luật về khoáng sản có nhiều dấu ấn của yếu tố quyền lực. Hơn nữa,
dù Luật khoáng sản ra đời là một đạo luật đơn hành, để điều chỉnh các quan
hệ liên quan đến việc quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên
khoáng sản. Song Luật khoáng sản lại bao gồm khá nhiều các quy định về bảo

14


vệ mơi trường. Khai khống vốn là một trong những hoạt động của con người
có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến mơi trường nên việc luật khống sản
quy định nhiều về bảo vệ môi trường là một điều dễ hiểu. Điều 30 Luật
khoáng sản năm 2010 quy định rõ các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động
khai khoáng phải thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường như phải thường
xuyên sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường; thực
hiện các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và cải
tạo, phục hồi môi trường hay phải ký quỹ cải tạo, phục hồi mơi trường theo
quy định của Chính phủ. Để định nghĩa được pháp luật khoáng sản, cần xác
định những vấn đề mà nó điều chỉnh. Tại điều 1 Luật khoáng sản năm 2010
quy định:
Luật này quy định việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng

sản; bảo vệ khống sản chưa khai thác thăm dị, khai thác khống
sản; quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi đất liền, hải
đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Khống sản là dầu khí, khống sản là nước thiên nhiên khơng
phải là nước khống, nước nóng thiên nhiên khơng thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật này [30].
Theo nội dung của điều 1 của Luật Khống sản năm 2010 thì ta có thể
thấy pháp luật khống sản điều chỉnh những vấn đề sau: Thứ nhất, pháp luật
khoáng sản quy định về việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản. Thứ hai,
pháp luật khoáng sản điều chỉnh những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ
khoáng sản chưa khai thác thăm dị, khai thác khống sản. Thứ ba, pháp luật
khống sản đưa ra những quy định về việc quản lý nhà nước về khoáng sản
trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Trừ khống sản là dầu khí, khống sản là nước thiên nhiên khơng

15


phải là nước khống, nước nóng thiên nhiên do các đạo luật chuyên ngành
khác điều chỉnh (Luật dầu khí...)
Xuất phát từ những phân tích về phạm vi của pháp luật khống sản
như đã nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa như sau đây về pháp luật khoáng
sản: pháp luật khoáng sản là lĩnh vực pháp luật chuyên ngành bao gồm các
quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa
các chủ thể trong quá trình quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn tài
nguyên khoáng sản trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau
nhằm đạt hiệu quả trong cả việc bảo vệ và sử dụng tài nguyên khoáng sản.
1.3. ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT KHAI THÁC, CHẾ BIẾN KHOÁNG SẢN


1.3.1. Pháp luật khoáng sản là sự giao thoa giữa pháp luật kinh tế
và pháp luật mơi trƣờng
Pháp luật khống sản có một mối quan hệ đặc biệt với pháp luật kinh
tế và pháp luật môi trường. Thực tế, đối với nhiều lĩnh vực pháp luật hiện nay
việc xác định ranh giới giữa chúng là rất khó. Do sự phát triển đan xen của
các quan hệ kinh tế xã hội, khiến cho giữa các lĩnh vực pháp luật này luôn
xuất hiện các điểm giao thoa. Pháp luật kinh tế là một bộ phận của cơ chế
kinh tế, nó phản ánh tính chất của nền kinh tế. Pháp luật kinh tế mà phát triển
tốt, tạo ra được một hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, sẽ thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, tạo ra những cơ hội để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Luật
kinh tế được định nghĩa là: Tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các doanh
nghiệp với nhau và giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý kinh tế.
Trong hoạt động khoáng sản, một trong những chủ thể của nó là các chủ đầu
tư và chủ doanh nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản. Các chủ đầu tư và
doanh nghiệp này cũng là đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật kinh tế.
Điển hình như tập đồn Cơng nghiệp than - khống sản Việt Nam (Vinacomin)

16


là một doanh nghiệp nhà nước chủ yếu sản xuất kinh doanh trên nền tài
ngun khống sản. Cơng ty nhà nước này hoạt động theo Luật doanh nghiệp
nhà nước, tuân thủ theo mọi quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước. Các
hợp đồng làm ăn của công ty cũng phải tuân theo Luật thương mại. Song quy
trình cấp phép hoạt động khoáng sản của Vinacomin, hay quyền khai thác
khoáng sản, quyền chuyển nhượng quyền khai thác khống sản thì hồn tồn
tn thủ theo pháp Luật khống sản.
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao đời sống về vật chất và

tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ
xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá
nhân và cả loài người trong quá trình sống. Trong hệ thống kinh tế xã hội,
hàng hóa được di chuyển từ sản xuất, lưu thơng, phân phối và tiêu dùng cùng
với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, phế thải. Để có
được ngun liệu cung cấp cho các ngành cơng nghiệp, có nguyên liệu để tạo
ra sản phẩm, con người đã phải khai thác khoáng sản. Con người khai thác
quặng sắt để sản xuất ra gang thép, khai thác Coban để sản xuất ra men trắng,
sơn màu. Khoáng sản Titan được dùng rộng rãi trong ngành chế tạo tên lửa và
máy bay hiện đại…Khoáng sản đem lại cho con người một nguồn nhiên liệu
phong phú và đa dạng. Khai thác khoáng sản đã đem lại nhiều lợi nhuận, tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
Song hoạt động khống sản lại có khả năng gây ảnh hưởng rất xấu đến
môi trường và đời sống con người. Theo số liệu thống kê, "năm 1995 ở nước
ta có 559 khu khai thác mỏ, trong đó có 108 mỏ kim loại, 45 mỏ vàng, 16 mỏ
đá quý, 125 mỏ than, 265 mỏ phi kim loại. Ngồi ra cịn hàng trăm điểm khai
thác tự do vật liệu xây dựng, thiếc vàng…"[6]. Hoạt động khai thác khoáng
sản ảnh hưởng vô cùng to lớn đến môi trường. Hầu hết các vùng khai thác
khống sản khơng có kế hoạch hồn ngun mơi trường đất, nên đã phá hoại
mơi trường đất, làm tăng diện tích đất trồng đồi núi trọc, giảm diện tích rừng,

17


gây hiện tượng xói lở, bồi lắng. Bên cạnh đó, ô nhiễm không khí và ô nhiễm
môi trường nước ở các vùng khai thác khoáng sản là rất nghiêm trọng.
Khoáng sản là tài nguyên hầu hết không tái tạo được. Trong khi đó nhu cầu sử
dụng khống sản của con người ngày càng lớn khiến cho nguồn tài nguyên
khoáng sản suy giảm đáng kể. Trữ lượng khoáng sản cạn kiệt sẽ gây mất cân
bằng sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mơi trường sống của con người.

Kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường trong hoạt động khống sản là hết sức cần
thiết. Pháp luật môi trường vốn là lĩnh vực pháp luật chuyên ngành bao gồm
các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát
sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến
một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết hợp các phương pháp
điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường sống của
con người. Pháp luật môi trường và Pháp luật khống sản cùng một mục đích
là kiểm sốt, hạn chế tối đa việc ơ nhiễm mơi trường trong hoạt động khai
thác, sử dụng và chế biến khoáng sản.
Hoạt động khai thác khoáng sản đem lại nguyên liệu, đem lại đời sống
vật chất cho con người, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhưng ngược lại, nền
kinh tế phát triển, khoa học kỹ thuật hiện đại thì con người có thể áp dụng
được những máy móc, cơng nghệ hiện đại tối tân nhất vào trong hoạt động
khai thác khống sản để giảm thiểu việc ơ nhiễm mơi trường. Thậm chí, con
người cịn phát minh, tạo ra được một số nguyên liệu mới, nhân tạo thay thế
cho tài nguyên khoáng sản. Điều này sẽ một phần nào hạn chế được việc cạn
kiệt tài nguyên, không gây ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái, đến môi trường
sống của chúng ta.
Tóm lại, hoạt động khai thác, chế biến khống sản nhằm mục đích
sinh lời là một hoạt động kinh tế, nên chịu sự tác động, điều chỉnh của Pháp
luật kinh tế. Hoạt động này gây ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến mơi
trường nên cần sự kiểm sốt của pháp luật môi trường. Để cân bằng giữa hai
yếu tố kinh tế và mơi trường, pháp luật khống sản đã ra đời. Trong hệ thống

18


các quy định pháp lý về khống sản thì Luật khống sản có vai trị cơ bản. Nó
là nền tảng pháp lý cho việc thực hiện các giải pháp cân đối giữa phát triển
khai thác khoáng sản với tiềm năng khống sản, phù hợp với vị trí, giá trị và

nhu cầu của chúng trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện các giải pháp bảo vệ
và tiết kiệm tài nguyên khoáng sản cũng như thực hiện các giải pháp bảo vệ
mơi trường.
1.3.2. Pháp luật khống sản là một lĩnh vực pháp luật mới
Pháp luật khoáng sản là một lĩnh vực pháp luật mới khơng chỉ đối với
nước ta mà cịn đối với các quốc gia đang phát triển trên thế giới. Điều này có
lý do riêng của nó. Pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết xã hội luôn luôn
phải chịu sự chi phối của nhu cầu xã hội. Khi hoạt động thăm dị khống sản
và hoạt động khai thác khoáng sản chưa được ý thức rõ, chưa trở thành thách
thức xã hội thì Luật khống sản chưa được chú ý. Mặc dù hoạt động khai thác
khoáng sản đã có từ rất lâu đời. Khoảng 40.000 năm trước công nguyên, con
người đã biết sử dụng mọi thứ xung quanh mình, kể cả đá cũng được dùng
làm cơng cụ khai thác khoáng sản. Sau một thời gian sử dụng hết những đá tốt
trên bề mặt trái đất, con người bắt đầu đào bới để tìm những thứ họ cần.
Những cái mỏ đầu tiên chỉ là những cái hố nông nhưng rồi những người khai
thác mỏ sau buộc phải đào sâu thêm để tìm kiếm. Một trong những khống
sản họ cần lúc bấy giờ là hoàng thổ, được dùng như sắc tố cho các mục đích
lễ nghi và vẽ tranh trong hang động. Khu mỏ khai thác hoàng thổ xưa nhất
được tìm thấy là ở Bombu Ridge thuộc Swaziland, Châu Phi. Nhưng đến tận
giữa của thế kỷ này, hoạt động khoáng sản chưa phải là thử thách khi trữ
lượng khoáng sản, sự tác động của hoạt động khoáng sản đến môi trường
chưa đạt tới sự báo động. Chỉ đến khi tất cả các quốc gia phải đối mặt với sự
cạn kiệt tài nguyên khoáng sản, sự mất cân bằng sinh thái và những sự trả thù
khốc liệt của thiên nhiên thì vấn đề kiểm sốt hoạt động khống sản mới nổi

19


lên như một thách thức xã hội. Và bấy giờ Luật khoáng sản mới được ra đời
như là biện pháp giải quyết thách thức đó.

Ở Việt Nam, hoạt động khai thác khống sản có từ khá lâu đời. Nó ra
đời một cách tự phát, khai thác đá, sắt, đồng… để làm công cụ phục vụ cho
chăn nuôi, trồng trọt, luyện vũ khí để chống giặc ngoại xâm. Nhưng phải đến
thời Pháp thuộc, khai thác khống sản mới định hình như một nghề. Khi đó,
chúng ta hồn tồn phụ thuộc, chịu mọi sự điều khiển của thực dân Pháp. Bởi
vậy, trong thời kỳ này khơng có một văn bản pháp luật nào điều chỉnh hoạt
động khai thác khống sản, có chăng chỉ là những quy định của thực dân Pháp
nhằm bảo đảm lợi ích của chúng. Pháp luật ln là cơng cụ hữu ích nhất để
bảo vệ giai cấp thống trị. Khi đất nước thống nhất chúng ta lại quan tâm đến
việc phát triển kinh tế. Chỉ đến gần đây, đất nước ta mới chú trọng đến hoạt
động khống sản. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của Luật khống sản không
chứa đựng những sự phân kỳ phức tạp, những giai đoạn thăng trầm như một
số lĩnh vực luật khác. Quá trình phát triển của Luật khống sản có thể được
chia ra hai giai đoạn chính sau đây:
Giai đoạn trước 1986. Trước hết, hoàn cảnh lịch sử của đất nước trong
thời kỳ trước năm 1986 không cho phép đất nước ta chú ý nhiều đến hoạt
động thăm dò cũng như hoạt động khai thác khoáng sản. Tất cả những cố
gắng trong thời kỳ đó đều tập trung cho việc chiến thắng đế quốc Mỹ, giành
độc lập dân tộc. Tiếp đó, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
vấn đề kiểm soát hoạt động khoáng sản cũng bị đẩy lùi về phía sau vì mối
quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta là hàn gắn vết thương chiến tranh,
phát triển kinh tế và thoát ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế xã hội đang hoành
hành từ thời gian sau chiến tranh đến năm 1986, khi chính sách đổi mới được
khởi xướng. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn này, đất nước chúng ta cịn
nghèo nàn, lạc hậu, khơng có máy móc hiện đại, khoa học kỹ thuật chưa đủ
trình độ để thăm dị, phát hiện khống sản ẩn sâu trong lịng đất, lịng sơng,

20



đáy biển…Hơn nữa, trữ lượng khoáng sản của nước ta lớn, hoạt động khai
thác khống sản khơng đáng kể, khơng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường như hiện nay. Giai đoạn này, luật khoáng sản chưa xuất hiện là một
lĩnh vực pháp luật chuyên ngành. Mặc dù, Nhà nước đã có những quy định về
tài ngun khống sản nhưng chưa được tồn diện. Tại điều 12 Hiến pháp
năm 1959 có quy định: "Các hầm mỏ, sơng ngịi, và những rừng cây, đất
hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc
quyền sở hữu của toàn dân". Đến Hiến pháp năm 1980, tại điều 19 có quy
định cụ thể hơn là "Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên
nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa,…cùng các tài nguyên khác
mà pháp luật quy định là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu tồn dân". Ngồi
ra, cịn có các văn bản pháp luật khác, đó là Sắc lệnh về mỏ năm 1950 của
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hịa; Nghị quyết 36/CP ngày
11/03/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc quản lý, bảo vệ tài nguyên dưới
lòng đất; Chỉ thị số 127/CP ngày 24/05/1971 của Hội đồng Chính phủ về
công tác điều tra cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên nhiên. Nhìn chung, các
quy định của pháp luật chỉ liên quan đến một số khía cạnh của hoạt động
khoáng sản xuất phát từ yêu cầu quản lý của Nhà nước. Hình thức chủ yếu
của chúng là văn bản dưới luật như các sắc lệnh, nghị định, nghị quyết, thơng
tư, chỉ thị của Chính phủ.
Giai đoạn 1986 đến nay. Khủng hoảng kinh tế xã hội cuối những năm 70
và đầu những năm 80 đã dẫn đến những cuộc cải cách kinh tế sâu sắc bằng
việc xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp và chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường
có định hướng. Việc chuyển nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường
đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Chính sách đổi
mới đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, song cũng là nguyên nhân của nhiều
hiện tượng kinh tế xã hội tiêu cực. Vì chạy theo lợi nhuận, làm giàu bằng mọi
giá nên tài nguyên khoáng sản bị khai thác bừa bãi. Nạn dân chúng đi đào
vàng, nổ hầm mỏ để khai thác than…diễn ra ở quy mô lớn đã làm cho môi


21


trường ở nhiều nơi bị suy thoái nghiêm trọng, tài nguyên khoáng sản ngày
càng cạn kiệt gây mất cân bằng sinh thái. Tại điều 29 Hiến pháp năm 1992 đã
quy định: "Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm
suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường". Hiến pháp là văn bản luật có
hiệu lực pháp lý cao nhất. Các quy định trong Hiến pháp là nền tảng của các
văn bản pháp luật khác. Điều 17, 29 Hiến pháp năm 1992 là cơ sở hiến định
cho việc kiểm soát hoạt động khoáng sản. Bước phát triển nổi bật nhất của
luật khoáng sản là việc Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa IX kỳ họp 9 thơng qua Luật khoáng sản ngày 20/3/1996. Luật khoáng
sản gồm 10 chương và 66 điều. Luật này ra đời để tăng cường hiệu lực quản
lý nhà nước, sử dụng có hiệu quả mọi tài ngun khống sản của đất nước,
khuyến khích phát triển cơng nghiệp khai thác và chế biến khống sản, bảo vệ
mơi trường, mơi sinh, an tồn lao động trong hoạt động khống sản. Sau đó
ngày 14/6/2005, Luật được Quốc hội khóa XI sửa đổi, bổ sung một số điều tại
kỳ họp thứ 7. Sau 13 năm thi hành Luật khoáng sản đã đạt được những thành
quả nhất định. Tuy nhiên, thực tế thi hành Luật khoáng sản thời gian qua cho
thấy vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập nên Luật khống sản năm 2010 được Quốc
hội thơng qua ngày 17/11/2010 gồm 11 chương, 86 điều và có hiệu lực từ
ngày 1/7/2011. Tóm lại, luật khống sản trong giai đoạn này đã mang tính
tồn diện và hệ thống hơn. Hiệu lực của các quy định này được nâng cao do
việc Nhà nước sử dụng nhiều các văn bản luật. Chính vì lý do này nên các
quy định của luật khoáng sản đã phát huy được tác dụng của chúng trong thực tế.
1.3.3. Pháp luật khống sản thể hiện rõ tính chất quản lý nhà nƣớc
Quản lý nhà nước là sự tác động mang tính chất quyền lực, có tổ chức
của các cơ quan nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền tới đối tượng quản lý

nhằm đạt được mục tiêu do chủ thể quản lý nhà nước đặt ra. Như vậy, quản lý

22


nhà nước về khoáng sản là một hoạt động cấu thành trong quản lý chung của
Nhà nước, đó là hoạt động với việc sử dụng các phương pháp, công cụ quản
lý thích hợp tác động đến hoạt động thăm dị khoáng sản và khai thác khoáng
sản nhằm mục tiêu tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường trên phạm vi
từng địa phương gắn liền với tổng thể chung của cả nước và hịa nhập với thế
giới. Những cơng cụ quản lý của Nhà nước chính là các chủ trương, chính
sách pháp luật, thể hiện cụ thể trong đời sống xã hội bằng các văn bản pháp
luật và văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, cơng cụ cịn là bộ máy, đội
ngũ cán bộ làm công tác này như bộ máy chuyên nghiệp theo dõi quản lý
khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cục Địa chất và Khống sản Việt
Nam, Bộ Cơng thương, Xây dựng, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, sở Tài ngun và Mơi trường cấp tỉnh…).
Khống sản được nhận thức trong xã hội và pháp luật đó là nguyên
liệu sản xuất, là tài nguyên hầu hết không tái tạo được, là tài sản quan trọng
của quốc gia. Vì vậy, khống sản cần phải được Nhà nước quản lý, bảo vệ để
khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội
trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phịng, an ninh. Hơn nữa, hoạt động
khống sản tác động lớn đến môi trường gây ô nhiễm môi trường đất, nước,
khơng khí, gây mất cân bằng sinh thái nên Nhà nước phải kiểm soát. Hiến
pháp năm 1992 đã ghi "tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển,
thềm lục địa và vùng trời…đều thuộc sở hữu tồn dân". Khống sản thuộc sở
hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu về khoáng sản. Nên Nhà
nước phải quản lý là đương nhiên.
Trên thực tế, ta đã thấy rõ sự quản lý nhà nước về khoáng sản. Trước

đây, trong thời kỳ bao cấp, hoạt động khai thác khoáng sản chủ yếu do các
tổng công ty, công ty của Nhà nước thực hiện tại các mỏ đã được tìm tiềm
kiếm, thăm dò bằng nguồn vốn của Nhà nước như apatit, quặng sắt,

23


than…Sau năm 1996, khi Luật khoáng sản được ban hành, với chính sách
khuyến khích đầu tư của Nhà nước, hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản
đã phát triển nhanh cả về quy mô và thành phần kinh tế tham gia hoạt động
khoáng sản. Tuy nhiên mọi hoạt động liên quan đến khoáng sản vẫn do Nhà
nước quản lý. Tại khoản 2 điều 4 Luật khoáng sản năm 2010, về ngun tắc
hoạt động khống sản có quy định: "Chỉ được tiến hành hoạt động khoáng sản
khi được cơ quan quản lý nhà nước cho phép". Nhà nước là người đưa ra các
chiến lược, quy hoạch khoáng sản trong từng thời kỳ để phát triển bền vững
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Nhà nước đầu tư thăm dò, khai thác một
số loại khống sản quan trọng, khuyến khích dự án đầu tư khai thác khoáng
sản gắn liền với chế biến, sử dụng khoáng sản để làm ra sản phẩm kim loại,
hợp kim hoặc các sản phẩm khác có giá trị và hiệu quả kinh tế - xã hội. Nhà
nước quản lý khoáng sản và kiểm soát hoạt động khống sản thơng qua các cơ
quan nhà nước, các cán bộ có thẩm quyền. Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về khống sản. Bộ tài ngun và Mơi trường chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi cả nước.
Ủy ban nhân dân các cấp quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi trách
nhiệm của mình. Luật Khống sản năm 2010 đã nâng cao sự quản lý nhà nước
về khoáng sản. Để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước về khoáng
sản, tạo điều kiện chủ động cho Chính phủ trong cơng tác điều hành, về thẩm
quyền lập, trình phê duyệt quy hoạch khống sản quy định tại điều 10 Luật
khống sản năm 2010 đã khơng quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ nào mà
giao cho Chính phủ quy định, phân cơng cụ thể các bộ, ngành trong việc lập

quy hoạch khoáng sản và hướng dẫn việc lập quy hoạch thăm dị, khai thác,
sử dụng khống sản của địa phương. Khoáng sản là một tài sản đặc biệt của
Nhà nước, hoạt động khoáng sản tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống,
kinh tế, xã hội, chính trị nên cần sự quản lý của Nhà nước bằng các văn bản

24


bằng pháp luật về khống sản. Đó là lý do vì sao pháp luật khống sản mang
đậm tính chất quản lý nhà nước.
1.3.4. Pháp luật khống sản có phạm vi điều chỉnh rất rộng
Ngay điều 1 Luật khoáng sản năm 2010 đã quy định:
Luật này quy định việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng
sản, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, thăm dị, khai thác khống
sản, quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi đất liền, hải
đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc thù kinh tế
và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [30].
Luật này khơng điều chỉnh khống sản là dầu khí và nước thiên nhiên
khơng phải là nước khống, nước nóng thiên nhiên. Vậy là, pháp luật khoáng
sản điều chỉnh các hoạt động khống sản từ điều tra cơ bản, thăm dị khống
sản đến việc khai thác khoáng sản, bảo vệ khoáng sản từ khi chưa khai thác và
quản lý tất cả khoáng sản của nước ta. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật
khống sản rất rộng. Trước hết vì khống sản của nước ta rất phong phú và đa
dạng, phân bố khắp mọi miền tổ quốc. Thêm vào đó, hoạt động khống sản có
nhiều chủ thể, nhiều thành phần kinh tế tham gia vào.
Khoáng sản Việt Nam rất đa dạng, phân bố trải dài trên cả nước, đã
phát hiện được khoảng 5.000 điểm quặng, khảo sát thăm dị gần 60 loại
khống sản điển hình là một số loại sau đây: Về khống sản kim loại, đầu tiên
là phải kể đến quặng sắt và hợp kim sắt. Trên lãnh thổ Việt Nam đã ghi nhận
được hơn 300 mỏ và điểm quặng sắt. Hay quặng kim loại cơ bản như quặng

chì kẽm: đã phát hiện khoảng 500 khoáng sàng và điểm quặng (72 khoáng
sàng đã được điều tra đánh giá) với trữ lượng 7,8 triệu tấn (trữ lượng dự báo
là 21 triệu tấn)…Đối với kim loại nhẹ không thể không kể đến quặng bauxit.
Quặng bauxit là nguồn nguyên liệu sản xuất nhôm và dùng trong các ngành
công nghiệp khác ở Việt Nam. Các mỏ, điểm quặng bauxit phân bố rải rác ở

25


×