Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực hiện nguyên tắc thẩm phán hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ thực tiễn tòa án nhân dân huyện tứ kỳ tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HIÊN

THùC HIÖN NGUYÊN TắC THẩM PHáN, HộI THẩM NHÂN DÂN
XéT Xử ĐộC LậP Và CHỉ TUÂN THEO PHáP LUậT, Từ THựC TIễN
TOà áN NHÂN DÂN HUYệN Tứ Kỳ, TỉNH HảI DƯƠNG

LUN VN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HIÊN

THùC HIÖN NGUYÊN TắC THẩM PHáN, HộI THẩM NHÂN DÂN
XéT Xử ĐộC LậP Và CHỉ TUÂN THEO PHáP LUậT, Từ THựC TIễN
TOà áN NHÂN DÂN HUYệN Tứ Kỳ, TỉNH HảI DƯƠNG
Chuyờn ngnh: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ THU QUYÊN

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Hiên


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THẨM
PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ
TUÂN THEO PHÁP LUẬT .......................................................... 9
1.1.

Quan niệm về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ................................................ 9


1.2.

Cơ sở của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật..................................................... 12

1.3.

Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật........................................................... 15

1.3.1. Độc lập với các cơ quan khác ........................................................ 15
1.3.2. Độc lập với lãnh đạo Toà án và cơ quan Tòa án cấp trên ................ 16
1.3.3. Độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử ........................... 17
1.4.

Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm ................. 18

1.5.

Ý nghĩa và những yếu tố ảnh hưởng đến tính độc lập của
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử ............................ 19

1.5.1. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật .............................................................. 19
1.5.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân khi xét xử .............................................................. 21
Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 24



CHƯƠNG 2: KHUNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ VIỆC THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN
DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
Ở TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG... 25
2.1.

Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật trong pháp luật hiện hành của Việt Nam... 25

2.2.

Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở Toà án Nhân
dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ............................................. 31

2.2.1. Độc lập với các cơ quan khác ........................................................ 31
2.2.2. Độc lập với lãnh đạo toà án và cơ quan Tòa án cấp trên .................. 35
2.2.3. Độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử ........................... 46
2.3.

Đánh giá chung về việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở
Toà án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ....................... 49

Tiểu kết chương 2 ................................................................................... 58
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT
XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT Ở TOÀ
ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG ............ 59

3.1.

Quan điểm về việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở
Toà án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ....................... 59

3.2.

Giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở
Toà án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ....................... 61

3.2.1. Tiếp tục hồn thiện hệ thống pháp luật có liên quan ....................... 61
3.2.2. Tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân ................................................................... 64


3.2.3. Chuẩn hóa và thực hiện nghiêm các tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ........................... 66
3.2.4. Cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cấp huyện theo hướng đảm
bảo phù hợp với vị trí, vai trị và đặc thù của công tác xét xử .......... 67
3.2.5. Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án để bảo đảm tính độc lập
của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử ........................ 68
3.2.6. Nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị và cả xã hội về tầm
quan trọng của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc
lập, chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử, cũng như khả năng giám
sát xã hội đối với hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân ở tòa án cấp huyện.................................................................. 69
Tiểu kết chương 3 ................................................................................... 71

KẾT LUẬN ............................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án Nhân dân

UBND

Uỷ ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của
Đảng và Nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay. Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 ban hành theo Nghị quyết số 49/NQ-TW năm 2005 của
Bộ Chính trị đã xác định toà án là trung tâm của hệ thống tư pháp, cải cách tư
pháp phải lấy cải cách hệ thống tồ án làm trọng tâm, với mục đích xây dựng
một hệ thống tồ án độc lập, cơng minh, phụng công thủ pháp, đem lại được
công lý cho người dân và xã hội [20].
Đối với hệ thống toà án của bất kỳ quốc gia nào, tính độc lập là thuộc
tính quan trọng nhất. Chỉ có độc lập thì tồ án mới có thể xét xử một cách
khách quan các tranh chấp trong xã hội, bảo đảm công lý, qua đó giành được
sự tin tưởng của người dân. Nếu khơng độc lập, Thẩm phán sẽ bị chi phối
trong hoạt động xét xử, phán quyết của toà án sẽ trở nên thiên vị đối với các
bên tranh chấp, hậu quả là người dân sẽ mất niềm tin vào toà án, sự tồn tại
của tồ án khơng cịn là sự hiện thân của cơng lý và khó có thể duy trì được
một xã hội trật tự, yên bình [8].
Độc lập tư pháp theo nghĩa rộng là độc lập của toàn bộ hệ thống Tồ
án, cịn theo nghĩa hẹp là độc lập của Thẩm phán. Ở Việt Nam, cả 5 bản Hiến
pháp từ trước tới nay đều có điều khoản quy định về sự độc lập của Toà án,
nhưng về cơ bản mới chỉ theo nghĩa hẹp là thông qua sự độc lập của Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử [13]. Hiến pháp năm 2013
nhấn mạnh vấn đề này hơn so với các bản Hiến pháp trước đó khi quy định
“nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm”. Quy định bổ sung này cho thấy tính độc lập của Thẩm phán
và Hội thẩm đang ngày càng được coi trọng hơn ở nước ta [25].

1



Mặc dù đã có quy định trong Hiến pháp, song trên thực tế, việc bảo
đảm tính độc lập của Tồ án nói chung, tính độc lập của Thẩm phán và Hội
thẩm nói riêng, vẫn cịn là một thách thức lớn ở nước ta. Nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra rằng tính độc lập của Tồ án nói chung, tính độc lập của Thẩm phán và
Hội thẩm nói riêng ở Việt Nam trên thực tế còn rất khiêm tốn. Đây là một
trong những ngun nhân chính khiến cho hệ thống Tồ án nước ta chưa nhận
được sự tin tưởng cao của người dân.
Như vậy, một câu hỏi lớn đặt ra hiện nay đó là làm thế nào để bảo đảm
tính độc lập của Toà án và của Thẩm phán và Hội thẩm ở Việt Nam? Để trả lời
câu hỏi này cần có nhiều nghiên cứu dưới nhiều góc độ và cấp độ, trong đó
những nghiên cứu từ thực tiễn xét xử của các Tồ án có ý nghĩa quan trọng.
Trong bối cảnh trên, là một cán bộ đang làm việc trong hệ thống Toà
án, học viên quyết định chọn đề tài “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở Toà án Nhân
dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học,
với mong muốn góp phần hồn thiện thêm các quy định pháp luật, qua đó
thực hiện hiệu quả nguyên tắc quan trọng này trong thực tế ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật là một chủ đề lớn, vì thế đã được nhiều nhà khoa học và cơ sở
học thuật ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Liên quan đến đề tài này, có thể
nêu một số cơng trình sau đây:
- Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Dung (2011), Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây
dựng nhà nước pháp quyền, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

2



- Trần Ngọc Đường (2007), Cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
- Phạm Văn Lợi (2004), Chế định Thẩm phán - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội.
- Trương Hịa Bình (2012), "Mơ hình tở chức và hoạt động của TAND
đáp ứng u cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa",
Tạp chí TAND.
- Mai Bộ (2012), "Một số ý kiến về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án
Tòa án và vấn đề tăng thẩm quyền cho Thẩm phán đáp ứng u cầu cải cách
tư pháp", Tạp chí Tịa án nhân dân.
- Lê Văn Cảm (2010), "Những vấn đề cơ bản về tổ chức - thực hiện
quyền tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam",
Tạp chí TAND.
- Nguyễn Minh Sử (2011), "Nâng cao vị thế độc lập của Thẩm phán
trong hoạt động xét xử", Tạp chí TAND.
- Vũ Cơng Giao – Nguyễn Minh Tâm, “Cải cách để bảo đảm tính độc lập
của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 10/2016.
- Trần Thu Hằng, “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn thực hiện và kiến nghị”, Tạp chí TAND
điện tử, 26/7/2018.
- Trần Thị Nhung San (1995), Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán, hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, Khoá
luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Sơn (1991), "Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội
thẩm", Tịa án nhân dân, (11), tr. 1-2.
- Ngơ Thanh Sơn (1996), Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

3



độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
- Hoàng Thị Sơn (1996), "Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Luật học, (5) tr. 17-21.
- Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (2000), Những nguyên tắc cơ bản của
luật tố tụng hình sự, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội.
- Hồ Sỹ Sơn (2008), "Những hạn chế trong các quy định của Bộ luật
Hình sự năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
và hướng khắc phục", Tòa án nhân dân, (16), tr. 2.
- Nguyễn Thị Tâm (2010), Nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán
Toà án nhân dân tỉnh Nam Định trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Cao Viết Thăng (2010), "Bàn về vai trò của chế định hội thẩm nhân
dân ở nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, 9(269), tr. 27-30.
- Hàn Mạnh Thắng (1997), Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Khố luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
- Tịa án nhân dân tối cao (1976), Hệ thống hóa luật lệ hình sự, tập 1
(1945 - 1975), Hà Nội.
- Tịa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP
ngày 05/11 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ III “xét xử sơ
thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.
- Tịa án nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP
ngày 02/10 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời
hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành
hình phạt, Hà Nội.

4



- Tòa án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tởng kết cơng tác xét xử Tịa
án năm 2007, Hà Nội.
- Tòa án nhân dân tối cao (2008), Quy tắc ứng xử của cán bộ cơng chức
ngành Tịa án nhân dân, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ
(1998), Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
02/01 hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự sửa đởi, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật tố tụng hình sự,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Phạm Anh Tuân (1996), Khi xét xử Tòa án và Hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
- Ánh Tuyết (2008), "Cần đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội thẩm
Tòa án nhân dân", 16 Báo Pháp luật, (67) tr. 5.
- Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2004), "Bàn về nguyên tắc độc lập xét xử của
Tòa án và việc tăng cường tranh luận tại phiên tịa xét xử hình sự", Kiểm sát,
(07), tr. 17.
- Viện Khoa học xét xử, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Bộ Luật
tố tụng hình sự cộng hịa liên bang Nga, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
- Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn
hóa thơng tin, Hà Nộ
Các cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông
tin lớn về đề tài. Đây là những nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả
khi thực hiện luận văn.
Mặc dù vậy, hiện vẫn thiếu những cơng trình nghiên cứu về đề tài từ
thực tiễn hoạt động của các Toà án ở cấp địa phương. Thêm vào đó, các cơng

5



trình nghiên cứu hiện có vẫn chưa giải quyết được nhiều vấn đề lý luận, thực
tiễn liên quan đến thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở toà án. Vì vậy, luận văn này vẫn có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ thực trạng thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật ở Tòa án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương trong những năm
gần đây, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc
này ở các TAND của nước ta trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ
cụ thể sau:
- Khái quát hoá những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài, và
khung pháp luật hiện hành của nước ta về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Phân tích bối cảnh, thực trạng, những kết quả và hạn chế, xác định
nguyên nhân dẫn tới những kết quả và hạn chế trong việc thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật ở Tòa án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương trong khoảng
5 năm gần đây.
- Nêu ra các phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật ở Tòa án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương và
trong các TAND của nước ta trong những năm tới.

6



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng thực hiện nguyên tắc
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở
Tòa án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tn theo
pháp luật của Tồ án, khơng mở rộng nghiên cứu các hoạt động và vấn đề
khác của Toà án.
Về mặt không gian, luận văn chỉ tập trung khảo sát thực tiễn thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật ở Tòa án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, khơng mở rộng
nghiên cứu sang các Tồ án khác của tỉnh Hải Dương cũng như của các địa
phương khác.
Về mặt thời gian, luận văn chỉ khảo sát, phân tích thực trạng thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật ở Tòa án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương trong khoảng 5
năm gần đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và một số lý thuyết về tổ chức và hoạt động
của cơ quan tư pháp để làm cơ sở phân tích các vấn đề đặt ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học

7



xã hội như tổng hợp, thống kê, phân tích,so sánh để làm rõ các vấn đề nghiên
cứu đặt ra.
Thêm vào đó, với tư cách là một cán bộ làm việc tại địa bàn nghiên
cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp quan sát thực tế và tham vấn một số
Thẩm phán, thư ký Tòa án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương để thực
hiện luận văn này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hồn thiện
những vấn đề lý luận trong việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở nước ta trong thời gian
tới thơng qua thực tế ở Tịa án Nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Luận văn có thể xem là tài liệu tham khảo hữu ích cho Tịa án Nhân
dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương và những Toà án khác của tỉnh và của các
địa phương khác ở nước ta trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Chương 2: Khung pháp luật hiện hành và việc thực hiện nguyên tắc
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở
TAND huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở TAND
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

8



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN,
HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN
THEO PHÁP LUẬT
1.1. Quan niệm về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, TAND tối
cao, các TAND địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa khác do luật định
là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. TAND
có vai trị quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, xã hội, chủ động hội
nhập kinh tế và khu vực, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. TAND là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền của con người và đồng thời là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu
quả với các loại tội phạm. Tòa án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án
dân sự (bao gồm những tranh chấp về dân sự, những tranh chấp về hôn nhân
và gia đình; những tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp
về lao động); giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, xem xét và
kết luận việc đình cơng hợp pháp hay khơng hợp pháp. Tịa án giải quyết
những việc khác theo quy định của pháp luật (giảm hình phạt, miễn hình phạt,
ra quyết định thi hành án hình sự, ra quyết định xóa án tích…).
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của Tòa án
lại càng được khẳng định. Với vị trí là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong
bộ máy nhà nước và việc thực thi này ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu và
các giá trị của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Tịa
án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và tun có tội hay khơng có tội,

9



quyết định mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến các quyền của
công dân như bồi thường, biện pháp ngăn chặn, án phí,… Chủ thể được nhà
nước trao quyền nhân danh nhà nước để thực hiện việc xét xử đó là Thẩm
phán và Hội thẩm [20].
Do tính chất quan trọng của hoạt động xét xử nên pháp luật quy định
xét xử phải tuân theo những trình tự thủ tục và những nguyên tắc nhất định.
Một trong những nguyên tắc đó là "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật".
Hiện nay ở nước ta, khái niệm "xét xử" vẫn chưa được hiểu một cách
thống nhất. Xét xử hiểu theo nghĩa rộng là chức năng của Tòa án. Cũng như
bất kỳ cơ quan nhà nước nào khác, Tòa án đều phải quản lý cán bộ, quản lý
ngân sách và cơ sở vật chất của đơn vị. Bên cạnh đó, Tịa án cịn phối hợp với
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền và bảo vệ
pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu của Tòa án vẫn là xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo
quy định của pháp luật. Việc xét xử là tổng hợp của một chuỗi hoạt động của
Tòa án kể từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến khi ra bản án, ra quyết định thi
hành án (đối với vụ án hình sự) hoặc ra quyết định nhằm giải quyết vụ án.
Như vậy, hoạt động xét xử là xem xét và giải quyết vụ án [20].
Hiểu theo nghĩa hẹp thì xét xử là hoạt động của Thẩm phán và Hội
thẩm tại phiên tòa mà kết quả của hoạt động này là ra bản án hoặc quyết
định để giải quyết vụ án. Với cách hiểu này, có ý kiến cho rằng: "Độc lập
xét xử là một ngun tắc có tính đặc thù, chỉ có thể được áp dụng đối với
Thẩm phán và Hội thẩm trong khi xét xử". "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật" là nguyên tắc được đề cao trong
hoạt động xét xử [29].

10



Tuy nhiên, "xét xử" trong nguyên tắc trên hiểu theo nghĩa thứ nhất hoặc
thứ hai đều chưa chuẩn xác, bởi lẽ: Nếu theo nghĩa thứ nhất, hoạt động xét xử
kể từ thời điểm thụ lý, khi đó mới phát sinh vị trí pháp lý của Thẩm phán
được phân cơng giải quyết vụ án.Vị trí pháp lý của Hội thẩm cịn xuất hiện
muộn hơn, đó là thời điểm có quyết định phân công xét xử của Chánh án và
Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu theo nghĩa thứ hai, hoạt
động xét xử chỉ diễn ra tại phiên tịa, trong khi đó vị trí pháp lý của Thẩm
phán và Hội thẩm lại xuất hiện sớm hơn. Hoạt động xét xử của Thẩm phán và
Hội thẩm chủ yếu diễn ra tại phiên tòa, song trước khi mở phiên tịa, Thẩm
phán và Hội thẩm cũng có những hoạt động tác nghiệp khác bổ trợ cho hoạt
động xét xử tại phiên tòa như nghiên cứu hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ
và các công việc cần thiết khác [8]. Vì vậy, có thể hiểu, xét xử của Hội thẩm
và Thẩm phán là các hoạt động kể từ thời điểm họ được giao nhiệm vụ xét xử
vụ án khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến khi kết thúc phiên tòa,
bao gồm hoạt động xem xét đánh giá chứng cứ tại phiên tòa và các hoạt động
bổ trợ khác để đưa ra quyết định, bản án giải quyết vụ án.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có nghĩa là phải tự mình đưa ra kết
luận giải quyết vấn đề trên cơ sở quy định của pháp luật mà không phụ thuộc
vào bất kỳ yếu tố nào khác. Đó là những tư tưởng chủ đạo, định hướng trở
thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi được phân
công xét xử vụ án [8].
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm: Nguyên tắc Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là những tư
tưởng chủ đạo có tính bắt buộc, thể hiện quan điểm của nhà nước trong hoạt
động xét xử, được quy định trong pháp luật tố tụng, theo đó chỉ có Thẩm phán
và Hội thẩm (Hội đồng xét xử) mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở
quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác,
mà khơng chịu chi phối bởi bất kỳ một chủ thể nào.


11


1.2. Cơ sở của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật
Một trong các đặc trưng cơ bản, đồng thời cũng là một điều kiện tiên
quyết của nhà nước pháp quyền đó là “tư pháp độc lập” (hay còn gọi là
“độc lập tư pháp” - Judicial Independence/Independence of Judiciary). Nếu
khơng có tư pháp độc lập thì khơng thể nói đến nhà nước pháp quyền [13].
Về vấn đề này,Nguyên tắc 1 của Các nguyên tắc Bangalore về hành xử tư
pháp nêu rõ: “Độc lập tư pháp là điều kiện tiên quyết của nguyên tắc pháp
quyền và là một sự đảm bảo cơ bản của ngun tắc xét xử cơng bằng”. Chỉ
khi có sự độc lập thì tư pháp mới thực hiện được chức năng quan trọng là
bảo vệ pháp luật, duy trì cơng lý, bảo đảm cơng bằng, các quyền và lợi ích
hợp pháp của con người.
Tầm quan trọng của tư pháp độc lập từ lâu đã được ghi nhận trong luật
quốc tế. Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 đã khẳng định quyết tâm của
các quốc gia trong việc xây dựng các điều kiện để cơng lý có thể được duy trì
– tức hàm ý về tính độc lập của Tịa án [13]. Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế
năm 1948 (UDHR) ghi nhận, mọi người đều có “quyền được xét xử cơng
bằng và cơng khai bởi một tịa án độc lập và khách quan” (Điều 10). Công
ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) khơng những ghi
nhận mọi người có “quyền được xét xử cơng bằng và cơng khai bởi một tịa
án có thẩm quyền, độc lập, khơng thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật”
(khoản 1 Điều 14), mà còn ghi nhận “quyền được xét xử ngay mà khơng bị trì
hỗn vơ lý” (khoản 3 Điều 14).
Nội hàm của tư pháp độc lập bao gồm nhiều yếu tố như: thiết chế độc
lập, Thẩm phán độc lập, ra phán quyết độc lập, hành chính và ngân sách độc
lập… Những yếu tố này có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Sự thiếu


12


vắng của một yếu tố sẽ có ảnh hưởng đến các yếu tố cịn lại, cũng như đến
tính độc lập của tư pháp nói chung [13]. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận
văn này, tác giả chỉ tập trung đề cập đến sự độc lập của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử.
Trong luật nhân quyền quốc tế, tư pháp độc lập là một nguyên tắc
quan trọng nhằm để bảo vệ các quyền con người, được ghi nhận trong nhiều
văn kiện,song tập trung nhất là trong “Những nguyên tắc cơ bản về độc lập
tư pháp” (Basic Principles on the Independence of the Judiciary). Văn kiện
này xác định những yếu tố nhằm đảm bảo tính độc lập của tồ án và Thẩm
phán như sau [13]:
Thứ nhất, tính độc lập của Tịa án nói chung, của Thẩm phán trong hoạt
động xét xử nói riêng phải được nhà nước bảo đảm và được ghi nhận chính
thức trong Hiến pháp hay pháp luật quốc gia, và đòi hỏi phải được các nhà
nước tôn trọng, phổ biến đến các Thẩm phán, luật sư, nhân viên các ngành
hành pháp, lập pháp và cơng chúng nói chung.
Thứ hai, Thẩm phán cũng là cơng dân, cho nên cũng phải có các quyền
cơng dân như những người khác, chẳng hạn như quyền được tự do biểu đạt,
tín ngưỡng, kết giao, hội họp; quyền được tự do thành lập và tham gia hiệp
hội của Thẩm phán hay các tổ chức khác đại diện cho quyền lợi của mình để
xúc tiến việc đào tạo chun mơn và để bảo vệ quyền độc lập trong hoạt động
nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong khi thực hiện các quyền của mình, Thẩm phán
phải luôn hành động phù hợp với phẩm giá của cơng chức cũng như sự vơ tư
và tính độc lập của Tòa án.
Thứ ba, những người được chọn làm Thẩm phán phải là các cá nhân
liêm khiết, có khả năng, được đào tạo thích hợp và có chun mơn về luật
pháp. Các tiêu chuẩn sử dụng để lựa chọn và bổ nhiệm Thẩm phán phải chính

13


đáng, khơng mang tính chất phân biệt đối xử về bất kỳ yếu tố nào (chủng tộc,
màu da, giới tính, tơn giáo, quan điểm chính trị và các quan điểm khác, nguồn
gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, thành phần xuất thân), trừ một tiêu chuẩn
Thẩm phán phải là cơng dân của nước đó.
Thứ tư, Thẩm phán, dù được bổ nhiệm hay bầu ra đều phải được bảo
đảm thời gian làm việc cho đến tuổi về hưu hay hết nhiệm kỳ theo quy định;
phải được bảo đảm các điều kiện về sự độc lập, an ninh, được trả thù lao thích
đáng và được hưởng các chế độ bảo hiểm và trợ cấp nghề nghiệp. Việc đề bạt
Thẩm phán phải dựa vào những yếu tố khách quan, đặc biệt là năng lực, tính
liêm khiết và kinh nghiệm. Việc phân cơng Thẩm phán xét xử các vụ việc là
vấn đề nội bộ quản lý điều hành xét xử của Tòa án.
Thứ năm, bí mật nghề nghiệp liên quan đến quan điểm và những thông
tin mật mà Thẩm phán thu thập trong q trình thực thi nhiệm vụ mà khơng
thuộc q trình xét xử cơng khai phải được Tịa án đảm bảo, và Thẩm phán
không bị bắt buộc phải làm chứng về những vấn đề đó. Thẩm phán được
hưởng quyền miễn trừ những kiện tụng dân sự vì những thiệt hại gây ra do
những sai sót trong khi thực hiện chức năng xét xử, tuy nhiên quyền miễn trừ
này không bao gồm các hình thức kỷ luật.
Thứ sáu, bất cứ cáo buộc hay khiếu nại nào về hoạt động chuyên môn
của Thẩm phán đều phải được xử lý nhanh chóng và cơng minh theo một thủ
tục thích hợp. Thẩm phán có thể bị kỷ luật, đình chỉ hay cách chức do thiếu
năng lực hoặc có những hành vi khơng phù hợp với vị thế của họ. Tuy nhiên,
những thủ tục kỷ luật, đình chỉ hay cách chức phải được quyết định theo các
tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đã được quy định và phải được xem xét lại
một cách độc lập.

14



1.3. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật
Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật thể hiện qua những khía cạnh cơ bản sau đây:
1.3.1. Độc lập với các cơ quan khác
Trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải
không bị lệ thuộc, bị áp lực từ phía các cơ quan khác, kể cả cơ quan nhà
nước và cơ quan Đảng. Kim chỉ nam duy nhất để Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân căn cứ vào khi xét xử là các quy định của pháp luật có liên quan.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không phải chịu sự chỉ đạo của bất kì cơ
quan nào khác [20].
Đối với các cơ quan Đảng, mặc dù về nguyên tắc, trong hoạt động của
mình Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng,
nhưng do bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền nên mọi
hoạt động của Đảng cũng phải nằm trong khn khổ pháp luật. Vì lẽ đó, trong
hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ căn cứ vào pháp luật
và làm đúng theo các quy định của pháp luật, không chịu sự can thiệp của các
cơ quan của Đảng [20].
Bên cạnh đó, trong giải quyết các vụ án hình sự thì Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân còn phải thực sự độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng
khác, cụ thể là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Mặc dù hoạt động xét xử
của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là dựa trên hồ sơ, chứng cứ của Cơ
quan điều tra cũng như cáo trạng của Viện kiểm sát, nhưng Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân có quyền và cần phải có chính kiến, nhận định riêng trong việc
đánh giá hồ sơ và cáo trạng. Trên cơ sở đó, căn cứ vào các quy định của pháp
luật, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân sẽ ra phán quyết một cách độc lập và

15



khách quan [8]. Nguyên tắc độc lập đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
phải thực sự là một trọng tài, đứng giữa hai phía là Viện kiểm sát giữ chức
năng buộc tội và luật sư là người bào chữa cho bị cáo, không thiên vị bên nào,
để xem xét lý lẽ, chứng cứ của bên nào đưa ra thuyết phục và phù hợp với
pháp luật hơn, từ đó đưa ra phán xét công bằng [8].
1.3.2. Độc lập với lãnh đạo Tồ án và cơ quan Tịa án cấp trên
Theo yêu cầu của nguyên tắc độc lập thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân khi xét xử phải không lệ thuộc vào sự chỉ đạo cũng như dựa dẫm vào ý
kiến chỉ đạo của lãnh đạo Tồ án mình đang cơng tác, hoặc Tịa án cấp trên.
Mặc dù về mặt tổ chức thì Thẩm phán chịu sự quản lý về mặt hành chính
của lãnh đạo Tồ án (chánh án, phó chánh án), và các tịa án địa phương
phải chịu sự quản lý của TAND tối cao, nhưng về mặt xét xử thì Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân phải hoàn toàn độc lập với lãnh đạo Toà án của mình
và Tịa án cấp trên. Theo quy định thì về mặt chun mơn, TAND tối cao chỉ
có thẩm quyền “hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng
kết kinh nghiệm xét xử của các Tồ án”, cịn TAND cấp tỉnh chỉ có thẩm
quyền tổng kết kinh nghiệm xét xử, chứ khơng có quyền áp đặt đường lối
xét xử với toà án cấp dưới và các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các
Toà án cấp dưới [20].
Đối với từng vụ án cụ thể, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải căn
cứ vào các quy định của pháp luật và những gì diễn ra tại phiên tòa để ra phán
xét. Trong trường hợp nếu thấy vướng mắc về vấn đề tố tụng, đánh giá chứng
cứ... Tòa án cấp dưới có quyền làm văn bản xin ý kiến của Tòa án cấp trên để
được hướng dẫn. Trong thẩm quyền của mình, nếu thấy có sự xung đột pháp
luật hay mâu thuẫn trong văn bản áp dụng mà Tòa án cấp trên chưa hướng
dẫn hoặc hướng dẫn chưa đầy đủ thì Tịa án cấp trên phải hướng dẫn cho Tòa
án cấp dưới cách áp dụng pháp luật sao cho chuẩn xác nhất. Tuy nhiên, Tòa
16



án cấp trên tuyệt đối không được phép ''chỉ đạo'' Tòa cấp dưới, mà cụ thể là
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Toà án cấp dưới phải xử như thế này
hoặc như thế kia [8].
1.3.3. Độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử
Một trong những nguyên tắc trong hoạt động của TAND là Tòa án xét
xử tập thể và quyết định theo đa số; do đó, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm nhiều
người và có thể có nhiều thành phần khác nhau. Về cơ bản, thành phần của
Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Theo nguyên tắc
được quy định trong Hiến pháp thì “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”.Phân tích nội dung của những quy định này, có
thể thấy hai khía cạnh liên quan đến Hội đồng xét xử đó là [20]:
Khía cạnh thứ nhất, các Thẩm phán và Hội thẩm cùng nhau làm việc và
gắn kết với nhau tạo thành một thể thống nhất là Hội đồng xét xử. Và các
thành viên của Hội đồng xét xử phối hợp với nhau để tạo ra một “sản phẩm”
chung đó là bản án hoặc quyết định trên cơ sở biểu quyết theo đa số.
Khía cạnh thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm là những con người riêng
biệt, có suy nghĩ và nhận định độc lập với nhau trong quá trình xét xử vụ án.
Tính độc lập của các thành viên hội đồng xét xử được thể hiện ở một số quy
định của pháp luật về tố tụng. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện
hành thì khi nghị án, Hội đồng xét xử sẽ “phải giải quyết tất cả các vấn đề của
vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một”. Trong trường hợp
ý kiến của các thành viên Hội đồng xét xử là khơng giống nhau thì “người có
ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa
vào hồ sơ vụ án”. Như vậy, rõ ràng là mỗi cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm
đều phải tự chủ và có chính kiến riêng của mình, dù đó là ý kiến thiểu số hay
đa số đều được ghi nhận. Quy định này góp phần khuyến khích sự tự chủ và

17



độc lập của mỗi thành viên Hội đồng xét xử. Thêm vào đó, Thẩm phán và Hội
thẩm phải chịu trách nhiệm cá nhân về những quyết định của riêng mình.
Chính trách nhiệm cá nhân này càng thực sự là một đảm bảo cho Thẩm phán
và Hội thẩm mạnh dạn có những quyết định độc lập. Cá nhân của mỗi người
khi tin tưởng ý kiến của mình, cho dù là thiểu số, là đúng pháp luật thì mạnh
dạn quyết định, khơng phải lệ thuộc vào ý kiến của đa số những người khác.
Bởi vì, nếu ý kiến của riêng mình là đúng thì khơng có lý do gì phải e sợ trách
nhiệm, cho dù bản án hoặc quyết định cuối cùng là theo ý kiến của đa số.
1.4. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập là một phần nội dung của nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Thẩm phán và Hội thẩm độc lập
với nhau, độc lập với các yếu tố khác. Độc lập trong xét xử không những
được quy định thành nguyên tắc trong Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án, mà
còn được thể hiện ở những điều luật quan trọng khác của luật tố tụng hình sự,
cụ thể như các quy định về nghị án, về giới hạn xét xử, về giám đốc thẩm…
Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ sự tác động
nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vơ tư, quyết
định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật. Độc lập là điều kiện
thiết yếu, không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật.
Ngược lại,Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập chính là biểu hiện và bảo
đảm của việc tuân theo pháp luật [29].
Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Xét
khía cạnh thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết,
Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy
định của pháp luật. Tuân theo pháp luật là làm theo những quy định của pháp
18



×