ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HÀ GIANG
THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN
TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HÀ GIANG
THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN
TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thu Hà
HÀ NỘI - 2011
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hà Giang
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH
7
LUẬN TẠI PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM
1.1.
Khái quát chung về phiên tòa dân sự sơ thẩm
7
1.2.
Thủ tục hỏi và tranh luận những phần không thể thiếu của
phiên toà dân sự sơ thẩm
14
1.2.1.
Nhận thức chung về thủ tục hỏi tại phiên toà dân sự sơ thẩm
16
1.2.2.
Nhận thức chung về thủ tục tranh luận tại phiên toà dân sự
sơ thẩm
21
1.3.
Các nguyên tắc của việc hỏi và tranh luận tại phiên toà dân
sự sơ thẩm
27
1.3.1.
Các nguyên tắc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
27
1.3.2.
Các nguyên tắc không thể thiếu của thủ tục hỏi và tranh luận
tại phiên toà dân sự sơ thẩm
30
Chương 2:
37
THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TOÀ
DÂN SỰ SƠ THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2004
2.1.
Thủ tục hỏi tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
40
2.2.
Thủ tục tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
65
4
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
83
CHẤT LƢỢNG THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN TẠI
PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM
3.1.
Thực tiễn áp dụng thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân
sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
83
3.1.1.
Những ưu điểm và hạn chế của thực tiễn áp dụng các quy định
về thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
83
3.1.1.1. Những ưu điểm của quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng
84
3.1.1.2. Những tồn tại, hạn chế của pháp luật và thc tin ỏp dng
87
3.1.2.
Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy
định về hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm
93
3.1.2.1. Một số quy định của pháp luật ch-a hợp lý và đáp ứng yêu
cầu khách quan
93
3.1.2.2. Số l-ợng, chất l-ợng của đội ngũ Thẩm phán ch-a thực sự
đáp ứng đ-ợc yêu cầu mới
94
3.1.2.3. Những hạn chế, bất cập trong chế định Hội thẩm nhân dân
96
3.1.2.4. Những hiện t-ợng tiêu cực trong hoạt động của ngành tòa án
nhân dân
97
3.2.
Nhng bo m cho vic nõng cao chất lượng thủ tục hỏi và
tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm
99
3.2.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự nói
chung và phiên tịa sơ thẩm dân sự nói riêng
99
3.2.2.
Nâng cao trình độ nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ của
thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Luật sư
103
3.2.3.
Nâng cao ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân
106
3.2.4.
Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử
108
KẾT LUẬN
110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
112
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TTDS
: Tố tụng dân sự
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, hồn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) nói riêng là
một nhu cầu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ việc dân sự
đang ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng
loại vụ việc, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, bảo đảm cho việc giải
quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, cơng minh và đúng
pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 ra đời thay thế các Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) 1989, Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động 1996 là sự phát triển có tính bước ngoặt đối với ngành luật
TTDS Việt Nam. Bộ luật quy định khá đầy đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ
bản trong TTDS; trình tự thủ tục khởi kiện các vụ án dân sự; trình tự thủ tục
giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của các cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể tham gia tố tụng.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một
số nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020" đã đánh giá về tình hình cơng tác tư pháp trong những năm vừa qua ở
nước ta là:
Công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan
trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
7
công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực cơng
cuộc đổi mới... Tuy nhiên, chất lượng cơng tác tư pháp nói chung
chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều
trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các
quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp [6].
Chính sách hình sự, chế định về pháp luật dân sự và pháp
luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ
sung..., nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách
thức… các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động… có chiều hướng
tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn [8].
Để có những chuyển biến mạnh mẽ trong công tác tư pháp, thực hiện
tốt nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nghị quyết đã đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong
thời gian đến năm 2020, trong đó đặc biệt nhấn mạnh:
…Bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác... khi xét xử, các Tồ án phải
bảo đảm cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự
dân chủ, khách quan, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị
cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi
ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có
sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [6].
"Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng b-ớc hiện đại, phc v nhân dân, phụng sự tổ
quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả vµ hiƯu lùc cao" [8].
8
Xét xử là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án nói
chung, vụ án dân sự nói riêng. Một vụ án có thể tiến hành bằng một giai đoạn
xét xử sơ thẩm nhưng cũng có thể phải tiến hành tiếp qua các giai đoạn xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Tuy nhiên xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự đóng một vai trị hết sức quan trọng, bởi lẽ lần đầu tiên vụ án được đưa ra
xét xử công khai, qua việc hỏi và tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử
(HĐXX) xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là gì? điều luật nào được áp
dụng? Tính hợp pháp của các chứng cứ, quá trình xác minh thu thập chứng cứ
và các hoạt động tố tụng khác có vi phạm thủ tục tố tụng hay không... việc
tuân thủ chặt chẽ các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên toà, đặc biệt là thủ
tục hỏi và tranh luận tại phiên tồ dân sự sơ thẩm sẽ bảo đảm cho cơng tác xét
xử được chính xác, tồn diện, khách quan, phát huy được tính phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật của cơng tác xét xử nói chung và của phiên tồ nói
riêng. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nếu Tồ án ra bản án đúng pháp luật thì
khơng phát sinh việc kháng cáo, kháng nghị, khơng có việc xét xử lại bản án
sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Điều đó tạo
được tính ổn định nhanh chóng của bản án, tiết kiệm được thời gian, công sức
cũng như tài sản của nhà nước và công dân.
Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như nguyên nhân
chủ quan, hiện tượng vi phạm các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên toà
vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Việc hỏi tại phiên tồ cịn phiến diện, khơng đầy
đủ, tranh luận giữa ngun đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người
tham gia tố tụng khác chưa thật sự dân chủ và bình đẳng. Hậu quả là có việc
xét xử sai, gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, làm
ảnh hưởng khơng nhỏ đến lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
các cơ quan tư pháp.
Để khắc phục tình trạng nói trên, trên cơ sở qn triệt tinh thần Nghị
quyết 08-NQ/TW về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
9
gian tới" và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020"của Bộ Chính trị để thực hiện tốt công cuộc cải cách tư
pháp đang được triển khai sâu rộng trên cả nước, với nhiệm vụ:
Đổi mới việc tổ chức các phiên toà xét xử, xác định rõ hơn
vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [8].
thì việc nghiên cứu để bổ sung cho lý luận về thủ tục tố tụng tại phiên toà sơ
thẩm xét xử các vụ án dân sự, góp phần khắc phục các nguyên nhân làm phát
sinh các vi phạm thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm, nâng
cao hiệu quả và chất lượng của phiên toà dân sự sơ thẩm là một trong những
vấn đề quan trọng và cần thiết. Vì những lý do trên tôi đã chọn đề tài "Thủ
tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm" làm luận văn Thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài này đã được một số chuyên gia nghiên cứu về luật dân sự Việt
Nam, các luật gia, các thẩm phán có nhiều năm làm cơng tác xét xử đề cập
đến như: PGS.TS Trần Văn Độ với bài: Bản chất của tranh tụng tại phiên toà,
(Báo Lịch sử pháp luật, tháng 8/2008), Luật sư Nguyễn Văn Chiến với bài:
Nâng cao kỹ năng tranh tụng của Luật sư Việt Nam bên thềm hội nhập, (báo
Quản trị tháng 8/2008), Luận văn thạc sĩ Luật học: Các cấp xét xử trong tố
tụng dân sự Việt Nam, của Lê Thị Hà; Luận văn thạc sĩ Luật học: Thủ tục
tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Cơ sở lý luận và thực tiễn, của
Nguyễn Thị Thu Hà...
Tuy nhiên những bài viết và các cơng trình nghiên cứu này chưa làm
rõ được trình tự, thủ tục và vị trí vai trị của HĐXX, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự, kiểm sát viên... trong quá trình hỏi
10
và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm. Phạm vi nghiên cứu ở góc độ lý
luận và thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục này chưa có tác giả nào đề
cập một cách tồn diện. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về thủ tục hỏi và
tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Làm rõ chủ thể, phạm vi, trình tự, thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên
toà dân sự sơ thẩm.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ nội dung, mục đích, ý nghĩa của các nguyên tắc thủ tục hỏi
và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam và thực tiễn
áp dụng, từ đó chỉ ra những bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng thủ tục hỏi
và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm.
4. Phạm vi của đề tài
Đề tài này chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm và những bảo đảm nâng
cao chất lượng thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết các
tranh chấp dân sự và cải cách tư pháp trong tình hình mới. Học thuyết của chủ
nghĩa Mác - Lênin về tổ chức bộ máy nhà nước và những thành tựu của khoa
học pháp lý thế giới và Việt Nam.
11
Phương pháp nghiên cứu luận văn dựa vào chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
chứng minh.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên
toà dân sự sơ thẩm.
Chương 2: Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và các giải pháp nâng cao chất lượng
thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm.
12
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN
TẠI PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHIÊN TỊA DÂN SỰ SƠ THẨM
Trong tình hình đất nước ngày càng phát triển như hiện nay, đời sống
dân sự cũng ngày càng phát triển và các mối quan hệ xã hội ngày càng đa
dạng, phức tạp, giao lưu kinh tế, xã hội rộng mở tạo điều kiện cho con người
phát triển toàn diện về mọi mặt. Nhưng đồng hành với nó là các tranh chấp
dân sự, kinh doanh thương mại, hơn nhân gia đình, lao động trong đời sống xã
hội ngày càng nảy sinh nhiều hơn, đa dạng hơn, phức tạp hơn nên đòi hỏi Nhà
nước phải nỗ lực hơn nữa trong việc duy trì sự ổn định xã hội, giải quyết các
tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức với nhau trong quá trình giao
lưu dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng như bảo vệ chính
sách pháp luật của Nhà nước. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi Nhà nước
phải xây dựng được một hệ thống các cơ quan tư pháp mạnh, hệ thống pháp
luật phù hợp, bảo đảm sự bình đẳng, dân chủ của cỏc cỏ nhõn, c quan, t
chc trc phỏp lut.
Chế định phiên tòa sơ thẩm dân sự bao gồm các quy định về trình tự,
thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết
yêu cầu của đ-ơng sự, nếu vụ án buộc phải đ-a ra xét xử thì tòa án mở phiên
tòa sơ thẩm để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tất cả các tranh chấp dân
sự nếu đà phải đ-a ra xét xử thì đều phải trải qua quá trình xét xử tại phiên tòa
sơ thẩm dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự có mặt đầy đủ những ng-ời tiến
hành tố tụng, các bên đ-ơng sự và những ng-êi tham gia tè tơng kh¸c. C¸c
chđ thĨ tham gia phiên tòa có t- cách tố tụng khác nhau và có các quyền và
nghĩa vụ tố tụng độc lập. HĐXX ®¶m b¶o cho viƯc xÐt xư diƠn ra theo ®óng tố
tụng đồng thời tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật xác định nội dung
13
quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên đ-ơng sự cũng nh- giải quyết triệt để
các vấn đề khác của vụ án. Các đ-ơng sự thực hiện hoạt động chứng minh cho
yêu cầu, đề nghị của mình, thuyết phục HĐXX đ-a ra phán quyết có lợi cho
họ. Những ng-ời tham gia tè tơng kh¸c cã tr¸ch nhiƯm gióp cho HĐXX tìm ra
sự thật khách quan của vụ án. Để có một phán quyết cuối cùng công bằng và
thuyết phục, mọi diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm dân sự phải tuân theo một
trình tự, thủ tục chặt chẽ đ-ợc quy định trong pháp luật TTDS.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự đ-ợc xét xử công khai, mọi ng-ời đều có
quyền tham dự phiên tòa trừ một số tr-ờng hợp phải xét xử kín theo luật định
nh- trong tr-ờng hợp cần giữ bí mật nhà n-ớc, giữ gìn thuần phong mỹ tục, bí
mật đời t-, bí mật kinh doanh nh-ng phải tuyên án công khai.
Từ những phân tích trên đây, có khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự
nh- sau: Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là hình thức tổ chức hoạt động xét xử
vụ án lần đầu của tòa án, do Tòa án có thẩm quyền thực hiện theo một trình
tự, thủ tục nhất định.
Hot ng xột x là khâu trọng yếu nhất của tồn bộ q trình tố tụng,
là hoạt động của các cơ quan và cá nhân được quyền căn cứ vào pháp luật để kết
luận, đánh giá những vấn đề pháp lý và đưa ra những quyết định có tính bắt
buộc. Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động đặc trưng của Toà án, do
pháp luật quy định theo một thủ tục tố tụng đặc biệt - thủ tục TTDS.
Tại phiên tịa sơ thẩm dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
phụ thuộc vào phán quyết của tòa án dựa trên cơ sở xem xét, đánh giá chứng
cứ, kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa cũng như hoạt động áp
dụng pháp luật của HĐXX. Nếu trong q trình hịa giải, tịa án chỉ giải quyết
những vấn đề thuộc phạm vi tranh chấp giữa các đương sự thì việc xét xử tại
phiên tịa phải xem xét toàn bộ các vấn đề của vụ án. Ngoài việc xác định nội
dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên đương sự, tòa án còn giải quyết
các vấn đề khác liên quan đến vụ án.
14
Xét xử là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án dân
sự. Tại giai đoạn này, HĐXX với tư cách là người tiến hành tố tụng giải quyết
những vấn đề về bản chất của vụ án bao gồm: quan hệ pháp luật tranh chấp là
gì? Điều luật nào được áp dụng để giải quyết? nguyên nhân của việc tranh chấp,
lỗi thuộc về phía nào? Tính hợp pháp của các chứng cứ, quá trình xác minh thu
thập chứng cứ và các hoạt động tố tụng khác có vi phm th tc t tng hay khụng.
Nghiên cứu lịch sử tố tụng dân sự n-ớc ta, các quy định về phiên tòa dân
sự sơ thẩm thì thấy tại Sc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các tòa án và
các ngạch thẩm phán đã có những quy định u tiờn v phiờn tũa dõn s. Theo
Giáo trình luật tè tơng d©n sù, "Lịch sử tố tụng dân sự tại tòa bắt đầu từ ngày
24/1/1946" [12]. Đây được coi là văn bản đầu tiên chứa đựng các quy phạm
TTDS của nước ta. Văn bản này đã có các quy định về người tiến hành tố tụng,
nghị án và tuyên án và cách thức tổ chức một phiên tòa, chẳng hạn như Điều 10
quy định: "Tại phiên tòa Thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký lập biên
bản từ"; Điều 10 khoản 2: "Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù
là ngày chủ nhật. lại có thể nếu cần đến mở phiên tịa ngồi trụ sở của tịa án, ở
nơi cách xa tịa án". Quy định về trách nhiệm của Thẩm phán trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích của các đương sự: "Thẩm phán khơng được tự đặt ra lệ mà xử
đốn" (Điều 81); "Các Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên
tịa, xét xử thật nhanh chóng và thật cơng minh. Thanh liêm là đức tính thiêng
liêng của Thẩm phán" (Điều 83). Bên cạnh các quy định tiến bộ đó, Sắc lệnh 51
ngày 17/4/1946 có quy định: "Khi ra phiên tòa… bên bị cùng bên dân sự ngun
cáo có quyền u cầu Tịa án thi hành phương sách cần thiết để chứng tỏ sự
thật" (Điều 26). Điều 17 sắc lệnh số 51/ST ngày 17/4/1946 về ấn định thẩm
quyền các Tồ án và sự phân cơng giữa các nhân viên trong tồ quy định: "Ơng
Chánh án chủ toạ những phiên tồ cơng khai... ơng có nhiệm vụ điều khiển cuộc
thẩm vấn và bảo vệ trật tự phiên toà". Đến Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949,
quyền bào chữa cho các đương sự được mở rộng. Điều 1 Sắc lệnh này quy định:
"Trước các Tòa án xử việc hộ và thương mại, trước các Tòa án thường và Tòa
15
án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình, trừ Tòa án binh tại mặt trận, nguyên cáo,
bị cáo và bị can có thể nhờ một cơng dân khơng phải là Luật sư bênh vực cho
mình. Cơng dân đó phải được ông Chánh án thừa nhận".
Tiếp tục xây dựng bộ máy tư pháp và pháp luật tố tụng, Sắc lệnh 85
ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng ra đời đã có những
quy định mới liên quan đến phiên tòa sơ thẩm dân sự, theo đó "Ban tư pháp
xã có quyền xử chung thẩm những vic ũi bi thng hoặc bồi hoàn từ 300
ng trở xng" và có quyền "xư sơ thẩm những việc địi bi thng hoặc bồi
hoàn quá 300 đ do ng-ời bị thiệt hại thỉnh cầu trong đơn kiện hay lúc xét xư"
(§iỊu 7) . Ngồi ra, Sắc lệnh này đã quy định Hội thẩm nhân dân tham gia
việc xét xử, được nghiên cứu hồ sơ và ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử;
thành phần HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân.
Quy định Luật sư được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
Về sau các văn bản liên quan đến TTDS ngày càng trú trọng và quy định chi
tiết hơn về phiên tòa dân sự sơ thẩm để việc tiến hành được thuận lợi và thống
nhất như Thông tư 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC) lần đầu tiên đã khái quát được trình tự xét xử tại phiên tịa:
Thẩm phán chủ tọa phiên tịa có nhiệm vụ bảo đảm việc xét
hỏi, tranh luận và giữ gìn trật tự tại phiên tịa. Hội đồng xử án có
nhiệm vụ quyết định mọi vấn đề về nội dung cũng như về thủ tục tố
tụng trong phiên tòa. Đối với những vấn đề đơn giản không cần phải
thảo luận lâu thì Hội đồng xử án trao đổi và quyết định ngay tại phiên
tòa, nhưng nếu việc trao đổi đòi hỏi mất nhiều thời gian, hoặc trao
đổi để nghị án thì Hội đồng xử án phải vào phòng nghị án [31].
Tiếp đó là Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm
theo Thông tư số 96 ngày 8/2/1977 của TANDTC rồi đến văn bản có hiệu lực
pháp lý cao hơn và được áp dụng trong một thời gian dài là Pháp lệnh
PLTTGQCVADS, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh
16
thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động và các văn bản hướng dẫn của
TANDTC… và hiện nay là BLTTDS năm 2004 - Bộ luật đầu tiên về TTDS
của nước ta.
Nghiªn cøu PLTTGQCVADS ta thÊy các quy định về phiên tòa sơ
thẩm đã phát triển thành một chế định độc lập và là bộ phận quan trọng của
một văn bản pháp luật chun ngành có tính ổn định cao. Các quy định này là
cơ sở pháp lý giúp cho hoạt động xét xử của tòa án đạt được những kết quả
nhất định. Tuy nhiên, chế định phiên tòa sơ thẩm nói chung cịn bộc lộ những
hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp, sơ sài về nội dung điều luật:
Chỉ bao hàm được các quy định chung nhất vừa cô đọng,
vừa chưa điều chỉnh hết được những hoạt động trong tố tụng dân
sự cụ thể, nhất là vào thời kỳ hiện nay, khi mà đời sống dân sự đã
thực sự có những chuyển động đa dạng, phức tạp do ảnh hưởng của
nền kinh tế thị trường [34, tr. 45]
Văn bản này còn thể hiện nhiều hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển
của đòi hỏi xã hội, cũng như trình độ pháp lý trong giai đoạn này. Nó ảnh
hưởng khơng nhỏ đến q trình giải quyết các tranh chấp dân sự, cũng như
thể hiện mơ hình tố tụng thẩm vấn một cách đậm nét mà ở đó Tịa án đóng vai
trị là cơ quan điều tra trong TTDS, yếu tố tranh tụng rất mờ nhạt, sự bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng không rõ nét . Sự ra đời của Nghị quyết 08NQ/TW với những quan điểm chỉ đạo có tính đột phá về cải cách tư pháp đã
mở đường cho việc sửa đổi bổ sung chế định phiên tịa nói chung, phiên tồ
sơ thẩm dân sự nói riêng theo hướng ngày càng hồn thiện và tiến bộ hơn đặc
biệt là đề cao yếu tố tranh tụng trong tất cả các phiên tòa, coi đây là khâu đột
phá trong hoạt động của Tòa án.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đánh giá về tình
hình cơng tác tư pháp trong những năm vừa qua ở nước ta là:
17
... Chất lượng cơng tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm
với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt
tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ
của cơng dân, làm giảm sút lịng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và các cơ quan tư pháp... [6].
Để có những chuyển biến mạnh mẽ trong cơng tác tư pháp, thực hiện
tốt nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nghị quyết 08-NQ/TW đã đề ra bốn quan điểm chỉ đạo sau:
1- Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ
trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ
chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực Nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; giữ vững bản chất của nhà
nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
2-Cơng tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp
thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm
phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ
chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tơn trọng quyền dân
chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.
3-Phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn xã hội tham gia vào
cơng tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để
hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững
chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các
hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp.
4-Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng
bước hiện đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước [6].
18
Bộ Chính trị đã đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới, trong đó đặc biệt nhấn mạnh:
... Bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác...
Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi cơng dân đều
bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán
quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên
đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những
bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời
hạn pháp luật quy định... [6 ].
Một trong những nội dung xuyên suốt các nhiệm vụ mà Bộ Chính trị
đã đề ra đó là cần mở rộng tranh tụng để nâng cao chất lượng xét xử nhằm
từng bước nâng cao chất lượng giải quyết các loại vụ án từ đó đưa hoạt động
của Tồ án nói riêng, các cơ quan tư pháp nói chung ngày càng có hiệu quả.
Qua nghiên cứu cỏc vn bn phỏp lut v TTDS đặc biệt là BLTTDS
năm 2004 cú th thy xột x v ỏn dõn sự chia làm nhiều giai đoạn khác nhau
trong đó giai đoạn hỏi và tranh luận tại phiên tồ đóng vai trị hết sức quan
trọng. Tại đây, mọi tình tiết của vụ án đều được trình bày, kiểm tra, đánh giá
một cách công khai, những người tham gia tố tụng được công khai tranh tụng,
đưa ra lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác
bỏ những lý lẽ, lập luận, chứng cứ của người khác. Việc hỏi và tranh luận tại
phiên toà được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nhất định và phải bảo đảm
thực hiện đúng những nguyên tắc mà BLTTDS đã quy định.
Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, thứ tự hỏi và trình tự phát biểu khi tranh
luận đề cao vai trị, vị trí của các bên đương sự. Kiểm sát viên tham gia phiên
19
tịa dân sự (nếu có) khơng có vai trị như trong phiên tịa hình sự, họ chỉ tham
gia với tư cách là người giám sát hoạt động xét xử của tịa án mà khơng can
thiệp vào nội dung tranh chấp của các đương sự. Vị trí, vai trị của các đương
sự tại phiên tòa thể hiện xu hướng dân chủ trong hoạt động tư pháp, tôn trọng
quyền yêu cầu và tự định đoạt của họ trong quá trình xét xử. Ý chí và sự tự
nguyện của các đương sự ln được tôn trọng và xem xét trước tiên. Quyết
định tại phiên tòa là sự phán xét của tòa án nhưng có thể đơn giản là ghi nhận
sự thỏa thuận của các đương sự.
Kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự không nhất thiết phải bằng một
bản án được tuyên tại phiên tòa. Nếu như phiên tòa xét xử vụ án hình sự ln
kết thúc bằng bản án của tịa án kết án một người phạm một tội cụ thể và hình
phạt kèm theo (trừ trường hợp được miễn hình phạt) hoặc tun bố người đó
vơ tội thì diễn biến và kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự còn tùy thuộc vào
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong q trình diễn ra phiên
tịa. Phiên tịa sơ thẩm có thể kết thúc bằng một bản án hoặc cũng có thể kết
thúc bằng một quyết định ngay sau khi đương sự rút yêu cầu hoặc thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
1.2. THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN NHỮNG PHẦN KHÔNG THỂ
THIẾU CỦA PHIÊN TỒ DÂN SỰ SƠ THẨM
Phiên tịa sơ thẩm dân sự là nơi tập trung kết quả các hoạt động của
các giai đoạn tố tụng trước đó. Mọi hoạt động của các giai đoạn thụ lý, hịa
giải trong q trình chuẩn bị xét xử nhằm thực hiện các thủ tục cần thiết hoặc
chỉ tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản, làm cơ sở để giải quyết toàn bộ
nội dung của vụ án được tiến hành tại phiên tòa sơ thẩm.. Các chủ thể tham
gia phiên tòa "cùng nhau tạo lập bức tranh toàn cảnh về quan hệ pháp luật
dân sự một cách trung thực, khách quan, toàn diện" [11, tr. 12]. Các tài liệu,
chứng cứ được đưa ra xem xét, đánh giá thơng qua phần trình bày và tranh
luận giữa các bên. Thông qua các hoạt động này tòa án sẽ ra các phán quyết
20
nhằm giải quyết toàn bộ nội dung của vụ án, từ việc chấp nhận hay không
chấp nhận yêu cầu của đương sự cho đến vấn đề án phí, các quyết định phải
thi hành ngay (nếu có) và quyền kháng cáo đối với bản án. Bởi lẽ thơng qua
đó, HĐXX được nghe các bên đương sự và những người tham gia tố tụng
khác trình bầy về tồn bộ các tình tiết của nội dung vụ án cũng như thể hiện
quan điểm của họ trong việc giải quyết vụ án và bảo vệ quyền lợi cho mình
một cách tồn diện nhất. Chính vì vậy, đối với HĐXX nói chung và đối với
mỗi thành viên HĐXX nói riêng, qua hỏi và tranh luận tại phiên tịa giúp họ
có cách nhìn tồn diện, phân tích và đánh giá các tình tiết của vụ án một cách
chính xác và đúng đắn cũng như kiểm tra, đánh giá tồn bộ các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án. Khơng ít trường hợp sau khi nghe những người tham
gia tố tụng trình bầy trong phần hỏi và tranh luận, HĐXX đã xác định được
các tình tiết thật sự, bản chất của vụ án mà trong các giai đoạn tố tụng trước
đó, cũng như khi nghiên cứu hồ sơ vụ án HĐXX không nắm được hoặc có
nhận thức khơng đúng.
Thực tiễn cho thấy do xuất phát từ các lợi ích khác nhau, do tư cách
tham gia tố tụng khác nhau cho nên các bên đương sự và những người tham
gia tố tụng khác khi trình bầy, đánh giá chứng cứ, nhận thức pháp luật và đưa
ra các đề nghị về hướng giải quyết vụ án cũng rất khác nhau. Thơng qua việc
trình bầy, phân tích, đánh giá nhiều chiều về các chứng cứ cũng như tình tiết
của vụ án, đề xuất pháp luật nội dung cần áp dụng của các bên đương sự,
HĐXX có điều kiện xem xét, quyết định về vụ án một cách toàn diện, đầy đủ,
khách quan tránh phiến diện, định kiến, không được xem nhẹ bất cứ một
chứng cứ, tình tiết nào đã được thu thập và thẩm tra tại phiên tòa
Như vậy thông qua thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở
xem xét, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện HĐXX đưa
ra được phán quyết của mình về việc giải quyết vụ án. HĐXX căn cứ vào các
quy định của pháp luật để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên
21
đơn hay bị đơn, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan… trên cơ sở những
tài liệu, chứng cứ và những lập luận của họ tại phiên tòa cũng như vấn đề ai là
người phải chịu án phí đối với yêu cầu được chấp nhận hay không được chấp
nhận. Vì đây là một khoản nghĩa vụ mà đương sự phải chịu với Nhà nước đối
với yêu cầu khởi kiện theo quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
1.2.1. Nhận thức chung về Thủ tục hỏi tại phiên toà dân sự sơ thẩm
Hỏi tại phiên toà là một phần, một giai đoạn quan trọng của quá trình
xét xử một vụ án nói chung, vụ án dân sự nói riêng. Đây là cuộc thẩm tra các
tài liệu, chứng cứ chính thức cơng khai được thực hiện qua việc hỏi nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người tham gia
tố tụng khác, cùng với việc xem xét vật chứng, các tài liệu nhằm kiểm tra các
chứng cứ và làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án (nếu thực hiện theo như quy
định của BLTTDS hiện hành). "Mục đích của tố tụng hỏi ở tại phiên tòa để
xem xét, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ của vụ án, thơng qua đó làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án, nhất là các vụ án mà các bên đương sự cịn có các ý
kiến khác nhau" [44, tr. 290]. Trên cơ sở đó HĐXX xác định: quyền khởi
kiện, thời hiệu khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp là gì? Tư cách đương
sự trong vụ án? Điều luật nào được áp dụng? Tính hợp pháp của các chứng
cứ, những thiệt hại xảy ra... để có các quyết định đúng đắn. Trong giai đoạn
hỏi tại phiên toà, HĐXX phải trực tiếp nghiên cứu các chứng cứ của vụ án
như: hỏi nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người
làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét các vật chứng, đọc
biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ... Chủ toạ
phiên toà là người điều khiển việc hỏi, áp dụng các biện pháp được BLTTDS
quy định để nghiên cứu các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện
nhằm giải quyết vụ án được chính xác, đồng thời loại bỏ những tình tiết
khơng liên quan đến vụ án. Một ngun tắc đối với HĐXX là chỉ được dùng
những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà để làm căn cứ khi ra
22
bản án. Theo như quy định hiện hành thì gần như vai trò chứng minh tại phiên
tòa thuộc về HĐXX, quy định như vậy đã vơ hình chung làm cho giai đoạn
tranh luận bị mờ nhạt, hầu như khơng cịn nhiều ý nghĩa và thực tiễn xét xử
hiện nay hầu hết các phiên tịa dân sự nói chung, phiên tịa dân sự sơ thẩm nói
riêng các đương sự khơng tham gia tranh luận. Đây là điều bất hợp lý, cần
nghiên cứu sửa đổi để phân định rõ ràng ranh giới của việc hỏi và tranh luận
một cách hợp lý và nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa.
Việc hỏi của HĐXX tại phiên tồ phải theo đúng trình tự do luật
TTDS quy định, đồng thời phải có kế hoạch hỏi hợp lý. Theo chúng tơi Chủ
toạ phiên tồ chủ động hỏi chỉ mang tính chất đặt vấn đề, gợi mở để cho các
bên tranh tụng chứ không hỏi theo kiểu định kiến trước. Hỏi ai trước, hỏi ai
sau, cần làm rõ những nội dung gì phải do Chủ toạ phiên toà điều khiển phù
hợp với từng vụ án cụ thể, đồng thời tạo điều kiện cho người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và những người tham gia tố tụng
khác hỏi là chủ yếu. Trong trường hợp người được hỏi có mặt tại phiên tồ thì
HĐXX khơng được nhắc lại hoặc cơng bố lời khai của họ trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử trước khi họ khai tại phiên tồ về những tình tiết của vụ án,
trừ khi lời khai của người được hỏi tại phiên tồ có mâu thuẫn với lời khai của
họ trước đó hoặc người được hỏi khơng khai tại phiên tồ. Bởi lẽ việc nhắc lại
hoặc cơng bố lời khai của họ trước có thể là một áp lực tâm lý khiến người
được hỏi không dám khai sự thật, không dám thay đổi lời khai nếu vì một lý
do nào đó mà trong giai đoạn trước họ khai báo chưa chính xác. Điều này ảnh
hưởng đến việc chứng minh, đến quyết định giải quyết vụ án của HĐXX.
Theo quy định tại Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự
kèm theo Thông tư số 96 ngày 8/2/1977 của TANDTC việc xét hỏi tại phiên
tòa quy định cụ thể như sau:
1. Xét hỏi: Trong phần xét hỏi Chủ toạ phiên toà lần lượt
hỏi nguyên đơn, bị đơn, người dự sự, nhân chứng… Khi xét hỏi thì
23
chủ toạ phiên toà hỏi trước, Hội thẩm nhân dân hỏi thêm. Khi hội
đồng xử án hỏi xong thì chủ toạ phiên toà hỏi xem đại diện Viện
kiểm sát nhân dân và luật sư, người bào chữa có hỏi thêm gì khơng,
nếu những người này có hỏi thì họ có quyền đặt câu hỏi. Sau đó
chủ toạ phiên tồ lại hỏi xem những người tham gia tố tụng khác có
hỏi gì thêm…
Nếu có người vắng mặt…. Thì chủ toạ phiên tồ cơng bố lời
khai của họ.
Kết hợp với việc nghe lời khai, chủ toạ phiên toà phải đưa
ra xem xét tài liệu viết, vật chứng…
Bất cứ lúc nào chủ toạ phiên tồ cũng có thể cho đối chất
giữa những người đã khai về những điểm có mâu thuẫn… [32].
Nghiªn cøu những quy định về xét hỏi trong bản h-ớng dẫn trên ta có
thể thấy nó tuy không đ-ợc kết cấu thành điều khoản cụ thể nh-ng nó khá chi
tiết và đầy đủ thậm chí có điểm tiến bộ hơn PLTTGQCVADS nh- quy định:
nếu có ng-ời vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của họ
Mt vn cũng cần được đề cập đến trong việc hỏi tại phiên tồ đó
là văn hố phiên tồ. Phiên tồ được tổ chức cơng khai với sự có mặt của
đơng đảo quần chúng nhân dân, vì vậy phiên tồ phải được tiến hành một
cách có văn hố. Ở đây văn hố thể hiện cách ứng xử giữa tất cả những người
tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và cả những người tham dự
phiên toà. Cách ứng xử thể hiện qua những hành vi, lời nói, ngơn ngữ.
BLTTDS năm 2004 cũng đã có một số điều luật quy định về cách ứng xử của
những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và những người
tham dự phiên tồ, ví dụ Điều 209 quy định về nội quy phiên toà và một số
quy định khác tại mục 3 chương XIV quy định "Thủ tục hỏi tại phiên toà"
như khoản 2 điều 227 và mục 4 chương XIV quy định thủ tục "Tranh luận tại
phiên toà". Song vẫn còn một số vấn đề chưa được quy định cụ thể ví dụ khi
24
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi những người tham
gia tố tụng có phải đứng lên hay không, cách xưng hô giữa những người tham
gia tố tụng với nhau...
Trong phần thủ tục hỏi tại phiên tịa sơ thẩm dân sự thì theo luật định
các chủ thể được quyền tham gia hỏi gồm có: HĐXX, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và kiểm sát viên (nếu kiểm sát viên
tham gia phiên tòa) và những người tham gia tố tụng khác. Pháp luật hiện hành
quy định như vậy bởi lẽ trong giai đoạn hỏi tại phiên toà, HĐXX phải trực tiếp
nghiên cứu các chứng cứ của vụ án, kiểm tra tính hợp pháp, giá trị chứng minh
của các chứng cứ cũng như xác định sự thật khách quan của từng tình tiết có
tranh chấp giữa các đương sự từ đó làm cơ sở cho việc nhận xét, đánh giá và đưa
ra phán quyết của mình. Bởi vậy, HĐXX phải tham gia trực tiếp vào q trình
hỏi tại phiên tịa… Cịn đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, đương sự họ có vai trị chính trong vụ án, họ là người đưa ra các yêu
cầu, ý kiến hay bảo vệ cho thân chủ đã đưa ra u cầu, ý kiến đó vì vậy họ phải
tự mình chứng minh cho các yêu cầu, ý kiến đó và để làm được việc này thì họ
phải tích cực tham gia vào q trình hỏi tại phiên tịa để bảo vệ cho thân chủ của
mình hay bảo vệ cho chính quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tịa án…
Việc quy định cho kiểm sát viên có quyền hỏi tại phiên toà dân sự sơ
thẩm nhằm giúp cho trong phần tranh luận, sau khi các bên đương sự đã đối
đáp xong thì kiểm sát viên nắm rõ nội dung, các tình tiết của vụ án để đưa ra
quan điểm của viện kiểm sát khi kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải
quyết vụ án.
Một vấn đề đặt ra là khi hỏi tại phiên toà, các chủ thể tham gia hỏi mà
không phải là HĐXX hỏi, những người được hỏi như nguyên đơn, bị đơn,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, của bị đơn, kiểm sát
viên … thì những người được hỏi trả lời ai và xưng là "Thưa Hội đồng xét xử"
hay "thưa Kiểm sát viên", "thưa ông, bà"... theo quan điểm cá nhân và cũng
25