Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Quyền tham gia đại diện, bào chữa của trợ giúp viên pháp lý cho đối tượng được trợ giúp pháp lý qua thực tiễn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.91 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ THƢƠNG

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ THỪA PHÁT LẠI THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ THƢƠNG

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ THỪA PHÁT LẠI THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Thắng

Hà Nội - 2018



1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do chính tơi nghiên cứu với sự giúp
đỡ trực tiếp của thầy hướng dẫn TS. Nguyễn Mạnh Thắng. Đối với những
trích dẫn trong luận văn, tơi đã trình bày đúng theo quy định của Khoa LuậtĐại học Quốc Gia Hà Nội. Đối với những số liệu trong luận văn, tôi đảm bảo
tính chính xác và trung thực.
Hà Nội, ngày 12 tháng 04 năm 2018.
Học viên

Lê Thị Thƣơng

2


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................. 3
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn .............................................. 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 9
6. Kết cấu của Luận văn ........................................................................................ 9
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ
THỪA PHÁT LẠI .............................................................................................. 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa của Thừa phát lại ......................... 10
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Thừa phát lại ................................................. 10

1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của Thừa phát lại ......................................................... 14
1.2. Lƣợc sử của Thừa phát lại ở Việt Nam và kinh nghiệm nƣớc ngoài ........... 19
1.2.1. Lƣợc sử của Thừa phát lại ở Việt Nam ..................................................... 19
1.2.2. Kinh nghiệm nƣớc ngoài về Thừa phát lại................................................ 28
1.2.2.1.Thừa phát lại ở Pháp ............................................................................... 28
1.2.2.2. Thừa phát lại ở Úc .................................................................................. 33
1.3. Khái niệm và nội dung của quy chế pháp lý về Thừa phát lại ..................... 35
1.3.1. Khái niệm về quy chế pháp lý của Thừa phát lại ...................................... 35
1.3.2. Nội dung quy chế pháp lý về Thừa phát lại. ............................................. 37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1.................................................................................... 46
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ THỪA PHÁT LẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................. 47
2.1. Quy định pháp luật về hoạt động của Thừa phát lại .................................... 47
2.1.1. Quy định pháp luật về Thừa phát lại và Văn Phòng Thừa phát lại ........... 47
2.1.1.1. Về điều kiện, tiêu chuẩn của Thừa phát lại. ........................................... 47
2.1.1.2. Về văn phòng Thừa phát lại ................................................................... 49
2.1.2. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại ............... 52

3


2.1.2.1. Về Tống đạt ............................................................................................ 52
2.1.2.2. Về lập Vi bằng ....................................................................................... 58
2.1.2.3.Về xác minh điều kiện thi hành án.......................................................... 64
2.1.2.4. Về tổ chức Thi hành án. ......................................................................... 70
2.2.Tình hình hoạt động của Thừa phát lại tại Việt Nam hiện nay ..................... 75
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc từ thực tiễn các hoạt động Thừa phát lại ........... 75
2.2.2. Những khó khăn, bất cập từ thực tiễn hoạt động của Thừa phát lại ......... 80
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2.................................................................................... 84
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN

THIỆN QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ THỪA PHÁT LẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM ......................................................................................................... 86
3.1. Chủ trƣơng, cơ sở của việc hoàn thiện chế định Thừa phát lại.................... 86
3.2. Hoàn thiện chế định pháp luật về Thừa phát lại .......................................... 91
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao kết quả tổ chức thực hiện chế định về
Thừa phát lại........................................................................................................ 98
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.................................................................................. 101
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 103

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nhằm thực hiện xã hội hóa một số cơng việc
thi hành án dân sự, đồng thời nhằm góp phần tăng cƣờng hiệu quả cho công
cuộc đổi mới và phát triển đất nƣớc đang là nhiệm vụ quan trọng đƣợc Đảng
và nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm.Trên tinh thần của Nghị quyết số
48/2005/NQ-TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020”; tại điểm 2.3 mục 2 phần II Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách Tƣ pháp đến năm 2020
đã xác định: “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên); trước mắt
có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương sau vài năm, trên cơ sở tổng
kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước tiếp theo”. Thực hiện chủ trƣơng của Đảng,
ngày 14/11/2008, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi
hành luật Thi hành án dân sự, trong đó giao cho Chính phủ quy định và tổ
chức thực hiện thí điểm Thừa phát lại. Cùng với đó, chính phủ đã ban hành
Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 quy định về tổ chức và hoạt

động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh. Bƣớc đầu
việc thực hiện thí điểm đã đƣợc đơng đảo ngƣời dân và xã hội đón nhận tích
cực.
Trên cơ sở kết quả thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và kết
quả tổng kết và đề nghị của Chính phủ, ngày 23/11/2012 Quốc hội đã thơng
qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định
Thừa phát lại trong đó giao Chính phủ tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế
định Thừa phát lại tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng theo Nghị
quyết số 24/2008/QH12 đến hết ngày 31/12/2015. Ngày 26/11/2015 Quốc hội

5


đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát
lại và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016. Theo đó, Nghị quyết đã chấm dứt
việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nƣớc,
kể từ ngày 01/01/2016.
Có thể khẳng định, hoạt động của Thừa phát lại đã góp phần bảo đảm
tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và trong các hoạt động
tố tụng. Đối với hoạt động tƣ pháp, việc thí điểm chế định Thừa phát lại giúp
cho các hoạt động tƣ pháp đúng pháp luật và hiểu quả hơn. Đồng thời, điều
này cịn góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm, sự đóng góp của ngƣời dân,
xã hội đối với hoạt động bổ trợ tƣ pháp và giảm tải một phần công việc cho
các cơ quan nhà nƣớc. Đặc biệt, thông qua hoạt động Thừa phát lại, ngƣời dân
có thể chủ động hơn trong các hoạt động thi hành án dân sự và góp phần hạn
chế tiêu cực và tính độc quyền của hoạt động này.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc trong q trình thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại thì hoạt động Thừa phát lại cũng đã bộc
lộ một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Mặc dù, chế định Thừa phát lại đã
từng tồn tại ở Việt Nam từ trƣớc năm 1945 nhƣng hiện tại phần lớn ngƣời dân

vẫn chƣa biết rõ mô hình dịch vụ trong lĩnh vực hành chính tƣ pháp này.
Ngoài ra, thực tế cho thấy, kết quả hoạt động xác minh điều kiện thi hành án
và trực tiếp tổ chức thi hành án còn thấp.
Từ những lý do trên, tác giả luận văn lựa chọn đề tài “Quy chế pháp lý
về Thừa phát lại theo pháp luật Việt Nam” để xây dựng luận văn thạc sĩ luật
học. Đây là vấn đề cần thiết có sự nghiên cứu và mang nhiều giá trị không chỉ
về mặt lý luận khoa học mà cịn cả thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến Thừa phát
lại. Trong đó, tiêu biểu nhƣ: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực

6


tiễn về chế định Thừa phát lại” của tác giả Nguyễn Đức Chính năm 1998;
Luận văn thạc sĩ luật học “Thừa phát lại - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Minh Thuỳ bảo vệ tại Đại học Luật
Hà Nội năm 2011; Luận văn thạc sĩ luật học “Thừa phát lại trong thi hành án
dân sự” của tác giả Phạm Phúc Thịnh bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội năm 2014; sách “Tổ chức Thừa phát lại” của tác giả Nguyễn Đức
Chính xuất bản tại nhà xuất bản Tƣ pháp năm 2006.
Bên cạnh đó, cịn có các bài báo, tạp chí nhƣ: “Suy nghĩ về chế định
Thừa phát lại” của tác giả Phan Thông Anh đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập
pháp - Văn phịng Quốc hội, Số 4/2002; “Chế định Thừa phát lại: Lịch sử ra
đời và yêu cầu đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn
Văn Nghĩa đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tƣ pháp, Số 5/2006;
“Dịch vụ Thừa phát lại và sự phù hợp với các điều kiện tại Việt Nam trong
giai đoạn hội nhập quốc tế” của tác giả Nguyễn Vinh Hƣng đăng trên tạp chí
Khoa học Kiểm sát số 02/2017. Những cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập
một cách tổng thể về phạm vi, cũng nhƣ các khía cạnh khác nhau của Thừa

phát lại. Nhƣng chƣa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể về
Quy chế pháp lý Thừa phát lại theo pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, kế thừa và
phát triển từ các cơng trình nghiên cứu trên, luận văn nghiên cứu một cách có
hệ thống về Quy chế pháp lý Thừa phát lại ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy chế pháp lý về Thừa phát lại phù hợp với hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên để làm rõ mơ hình quy chế
pháp lý về Thừa phát lại, luận văn cũng nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện
nay để làm rõ sự phù hợp hay không phù hợp của các quy định có liên quan,

7


đồng thời luận văn cũng nghiên cứu bối cảnh kinh tế - xã hội làm phát sinh
nhu cầu về Thừa phát lại.
Về phạm nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu những quy định của pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay, những
quyền và nghĩa vụ của Thừa phát lại, đánh giá những những kết quả đã đạt
đƣợc của Thừa phát lại trong thời gian vừa qua, đƣa ra những bất cập, hạn chế
của Thừa phát lại, từ đó đƣa ra những giải pháp nhằm hồn thiện và góp phần
nâng cao hiệu quả của hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận về Thừa
phát lại. Đồng thời, phân tích quy chế về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay
để kiến nghị các định hƣớng và giải pháp xây dựng và hoàn thiện mơ hình
quy chế pháp lý về Thừa phát lại và việc thi hành một cách có hiệu quả quy
chế đó.
Để đạt đƣợc các mục tiêu cụ thể này, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể

sau đây:
Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của quy chế pháp lý về
Thừa phát lại.
Hai là, đánh giá thực trạng quy chế pháp lý về Thừa phát lại tại Việt
Nam hiện nay.
Ba là, đƣa ra định hƣớng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy
chế pháp lý về Thừa phát lại và nâng cao hiệu quả thực thi của quy chế pháp
lý đó.

8


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn đã tiếp
cận các vấn đề theo quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học đƣợc luận văn sử dụng nhƣ:
Phƣơng pháp phân tích; phƣơng pháp tổng hợp; phƣơng pháp so sánh…
6. Kết cấu của Luận văn
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về quy chế pháp lý Thừa phát lại
Chƣơng 2: Thực trạng quy chế pháp lý về Thừa phát lại ở Việt Nam
hiện nay
Chƣơng 3: Định hƣớng và một số giải pháp nhằm hoàn quy chế pháp lý
về Thừa phát lại theo pháp luật Việt Nam.

9


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ
THỪA PHÁT LẠI

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa của Thừa phát lại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Thừa phát lại
Trong thời kỳ Pháp thuộc, chế định Thừa phát lại đƣợc quy định cụ thể
trong các văn bản pháp luật nhƣ: Bộ luật Tố tụng Nam Việt ban hành năm
1910; Bộ Dân luật Trung năm 1936-1939; Bộ Hộ sự, Thƣơng sự tố tụng
Trung năm 1942; Bộ Dân luật Bắc năm 1931; Bộ Dân sự tố tụng Bắc năm
1917; Nghị định số 111 ngày 08/3/1949 của Chính quyền Bảo Đại [51,tr 9].
Cùng với sự phát triển của Thừa phát lại ở Pháp, các nƣớc Châu Âu nhƣ
Anh, xứ Galles, Bỉ, Hà Lan, Ê-cốt, Hy Lạp, Luých-xăm bua, các Thừa phát lại
ln có quy chế nghề độc lập. Sau khi liên bang Xô-viết tan rã, nhiều nƣớc
Trung Âu chuyển mình phát triển theo mơ hình tự do, các quốc gia nhƣ
Hunggary, Cộng Hòa Séc, Ba Lan, Slovakia, Slovennia, Lét-tơ-ni, Lít-tua-ni,
Etsx-tơ-ni đã thừa nhận Thừa phát lại là nghề tự do, độc lập với quyền lực
Nhà nƣớc. Thừa phát lại có thể sử dụng phƣơng pháp tống đạt cùng với
phƣơng pháp thông báo bằng đƣờng bƣu điện nhƣng về nguyên tắc phải thực
hiện phƣơng thức tống đạt trong đại đa số các trƣờng hợp để thông báo cho
đƣơng sự và thi hành bản án, quyết định của Tòa án [33, tr.6].
Trải qua các giai đoạn khác nhau, các điều kiện vùng miền khác nhau
mà khi nhắc tới khái niệm Thừa phát lại đã có khá nhiều quan điểm đƣợc đƣa
ra điển hình nhƣ:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thừa phát lại là “Người thuộc lại ở Tòa
án sơ cấp hay Tòa án địa phương, giữ việc phát tống các văn thư,chấp hành
điều phán quyết của Tòa Án, hay là thu một vật sản…”[20]
Theo quan điểm thứ hai: Thừa phát lại có nguồn gốc từ Tiếng Hán.
Trong đó, Thừa có nghĩa là Thừa ủy quyền, thừa lệnh, tuân lệnh; phát nghĩa là

10


phát ra, đƣa đến; lại là tên gọi chung viên chức sơ cấp chuyên làm công việc

theo lệnh của cơ quan trong Bộ máy nhà nƣớc phong kiến [49, tr.537-767972].
Quan điểm thứ ba cho rằng: Thừa phát lại là một nghề Tƣ pháp gọi là
công lại nghĩa là nhân viên có độc quyền hành một nghề do chính phủ tổ chức
và kiểm sốt để giúp cơng lý, mở cho những ngƣời đủ điều kiện và năng lực
chuyên môn nhƣng không có quyền từ chối sự triệu dụng mỗi khi cơng dân
dùng tới [48,tr 9].
Quan điểm thứ tư: Thừa phát lại là hoạt động mang tính bổ trợ tƣ pháp
nhƣ: Các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các
công việc khác theo quy định của pháp luật, đƣợc ngƣời có chức danh Thừa
phát lại thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định [28,
tr.14].
Theo Điều 2 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP giải thích: “Thừa phát
lại là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về Thi hành án
dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo quy định của
pháp luật có liên quan” [15]. Đối với quy định tại khoản 2, Điều 2 của Nghị
định số 135/2013/NĐ-CP về bổ sung điều 2a thì: “Thừa phát lại là người có
các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc
theo quy định của nghị định này và pháp luật có liên quan” [13].
Tuy nhiên, dƣới góc độ pháp lý: Thừa phát lại là người phải đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn mà pháp luật đã quy định, được nhà nước bổ nhiệm và
trao cho họ những quyền để tiến hành những công việc theo đúng quy định
của pháp luật. Công việc mà Thừa phát lại được thực hiện đó là: Tống đạt
văn bản, giấy tờ; lập vi bằng; xác minh điều kiện thi hành án; trực tiếp tổ
chức thi hành án và những công việc khác theo quy định của pháp luật.

11


Do đó, bắt nguồn từ sự xuất phát những quan điểm khác nhau về Thừa
phát lại, nhƣng tựu chung có thể thấy rằng Thừa phát lại mang những đặc

điểm cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất, Thừa phát lại là ngƣời đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo
pháp luật quy định nhƣ: Phải có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng
cử nhân Luật, có chứng chỉ hồn thành lớp tập huấn về nghề Thừa phát lại do
Bộ Tƣ pháp tổ chức…; đƣợc nhà nƣớc bổ nhiệm theo quy trình chặt chẽ và
đƣợc nhà nƣớc trao quyền để thực hiện các công việc nhƣ: Tống đạt giấy tờ,
lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp tổ chức thi hành án dân
sự và các công việc khác theo quy định của Pháp luật. Mặt khác, công việc
của Thừa phát lại đƣợc ngƣời có chức danh Thừa phát lại thực hiện mà không
phải ai khác.
Thứ hai, mặc dù theo quy định của Pháp luật, Thừa phát lại đƣợc nhà
nƣớc tuyển chọn theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt và bổ nhiệm để làm những
cơng việc nhất định. Ngồi ra, Thừa phát lại đƣợc thực hiện một số công việc
nhƣ Chấp hành viên nhƣng Thừa phát lại không phải là cán bộ công chức hay
viên chức nhà nƣớc, không hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc, Thừa phát lại
làm việc và đƣợc hƣởng thù lao và phí tổn theo mức giá mà Nhà nƣớc quy
định và hợp đồng ký kết với khách hàng. Nhƣ vậy,Thừa phát lại chỉ là một
chức danh nghề nghiệp đƣợc thu phí từ hoạt động nghề nghiệp của mình trên
cơ sở mức quy định của nhà nƣớc và hợp đồng ký kết với các cơ quan, tổ
chức cá nhân có yêu cầu.
Thứ ba, khi tiến hành thực hiện công việc, Thừa phát lại bắt buộc phải
tuân thủ những nguyên tắc chặt chẽ về mặt tố tụng và thi hành án. Ví dụ, đối
với những cơng việc về Thi hành án dân sự thì hoạt động tố tụng phải tuân thủ
đầy đủ thủ tục về thi hành án dân sự hay đối với thủ tục tống đạt phải theo
đúng u cầu của Tịa án thì Thừa phát lại phải tiến hành theo quy định của

12


pháp luật Tố tụng. Thừa phát lại phải chịu sự kiểm tra cũng nhƣ sự giám sát

chặt chẽ của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Ngồi ra, khi thực hiện công
việc, Thừa phát lại phải sử dụng thẻ Thừa phát lại và phải mặc đúng trang
phục đƣợc cấp.
Thứ tư, với tính chất và đặc thù cơng việc, Thừa phát lại có mối quan
hệ chặt chẽ với nhiều chức danh nghề nghiệp trong các cơ quan nhà nƣớc nói
chung và với cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng. Do đó, Thừa phát lại làm
cơng việc và mang tính chất bổ trợ tƣ pháp bởi công việc của Thừa phát lại
thƣờng là ghi nhận các sự kiện pháp lý, tống đạt giấy tờ và trực tiếp thi hành
án dân sự nên hoạt động luôn gắn liền với các hoạt động của cơ quan Tƣ pháp
và đƣơng sự. Khi tiến hành thực hiện cơng việc, Thừa phát lại có một số
quyền nhƣ những cán bộ, công chức nhà nƣớc: Khi thực hiện cơng việc về thi
hành án Thừa phát lại có một số quyền nhƣ Chấp hành viên nhƣ xác minh
điều kiện thi hành án hay trực tiếp thi hành các bản án, quyết định theo yêu
cầu của đƣơng sự; quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp thông
tin, tài liệu phục cho việc xác minh, tống đạt thi hành án.
Thứ năm, hoạt động của Thừa phát lại mang tính chất nghề nghiệp tự
do và độc lập bởi: Thừa phát lại làm theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan tổ
chức và không nhất thiết phải làm việc theo giờ hành chính, ví dụ những cơng
việc về lập vi bằng. Mặc dù, về nguyên tắc Thừa phát lại không đƣợc từ chối
những công việc mà cơ quan tổ chức hay đƣơng sự yêu cầu nhƣng Thừa phát
lại đƣợc từ chối không tiến hành công việc nếu công việc đó trái với pháp luật
hoặc trái với điều lệ hoạt động của văn phòng. Thừa phát lại đƣợc quyền thu
lệ phí lấy tiền cơng khi thực hiện cơng việc theo biểu giá mà nhà nƣớc đã quy
định.

13


Cũng chính vì vậy, với các đặc điểm trên, hoạt động của Thừa phát lại
từng đƣợc quan niệm là “nửa nhà nƣớc, nửa tƣ nhân”, “nửa công chức, nửa tƣ

chức” trƣớc đây gọi là công lại [27].
Những đặc điểm của Thừa phát lại, đã ảnh hƣởng rất nhiều và chi phối
đến quá trình xây dựng quy chế pháp lý của Thừa phát lại. Để xây dựng đội
ngũ Thừa phát lại thật sự chuyên nghiệp và vững mạnh với chuyên môn và
trình độ cao thì bắt buộc phải nâng cao tiêu chuẩn để bổ nhiệm Thừa phát lại.
Do đó, trong quá trình xây dựng và hồn thiện pháp luật về Thừa phát lại thì
cần chú ý đến những điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm đó. Mặc dù Thừa
phát lại chỉ là một chức danh nghề nghiệp, không đƣợc hƣởng lƣơng từ ngân
sách nhà nƣớc. Nhƣng Thừa phát lại lại hỗ trợ đắc lực trong công tác Tƣ pháp
và thi hành án và có mối quan hệ chặt chẽ với các chức danh trong cơ quan
nhà nƣớc. Đặc biệt là với Chấp hành viên, bởi khi tiến hành công việc Thừa
phát lại có một số quyền nhƣ Chấp hành viên. Tuy nhiên, đứng trên góc độ
khách quan, quyền của Thừa phát lại thật sự chƣa bình đẳng với quyền của
Chấp hành viên. Do đó, khi xây dựng pháp luật về Thừa phát lại cần phải chú
trọng về quyền của Thừa phát lại.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của Thừa phát lại
Kể từ năm 2009, chế định Thừa phát lại đã chính thức quay trở lại và
đƣợc tiến hành thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Việc quay trở
lại của chế định Thừa phát lại có thể coi nhƣ một giải pháp hỗ trợ cho công
tác thi hành án dân sự và góp phần bổ trợ các hoạt động tƣ pháp. Nhận định
đƣợc vai trị và sự đóng góp ngày càng quan trọng của Thừa phát lại, ngày
26/11/2015 Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực
hiện chế định Thừa phát lại, Nghị quyết có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016 đã
chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi
cả nƣớc, kể từ ngày 01/01/2016.

14


Thừa phát lại đƣợc pháp luật cho phép tiến hành thực hiện 4 cơng việc

chính, đó là: Tống đạt văn bản, giấy tờ của Tòa án và cơ quan Thi hành án
dân sự; lập vi bằng; xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi
hành án dân sự. Do đó, với bốn nhiệm vụ này, hoạt động của Thừa phát lại đã
góp phần bảo đảm tốt hơn, tối ƣu hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
của tổ chức trong đời sống dân sự, trong quan hệ với cơ quan nhà nƣớc và
trong các hoạt động tố tụng; góp phần giảm thiểu cơng việc cho Tòa án cho
cơ quan thi hành án để từ đó góp phần giảm bớt tình trạng án tồn đọng. Ngồi
ra, Thừa phát lại cịn góp phần xây dựng và tạo ra môi trƣờng hành lang pháp
lý rõ ràng và đảm bảo cho các giao dịch dân sự, kinh tế đƣợc thực hiện theo
đúng pháp luật để từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển ngày
càng vững mạnh. Nhƣ vậy, có thể thấy rõ vai trò đặc biệt và rất quan trọng
của Thừa phát lại trong hoạt động tƣ pháp, trong đời sống kinh tế-xã hội và
trong việc thực hiện dân chủ hóa đối với hoạt động Tƣ pháp thông qua các nội
dung chủ yếu của Thừa phát lại nhƣ sau:
Thứ nhất: Thừa phát lại hỗ trợ Tòa án, cơ quan thi hành án Dân sự
tống đạt các loại văn bản giấy tờ:
Theo quy định tại Điều 170 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
(BLTTDS) quy định về nghĩa vụ cấp, tống đạt, thơng báo văn bản tố tụng:
“Tịa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án thực hiện việc cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác
và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của Bộ luật này và
pháp luật có liên quan” [37]. Các văn bản tố tụng phải đƣợc cấp, tống đạt,
thông báo nhƣ: Thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng
dân sự; bản án, quyết định của Tòa án; quyết định kháng nghị của Viện kiểm
sát; các văn bản của cơ quan thi hành đó và các văn bản tố tụng khác theo quy
định của pháp luật. Trong khi đó, ngƣời thực hiện việc cấp, tống đạt, thơng

15



báo văn bản tố tụng đƣợc quy định tại Điều 172 của BLTTDS năm 2015 đó
là: Ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời của cơ quan ban hành văn bản tố tụng đƣợc
giao nhiệm vụ thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng; ủy ban
nhân dân cấp xã nơi ngƣời tham gia tố tụng dân sự cƣ trú hoặc cơ quan, tổ
chức nơi ngƣời tham gia tố tụng dân sự làm việc khi Tịa án có u cầu;
đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự hoặc ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự trong những trƣờng hợp do BLTTDS năm 2015 quy
định; nhân viên tổ chức dịch vụ bƣu chính; ngƣời có chức năng tống đạt;
những ngƣời khác theo quy định của pháp luật. Tại Điều 173 của BLTTDS
năm 2015 quy định về phƣơng thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
đƣợc thực hiện qua: Trực tiếp, qua dịch vụ bƣu chính hoặc ngƣời thứ ba đƣợc
ủy quyền thực hiện việc cấp, tống đạt thông báo; qua phƣơng tiện điện tử theo
yêu cầu của đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định
của pháp luật về giao dịch điện tử; niêm yết công khai; thông báo trên các
phƣơng tiện thơng tin đại chúng. Vì vậy, việc thực hiện cấp, tống đạt, thông
báo văn bản tố tụng có thể do nhiều chủ thể thực hiện và có thể thực hiện
bằng nhiều con đƣờng khác nhau. Do đó, sẽ khơng thể tránh khỏi những sai
xót khi thực hiện việc tống đạt đồng thời không đảm bảo đƣợc chắc chắn
quyền và lợi ích của các bên theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nếu Tịa
án giao những cơng việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho thừa
phát lại thực hiện thì sẽ nâng cao hiệu quả cơng việc đảm bảo tính chính xác,
kịp thời và đảm bảo quyền và lợi ích của các đƣơng sự trƣớc Tồ án; đồng
thời giảm bớt cơng việc cho Tịa án và cơ quan thi hành án. Bởi việc thực hiện
tống đạt của Thừa phát lại đƣợc quy định chặt chẽ, theo quy trình thì Thừa
phát lại hoặc thƣ ký nghiệp vụ khi tống đạt phải tìm đúng ngƣời đƣợc tống đạt
giao tận tay cho ngƣời nhận, có ký, ghi rõ thời gian, địa điểm tống đạt; nếu
không gặp ngƣời đƣợc tống đạt thì có thể giao cho ngƣời thân thích có năng

16



lực hành vi dân sự đầy đủ và ở cùng nơi cƣ trú và việc thực hiện tống đạt chỉ
đƣợc coi là đã hoàn thành nếu đã đƣợc thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục
quy định của pháp luật và khi hoàn thành việc tống đạt Thừa phát lại phải
thông báo kết quả tống đạt kèm theo các tài liệu chứng minh việc tống đạt
hoàn thành cho cơ quan Thi hành án dân sự, Tòa án.
Đối với hoạt động Tịa án, Thơng báo số 03/TB-TANDTC ngày
14/8/2015 của Tịa án nhân dân tối cao về tổng kết việc tiếp tục thí điểm chế
định Thừa phát lại đã đánh giá: “Hoạt động của Thừa phát lại trong việc tống
đạt văn bản tố tụng của Tịa án đã góp phần làm giảm khối lượng công việc
phải tống đạt để Thẩm phán, Thư ký Tịa án tập trung vào cơng việc giải
quyết, xét xử các loại vụ án, từ đó góp phần bảo đảm việc xét xử được nhanh
chóng, khách quan, đúng pháp luật. Như vậy, có thể nói, hoạt động của Thừa
phát lại đã góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng cơng tác xét xử, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia tố tụng, góp phần làm tăng
số lượng vụ việc được Tòa án giải quyết đúng thời hạn luật định, những hạn
chế của việc gửi văn bản tố tụng qua đường bưu chính cơ bản đã được khắc
phục [42]. Ngồi ra, với những cơng việc mà Thừa phát lại đƣợc làm nhƣ
Tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp thi
hành án sẽ góp phần giảm dần đội ngũ cơng chức tại các Tịa án và cơ quan
thi hành án dân sự. Mặt khác, đối với Tòa án, việc tống đạt văn bản của Thừa
phát lại giúp giảm cơng việc cho Tịa án, giúp Tịa tập trung vào việc chuyên
môn và xét xử; đối với cơ quan Thi hành án dân sự việc thực hiện các công
việc về tống đạt văn bản thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp
tổ chức thi hành án sẽ giúp nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan thi
hành án dân sự, tạo cơ chế vừa phối hợp và góp phần xóa bỏ tình trạng độc
quyền trong thi hành án.

17



Thứ hai: Thừa phát lại giúp tạo lập chứng cứ và bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của đương sự:
Căn cứ Điều 25 của Nghị định số 135/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung
tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm
2009 trong đó quy định về thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng nhƣ sau: “Thừa
phát lại có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của
đương sự, trừ các trường hợp quy định tại Điều 6 của Nghị định này; các
trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phịng; vi phạm bí
mật đời tư theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Dân sự; các trường hợp
thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc
thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp và các trường hợp khác
theo quy định của pháp luật. Thừa phát lại được lập vi bằng các sự kiện,
hành vi xảy ra trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt
Văn phòng Thừa phát lại”[13].
Tại Điều 28 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động
của Thừa phát lại đã quy định về giá trị vi bằng: “Vi bằng có giá trị chứng cứ
để Tịa án xem xét khi giải quyết vụ án; là căn cứ để thực hiện các giao dịch
hợp pháp khác theo quy định của pháp luật”[15]. Do đó, việc lập vi bằng để
xác lập các sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vi bằng chính là nguồn
chứng cứ rất chính xác, kịp thời về tất cả các sự kiện, hành vi cần thiết để làm
chứng cứ khi có tranh chấp xảy ra. Đồng thời, thông qua việc Thừa phát lại
lập vi bằng sẽ đảm bảo cho ngƣời dân có điều kiện bảo vệ, chứng minh các vụ
việc nhằm bảo vệ chính đáng quyền lợi của mình.
Thứ ba: Đảm bảo lợi ích của người dân của Nhà nước:
Khi Thừa phát lại tham gia vào công tác thi hành án dân sự sẽ góp phần
giảm bớt gánh nặng cho nhà nƣớc cả về tài chính về cơng việc và nhân sự.
Hoạt động của Thừa phát lại sẽ bổ trợ cho hoạt động thi hành án thông qua

18



việc xác minh điều kiện thi hành án và tống đạt văn bản của cơ quan thi hành
án; đồng thời tạo thuận lợi cho ngƣời dân trong việc lựa chọn loại hình thi
hành án và việc thi hành án do Thừa phát lại thực hiện luôn đảm bảo thủ tục
và thời hạn do pháp luật quy định.
Ngoài ra, việc tống đạt các văn bản tố tụng sẽ đảm bảo cho các đƣơng
sự nhận đƣợc các văn bản, giấy tờ để biết đƣợc nghĩa vụ hay quyền lợi của
mình trong văn bản, từ đó các bên có thể chuẩn bị chứng cứ, lý lẽ, để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.2. Lƣợc sử của Thừa phát lại ở Việt Nam và kinh nghiệm nƣớc ngoài
1.2.1. Lược sử của Thừa phát lại ở Việt Nam
Thừa phát lại xuất hiện ở nƣớc ta từ thời kỳ phong kiến trƣớc khi Pháp
“bảo hộ” Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời kỳ này chƣa có tài liệu cho thấy sự
xuất hiện Thừa phát lại theo đúng tên gọi của nó nhƣng xét về tính chất và đặc
thù cơng việc mà cơng lại, những sứ giả, môn đệ của nhà vua phải làm nhƣ:
Thu thập thông tin, truyền đạt mệnh lệnh, công văn, giấy tờ…thì những cơng
việc đó có tính chất nhƣ Thừa phát lại hiện nay. Nhƣ vậy, với quan điểm này,
nếu xét về bản chất cơng việc thì Thừa phát lại đã xuất hiện trƣớc thời kỳ
phong kiến và đảm nhận những nhiệm vụ, vai trò nhƣ ngƣời giúp việc cho các
quan lại, cho nhà vua.
Trong khi đó, có những quan điểm khác lại cho rằng “Thừa phát lại” có
lẽ xuất hiện ở Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký Hòa ƣớc ngày
05/6/1862 nhƣợng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ. Từ đó, Pháp đã đƣa mơ hình trực
tiếp áp đặt chế độ cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh
thổ[27,tr.9].
Mặc dù, Thừa phát lại đã ra đời và phát triển khá lâu tại Việt Nam.
Nhƣng qua các giai đoạn lịch sử thì mơ hình cũng nhƣ địa vị của Thừa phát
lại trong Tƣ pháp lại mang những dấu ấn khác biệt. Điển hình:


19


Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Hệ thống Tƣ pháp ở Việt Nam đƣợc tổ chức và dựa theo hệ thống tƣ
pháp của Pháp. Bởi với Hiệp ƣớc ngày 06/06/1884, Việt Nam đặt dƣới sự bảo
hộ của Pháp. Ngƣời Pháp đặt Thống sứ ở Bắc kỳ và Khâm sứ ở Trung kỳ đại
diện cho chính quyền Pháp. Tuy nhiên, lúc này ở Trung kỳ và Bắc kỳ, Hoàng
đế Việt Nam vẫn giữ quyền nội trị. Quyền tƣ pháp vẫn thuộc về Hồng đế
nhƣng quyền đó đã bị hạn chế bởi sự kiểm sốt của đại diện chính quyền
Pháp. Giai đoạn này, ở Bắc Kỳ và Trung kỳ chƣa có chế định Thừa phát lại.
Những cơng việc của Thừa phát lại nhƣ trát đòi hầu tòa, truyền phiếu…vẫn do
các môn vệ, môn lại tức là các sứ giả –Vua thực hiện [27,tr.9-10]
Nhƣ vậy, theo Hòa ƣớc 1884, chế độ cai trị của Pháp đƣợc phân biệt
tùy vùng miền. Nam kỳ thuộc địa, Bắc kỳ bảo hộ, Trung kỳ trú sứ. Nhƣng
trên thực tế cả ba miền đều bị chung dƣới ách đô hộ nhƣ nhau. Mọi quyền
hành đều nằm trong tay ngƣời Pháp. Sau khi chiếm Việt Nam, Pháp đã thiết
lập chế độ thuộc địa chặt chẽ. Đến năm 1887 Pháp đã thiết lập phủ toàn quyền
để thống nhất việc cai trị toàn vùng và đƣa hệ thống tƣ pháp của Pháp thiết
lập tại Việt Nam. Nhƣ vậy, trong giai đoạn này pháp luật của Pháp nói chung
và chế định Thừa phát lại nói riêng đƣợc áp dụng rộng rãi trên lãnh thổ Việt
Nam.
Trong thời kỳ này, việc quy định về thi thừa phát lại cũng khá chặt chẽ
và nghiêm túc. Việc thi thừa phát lại đƣợc quy định nhƣ sau:
Những công dân, dân thuộc địa và bảo hộ Pháp trên 25 tuổi xin làm
thừa phát lại (huissier) tại các Tòa án Trung Kỳ và Nam kỳ phải nộp đơn cho
quan Toàn quyền tại Hà Nội trƣớc ngày 30 tháng 10 là chậm nhận. Phải kèm
thêm những giấy tờ về căn cƣớc, bằng cấp, gia đình và việc chuyên nghiệp
thực hành của mình. Đƣợc miễn thi chuyên nghiệp: Những cử nhân Luật,
những cựu sinh viên trƣờng Pháp chánh Hà Nội, những cựu sinh viên trƣờng


20


Cao học Đông Dƣơng hoặc đã làm thƣ ký chƣởng khế, văn tự, trạng sƣ hay
Thừa phát lại. Nếu số ngƣời xin có những bằng cấp kể trên khơng đủ thì ở
một kỳ thi dự định trong khoản 3 nghị 4 Janvier 1908 [21].
Theo Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tƣ pháp, trong
thời kỳ này, nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa phát lại đƣợc giao cho ban Cơng
lại thuộc phịng Giám đốc Hộ vụ.
Có thể nói rằng Thừa phát lại trong thời kỳ này là công lại do Bộ
trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của
Pháp luật và với mục đích nhằm phục vụ cơng lý, phục vụ các hoạt động tƣ
pháp và nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong xã hội.
Ngồi ra, Thừa phát lại cịn làm việc theo sự yêu cầu của khách hàng hay làm
việc theo sự đề nghị của Tòa án trong phạm vi trách nhiệm đƣợc pháp luật
quy định. Tuy nhiên, Thừa phát lại không phải là công chức hay viên chức
nhà nƣớc, không hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc nhƣng Thừa phát lại
đƣợc nhà nƣớc bổ nhiệm và trao cho họ một số quyền năng nhất định để thực
hiện công việc.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950
Giai đoạn này, đánh dấu việc Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời. Theo đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt tay ngay vào xây dựng
một nhà nƣớc theo tinh thần dân chủ, tiến bộ. Đó là kiểu nhà nƣớc mà mọi
quyền lực đều bắt nguồn từ nhân dân, thừa hành ý chí của dân và hệ thống cơ
quan Tƣ pháp đƣợc thiết lập trên cả nƣớc. Vì vậy, ngày 19 tháng 7 năm 1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 130/SL quy định về tổ chức thi hành
án, trong đó có Thừa Phát lại, tại điều 3 sắc lệnh quy định:“Trong các xã, thị
xã hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký đều chịu trách nhiệm thi
hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Bản án ấy sẽ tùy từng

việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc

21


án, ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng, thì đương sự có quyền như
Thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh [24]. Ngồi ra, Sắc lệnh cịn quy
định: “Các bản tồn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh do các phòng
lục sự phát cho các đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của các
Tịa án hộ đều phải có thể thức thi hành”; ấn định như sau:“Chủ tịch Chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho các Thừa phát lại theo yêu cầu
của đương sự thi hành bản án này, các ông trưởng lý và biện lý kiểm sát việc
thi hành án, các thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu
cầu”.[24]
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 90/SL về
việc tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ nhƣng với điều kiện
những điều khoản trong các luật này không đƣợc trái với nền độc lập của
nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng Hịa. Theo đó, những năm đầu của chính quyền
cách mạng, chế định Thừa phát lại đƣợc tiếp tục đƣợc duy trì và phát triển.
Theo tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khơng phải cái gì cũng bỏ hết,
khơng phải cái gì cũng là mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ… cái gì cũ mà
khơng xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt
thì phải phát triển thêm …[23].
Sở dĩ Nghị định 111/BTP-NĐ ngày 04/02/1950 chỉ ấn định nhiệm vụ
của thừa phát lại một cách tổng quát vì nhiệm vụ này đã đƣợc quy định cụ thể
trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Bộ Luật Tố tụng dân sự ban hành ngày
16/3/1910 áp dụng tại miền Nam ccho đến năm 1972, theo đó các điều 15 ,
17, 18, 21, 167, 168, 169, 180, 180, 182, 183, 184, 185, 190, 193, 195, 198,
227, 228, 229, 230, 247, 252, quy định các hành vi thủ tục tố tụng Dân sự
đều phải giao cho Thừa phát lại thực hiện). Bộ luật dân sự và Thƣơng sự tố

tụng ban hành ngày 20/12/1972 tại miền Nam (thay thế Luật Tố tụng dân sự
ban hành ngày 16/3/1910), theo đó các điều từ 32,33, 34, 35, 36, 37, 38, 39,

22


điều 332, 333, 335, 337, 342 đến 348, điều 354 đến 362, 365, 369 đến 395,
401, 402, 403, 404, các hành vi tố tụng dân sự đều phải giao cho Thừa phát
lại hoặc viên chức Hành chính có trách nhiệm nhƣ điều 385 Bộ Luật Dân sự
và thƣơng sự tố tụng bắt buộc [27,tr.12]
Ngồi ra, Thừa phát lại có thể trực tiếp thi hành các bản án dân sự đã có
hiệu lực của Tịa án. Nhƣ vậy, có thể nói cùng với sự ban hành Nghị định 111
đã khẳng định đây là giai đoạn mà các quy định của pháp luật về Thừa phát
lại đã phát triển một cách khá tồn diện và đầy đủ khơng những về tổ chức bộ
máy mà cịn về quy trình và những thủ tục thi hành án. Do đó, trong những
năm đầu sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Thừa phát lại vẫn đƣợc duy trì
với tƣ cách là tổ chức Nhà nƣớc trao quyền thực hiện nhiệm vụ thi hành án
dân sự cùng ban Tƣ pháp xã. Thừa phát lại ở các tỉnh trƣớc là Lý trƣởng nay
là ban Tƣ pháp xã [12,tr.19].
Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1975
Thời kỳ đầu, tại Sài Gịn mới chỉ có 5 văn phịng Thừa phát lại (từ năm
1950 đến năm 1968) đến năm 1974 tăng lên 15 văn phịng. Các tỉnh An
Giang, Cần Thơ, Bình Dƣơng, Biên Hịa mỗi tỉnh có một văn phịng Thừa
phát lại, mỗi văn phịng có một thƣ ký trƣởng (tập sự). Tổng số có 18 Thừa
phát lại và 18 thƣ ký trƣởng hữu thệ, các thƣ ký trƣởng này đƣợc thay thế
thừa phát lại thực thụ để thực hiện các hành vi tố tụng theo luật định. Tổng số
thừa phát lại trƣớc năm 1975 gồm 36 Thừa phát lại trong đó có 18 Thừa phát
lại thực thụ và 18 thƣ ký trƣởng. Ở các tỉnh cịn lại, cơng việc Thừa phát lại
đƣợc giao cho các cảnh sát trƣởng hoặc phó cảnh sát trƣởng hoặc các Quận
trƣởng tạm thời kiêm nhiệm do Nghị định của Tổng trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ

nhiệm và các viên chức này đƣợc thu lệ phí nhƣ Thừa phát lại [27,tr.11].
Ở miền Bắc, chế định Thừa phát lại tồn tại khơng lâu và chính thức
đƣợc thay thế theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về “Cải cách Bộ máy

23


Tư pháp và luật tố tụng” do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Theo điều 19 của sắc
lệnh quy định “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của Biện lý có nhiệm vụ
đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hồn và các án hộ,
mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên” [22]. Nhƣ vậy, theo sắc
lệnh, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tƣ pháp xã thực hiện
nhƣ quy định trƣớc đây đã đƣợc thay thế bằng Thẩm phán huyện dƣới sự chỉ
đạo trực tiếp của Chánh án.
Đến năm 1960, khi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ra đời đã quy định
cụ thể về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của những ngƣời thực hiện
nhiệm vụ thi hành án dân sự. Theo điều 24 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đã
quy định:“Tại các Tịa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án
làm nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định dân sự, những khoản xử về
bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự” [34].
Ở miền Nam, Thừa phát lại tồn tại cho đến khi giải phóng miền Nam
(năm 1975). Nhìn chung, mơ hình tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại
dƣới chế độ ngụy quyền Sài Gịn tƣơng tự mơ hình tại thời kỳ Pháp thuộc.
Tính đến năm 1975 có 36 Thừa phát lại với 19 văn phòng Thừa phát lại hoạt
động ở Sài Gòn – Gia Định, An Giang, Cần Thơ, Bình Dƣơng, Biên Hịa
[51,tr.11-12].
Những cơng việc Thừa phát lại trong giai đoạn này phải làm:
Một là: Tống đạt các văn bản (giấy mời, giấy triệu tập ra tịa).
Tồn bộ những thơng báo của Tịa án cho các đƣơng sự và những
ngƣời có liên quan trong một vụ án đều đƣợc Tòa án giao cho Thừa phát lại

đảm nhiệm việc tống đạt. Và các truyền phiếu phổ biến nhất mà Thừa phát lại
tống đạt đó là các Trát địi nhƣ giấy mời hay giấy triệu tập của bị đơn, nguyên
đơn dân sự.

24


×