Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ LÝ

THỰC TIỄN THI HNH N DN S
TNH THI BèNH

luận văn thạc sÜ luËt häc

Hµ néi - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ LÝ

THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH THÁI BÌNH
Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hồng Ngọc Thỉnh

Hµ néi - 2010




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

8

1.1.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự

8

1.1.1.

Khái niệm chung về thi hành án

8

1.1.2.

Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự


10

1.1.3.

Ý nghĩa

14

1.2.

Những quy định cơ bản về thi hành án dân sự trong pháp
luật hiện hành

16

1.2.1.

Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án

16

1.2.2.

Những quy định cơ bản về thủ tục thi hành án

17

1.2.3.


Các biện pháp cưỡng chế thi hành án

26

1.2.4.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án

28

1.3.

Một số nét khái quát về thi hành án dân sự ở Việt Nam

32

1.3.1.

Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1993

32

1.3.2.

Thời kỳ 1993-2004 và hiện nay

34

1.3.2.1. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
1993 đến trước khi có Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004


34

1.3.2.2. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
2004 đến nay

35

1.4.

Pháp luật về thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới

38


1.4.1.

Tổ chức bộ máy và quy chế chấp hành viên thi hành án

38

1.4.2.

Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án, chấp hành viên

40

1.4.3.

Quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình thi hành án


41

1.4.4.

Về thời hiệu thi hành án

42

1.4.5.

Về thủ tục và biện pháp cưỡng chế thi hành án

42

Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH THÁI BÌNH

45

2.1.

Về đặc điểm tự nhiên - xã hội và một số nét khái quát về
công tác tư pháp ở Thái Bình

45

2.1.1.

Về đặc điểm tự nhiên - xã hội


45

2.1.2.

Về một số nét khái quát của công tác tư pháp ở Thái Bình

47

2.2.

Về tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự ở Thái Bình

49

2.3.

Cơ chế thực hiện

52

2.3.1.

Trường hợp thỏa thuận thi hành án

52

2.3.2.

Trường hợp thi hành án theo yêu cầu


53

2.4.

Một số vụ điển hình và nguyên nhân của những vướng mắc
đặt ra

56

2.4.1.

Một số vụ điển hình

56

2.4.2.

Nguyên nhân của những vướng mắc

71

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÁO GỠ ÁN TỒN ĐỌNG

76

TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở THÁI BÌNH

3.1.

Tính địi hỏi khách quan của những giải pháp


76

3.2.

Một số giải pháp cụ thể

78

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án là giai đoạn tiếp nối cuối cùng của q trình tố tụng, nếu
những phán quyết của Tịa án khơng được đưa ra thi hành thì các giai đoạn
trước đó của q trình tố tụng khơng có ý nghĩa trên thực tế.
Thi hành án đảm bảo hiệu lực bản án, quyết định của Tịa án, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Hoạt động thi hành án hiệu quả thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật, của bản án và quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, có thể nói vị trí, vai trị của cơng tác thi hành án nói chung và
thi hành án dân sự nói riêng ở Việt Nam vẫn chưa thực sự được quan tâm đầy

đủ, dẫn đến hiệu quả hoạt động của các Cơ quan thi hành án dân sự chưa cao,
án dân sự còn tồn đọng nhiều, địi hỏi phải có giải pháp tháo gỡ những ách tắc
trong hoạt động thi hành án dân sự.
Trong những năm qua, mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng và đạt
được những kết quả nhất định, nhưng hiệu quả của cơng tác thi hành án vẫn
cịn là vấn đề phải bàn luận. Trong thi hành án dân sự, số án tồn đọng chưa thi
hành gia tăng qua các năm mà chưa tìm ra phương án giải quyết hữu hiệu
nhất. Theo thống kê, năm 2009, các cơ quan thi hành án dân sự thụ lý 662.961
việc, đã thi hành xong 354.490 việc, đạt 81,05% số việc có điều kiện thi hành;
đã thi hành xong 6.621,7 tỷ về tiền, đạt 70,5% số việc có điều kiện thi hành.
Mặc dù số việc và tiền thi hành xong vượt chỉ tiêu đề ra nhưng số lượng việc
tồn đọng vẫn nhiều, trong số 270.925 việc cịn phải thi hành thì có hơn 188
ngàn chưa có điều kiện, với tổng số tiền phải thi hành là 17.199 tỷ 843 triệu
đồng (trong số trên 188 ngàn việc chưa có điều kiện thi hành án, có hơn 89
ngàn việc người phải thi hành án ốm nặng, chưa xác định được nơi cư trú;
người phải thi hành án khơng có tài sản, các việc Tịa án, Viện kiểm sát yêu

1


cầu hỗn. Ngồi ra, án tồn đọng vì những ngun nhân khác như đình chỉ vì
có kháng nghị; tun khơng rõ ràng, không phù hợp với thực tế, tài sản kê
biên chưa xử lý được hoặc có khiếu nại tổng số 98 ngàn 754 việc) [40].
Theo Bộ Tư pháp, còn có khoảng gần 30% vụ việc thi hành án tồn
đọng là do người phải thi hành án khơng có điều kiện thi hành. Hầu hết trong
số đó là những trường hợp người phải thi hành án bị tuyên phạt tù nhiều năm,
tù chung thân, hoặc khơng có tài sản để thi hành án. Nhiều vụ việc có giá trị
thi hành án nhỏ, nhưng nếu tính chi phí thực tế mà cơ quan thi hành án phải
bỏ ra để tổ chức thi hành án còn lớn hơn nhiều lần giá trị phải thi hành.
Xét về mặt nhận thức, nhiều tổ chức cá nhân trong xã hội và ngay cả

các cấp chính quyền cũng thường coi tổ chức thi hành án dân sự là việc riêng
của hệ thống cơ quan thi hành án thuộc Bộ Tư pháp, thậm chí, một số ủy ban
nhân dân là đối tượng bị thi hành án còn khơng tự giác thi hành hoặc cố tình
trì hỗn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng án tồn đọng ngày càng nhiều, dẫn đến hiệu
quả của công tác thi hành án chưa cao.
Riêng đối với tỉnh Thái Bình, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực
tiếp của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án Dân sự, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh, cấp ủy và chính quyền các cấp, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cán
bộ, công chức trong ngành, công tác thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ. Kết quả thi hành án từ ngày 01/10/2009
đến ngày 30/9/2010 [22] như sau:
Tổng số việc thụ lý 5.882 việc trong đó ủy thác 79 việc, tổng số việc
phải thi hành là 5.803 việc, giảm 360 việc so với năm 2009 (trong đó số thụ lý
mới 2683 việc, giảm 33 việc so với năm 2009), bao gồm:
+ 3.320 việc có điều kiện thi hành (57%)
+ 2.483 việc chưa có điều kiện thi hành (43%)

2


Trong đó việc có điều kiện thi hành, đã thi hành xong 3.040 việc
/3.320 việc, đạt 90% vượt 4% so với chỉ tiêu đặt ra, giảm 264 việc = 10% so
với cùng kỳ năm 2009. Số việc giải quyết xong (ủy thác + xong + đình chỉ +
miễn giảm + trả đơn) là 3.286 việc/5.882 đạt 55%.
Tổng số tiền và giá trị hiện vật thụ lý là 60.141.190.000đ, ủy thác
842.319.000đ còn tổng số tiền và giá trị hiện vật phải thu là: 59.298.871.000đ.
Trong đó: số có điều kiện thu 14.679.331.000đ (30%), số chưa có điều kiện
thu 37.632.927.000đ (70%)
Tổng số tiền và giá trị hiện vật đã thu được 12.006.576.000đ, đạt

(82%) số tiền có điều kiện thu vượt 18% so với chỉ tiêu và giảm so với cùng
kỳ năm 2009 là 2.404.429.000đ = 20%
Mặc dù các kết quả thi hành án dân sự của Thái Bình cả về việc và
tiền đều đạt và vượt so với chỉ tiêu do Bộ Tư pháp đặt ra nhưng lượng án tồn
đọng vẫn còn nhiều, án xếp vào diện khơng có điều kiện thi hành chiếm tỉ lệ
lớn (43%), có những vụ kéo dài hàng chục năm, nhiều cơ quan đã tham gia,
nhiều cuộc họp được tổ chức song đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm,
đương sự liên tục đến yêu cầu và gửi đơn đi rất nhiều nơi. Tính đến năm 2010
số lượng án tồn đọng của Thái Bình vẫn cịn khá lớn cụ thể:
+ Số việc có thời gian trên 10 năm là 405 việc với số tiền là
4.743.590.000đ
+ Số việc có thời gian từ 5 năm đến dưới 10 năm là 928 việc với số
tiền là 11.553.436.000đ.
+ Số việc có thời gian dưới 5 năm là 1.894 việc với số tiền là
31.909.230.000đ.
+ Kết quả đã giải quyết xong bằng hình thức xét miễn giảm 366 việc
với số tiền 215.589.000đ.
+ Trong đó đã phối hợp với các trại giam trong đợt đặc xá năm 2010
được 43 việc với số tiền 220.058.000đ

3


Thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở Thái Bình cịn đang gặp rất
nhiều khó khăn, bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau như: cơ chế chính
sách về thủ tục thi hành án chưa hoàn thiện; chế tài đối với người chây ỳ
khơng chấp hành án cịn nhẹ; công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng
thiếu chặt chẽ; đội ngũ chấp hành viên ít về số lượng, trình độ khơng đồng
đều, chun mơn, nghiệp vụ, kinh nghiệm cịn hạn chế, chưa tích cực tổ chức
thi hành án, không kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế...

Từ những lý do trên khẳng định cho việc lựa chọn đề tài "Thực tiễn
thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình" cho luận văn tốt nghiệp của tác giả sẽ
góp phần đánh giá được thực trạng và những hạn chế, bất cập trong công tác
thi hành án dân sự ở Thái Bình để từ đó tìm ra được nguyên nhân, đưa ra
được những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành án là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu về thi hành án dân sự: Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Văn Quảng
(1996): Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt
Nam; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Công Long (2000): Các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện; Luận văn
thạc sĩ của Lê Xuân Hồng (2001): Xã hội hóa thi hành án dân sự; Luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Thanh Thủy (2001): Hoàn thiện pháp luật về thi hành án
dân sự. Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình, nhiều bài báo đề cập đến các lĩnh
vực của công tác thi hành án dân sự như: Thực tiễn thi hành án dân sự: vẫn
nhiều án tồn đọng của tác giả Nhật Anh - Báo Người đại biểu nhân dân số ra
ngày 16/01/2010; Những bất cập trong thực thi Luật thi hành án dân sự của
tác giả Dương Văn Thịnh - Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên - Báo Người đại biểu nhân dân số ra ngày 08/7/2010; Mơ hình
tổ chức thi hành án một số nước trên thế giới- Thạc sĩ Nguyễn Văn Nghĩa -

4


Tạp chí Nghề luật số 1 năm 2007; Để nâng cao chất lượng công tác thi hành
án của tác giả Việt Anh - Tạp chí Cộng sản số 10 (154) năm 2008; Vướng
mắc trong việc thu phí thi hành án trên thực tế, khắc phục và thống nhất thực
hiện của Nguyễn Linh Giang đăng trên Website Đongnghieptha.ucoz.com
ngày 10/6/2010; Luật thi hành án dân sự và những điều bất cập - Báo Bình

Thuận số ra ngày 05/4/2010. Đây là những cơng trình nghiên cứu cơng phu,
có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi
hành án ở Việt Nam. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu này chỉ đề cập đến
các vấn đề mang tính chung, trên phạm vi cả nước còn vấn đề mang tính thực
tiễn riêng ở tỉnh Thái Bình thì chưa được nghiên cứu và đề cập. Do vậy, việc
lựa chọn đề tài "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình" được xem là
một trong những cơng trình đầu tiên nghiên cứu về thực tiễn công tác thi hành
án dân sự ở một địa phương cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Làm rõ được thực tiễn của cơng tác thi hành
án dân sự ở Thái Bình bằng việc nghiên cứu, phân tích những vụ việc cụ thể,
đánh giá được những vướng mắc khó khăn hiện nay, tìm ra được nguyên nhân
của những vướng mắc. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ
tình trạng án tồn đọng, đảm bảo mọi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tịa án phải được đưa ra thi hành.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn
đề chủ yếu sau:
+ Nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận về thi hành
án dân sự.
+ Phân tích những vụ việc điển hình và những vướng mắc đặt ra khi
thực hiện quá trình thi hành án.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ tình trạng án tồn đọng hiện nay.

5


- Đối tượng nghiên cứu: Các quy định về thi hành án dân sự trong pháp
luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở Thái Bình hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn
đề cơ bản về thi hành án và thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình, trên

cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp nhằm giảm lượng án tồn đọng hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận truyền thống
của chủ nghĩa Mác- Lê nin đó là phương pháp duy vật biện chứng và phương
pháp luận duy vật lịch sử.
- Cùng với các phương pháp trên, tác giả đã sử dụng các phương pháp
thu thập thông tin, số liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp và nghiên cứu thực
tiễn. Đây là các phương pháp được sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện đề tài.
Phương pháp thu thập thông tin chủ yếu được thực hiện qua hệ thống
Công báo, các trang Web của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng
thời thơng qua các báo cáo, các hồ sơ từng vụ việc thi hành án cụ thể của Cục
Thi hành án, các Chi cục thi hành án ở Thái Bình, thơng qua các bài viết, tạp
chí…của các tác giả trên báo chí, internet để lấy số liệu liên quan đến q
trình nghiên cứu, thơng qua việc phỏng vấn trực tiếp một số chấp hành viên,
cán bộ thi hành án…
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích, tổng hợp
các quy định của pháp luật về công tác thi hành án, cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật trong quá trình thi hành án, thực tiễn thi hành án ở Thái Bình.
Ngồi ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác để nghiên cứu
nội dung của luận văn như phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phương pháp
suy đoán…

6


5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Một số vấn đề về thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực tiễn thi hành án ở Thái Bình.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tháo gỡ án tồn đọng trong thi hành
án dân sự ở Thái Bình.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm chung về thi hành án
Hoạt động thi hành án có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn trật tự,
kỷ cương pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhất là trong
điều kiện hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Việc đạt được công lý, công bằng qua hoạt động xết xử sẽ phát huy vai trò
của Tòa án khi những bản án, quyết định được tổ chức thi hành.
Bản án, quyết định - kết quả giải quyết của Tòa án nhân danh Nhà
nước - là sự xác nhận quyền và nghĩa vụ của các đương sự có liên quan. Vì
vậy, theo quy định của Điều 136 Hiến pháp năm 1992 thì "Các bản án và
quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân tôn trọng; những
người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành". Chính vì vậy, khi
bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án muốn giải quyết được các tranh
chấp, muốn những phán quyết của Tòa án được thực thi trên thực tế thì phải
có thi hành án.
Theo ngun tắc hiến định nêu trên và yêu cầu khách quan trong hoạt

động của nhà nước, có thể thấy thi hành án là một nhiệm vụ quan trọng trong
hoạt động của nhà nước, vừa có những đặc tính phổ biến của một dạng hoạt
động nhà nước, vừa có những đặc trưng riêng:
Thứ nhất, thi hành án là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử của tòa
án. Các bản án, quyết định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến
hành các hoạt động thi hành án. Tuy nhiên, thi hành án là một dạng hoạt động

8


hành chính nhà nước, chứ khơng phải là hoạt động tố tụng bởi xét về bản chất
thì hoạt động tố tụng phải tuân theo một trình tự, thủ tục tố tụng hết sức chặt
chẽ với mục đích tìm ra sự thật của vụ án, còn thi hành án chỉ là sự thực thi
kết quả của quá trình tố tụng trước đó trên thực tế, tức lưỡng theo chuyên đề để cập nhật các kiến thức,
thông tin mới về văn bản pháp luật đặc biệt trong điều kiện mở rộng hội nhập
quốc tế và khu vực hiện nay. Tăng cường tổ chức các lớp bồi dưỡng về kỹ
năng nghiệp vụ thi hành án để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Có chính sách
khuyến khích, động viên, hỗ trợ cho cán bộ, nhất là cán bộ nữ đi học tập, nâng

83


cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, đồng thời có chính sách đào tạo nguồn
cán bộ tại chỗ và thu hút những người có trình độ về cơng tác tại các cơ quan
thi hành án cấp huyện, xa trung tâm thành phố. Đào tạo, bồi dưỡng khả năng
áp dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý, điều hành công việc.
Xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên, những người
làm công tác thi hành án áp dụng thống nhất trong toàn tỉnh.
Thứ ba, cần nghiên cứu cơ chế cơng khai hóa danh sách người phải thi
hành án có điều kiện về tài sản, thu nhập nhưng khơng tự nguyện thi hành án,

có biểu hiện chây ỳ, trốn tránh thi hành án tại những nơi công cộng (trụ sở Ủy
ban nhân dân, cơ quan thi hành án, tòa án…) hoặc trên một số phương tiện
thông tin đại chúng nhằm tác động về mặt tinh thần, danh dự để họ tự giác thi
hành án. Đối với trường hợp người phải thi hành án là cơ quan, doanh nghiệp
có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án thì cần áp dụng
các biện pháp kỷ luật hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người đứng đầu cơ quan, đơn vị đó.
Thứ tư, sự phối kết hợp của các cấp, các ngành:
Thực tiễn hoạt động thi hành án cho thấy, khi thi hành nhiệm vụ của
mình, Chấp hành viên thường gặp khơng ít trường hợp người phải thi hành án
tìm cách chống đối, cản trở việc thi hành án. Việc thi hành án sẽ hết sức khó
khăn trong trường hợp Chấp hành viên khơng nhận được sự hỗ trợ chặt chẽ,
kịp thời của các cơ quan công an. Trên thực tế, lực lượng cảnh sát cịn có thái
độ ngần ngại, né tránh tham gia bảo vệ cưỡng chế thi hành án; có nơi, cơ quan
cơng an còn cho rằng cưỡng chế thi hành án là nhiệm vụ riêng của cơ quan thi
hành án, nên khi có u cầu phối hợp cưỡng chế thì cơ quan công an không
kịp thời cử người tham gia hoặc cử không đủ số lượng người cần thiết. Sự
hợp tác, phối hợp hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện
chưa tốt; việc trao đổi kinh nghiệm thi hành án giữa các cơ quan thi hành án
trong tỉnh còn hạn chế, chưa đi vào nề nếp và chưa được nhân rộng;

84


Các cơ quan có thẩm quyền phải nghiêm chỉnh chấp hành và áp dụng
đúng các quy định của pháp luật, trong quá trình điều tra, xét xử, khi cần thiết
phải áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phải có sự phối kết hợp, sự thống
nhất giữa các cơ quan khi tiến hành thi hành án như việc khấu trừ, phong tỏa
tài khoản tại các ngân hàng, kho bạc…phải xây dựng được quy chế phối hợp
cụ thể giữa các cơ quan thi hành án với các phòng, ban và đơn vị liên quan

cùng cấp trong lĩnh vực thi hành án.
Cần tăng cường vai trò của Ủy ban nhân dân các cấp trong công tác
thi hành án dân sự, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành
án để giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân mỗi cấp trong công tác tổ chức thi hành
án ở địa phương, thành viên Ban chỉ đạo thi hành án bao gồm đại diện có
thẩm quyền của các cơ quan tư pháp, Tịa án, Viện kiểm sát, Cơng an, Thanh
tra và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ban Chỉ đạo thi hành án có trách nhiệm
giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong chỉ đạo thi hành án đối với các vụ án
trọng điểm, phức tạp và không phải chỉ đạo đối với tất cả các vụ án phải thi
hành, để một mặt tăng thêm hiệu quả của công tác thi hành án, mặt khác,
không bao biện, làm thay, làm giảm vai trò, trách nhiệm của cơ quan thi hành án.
Thiết lập, duy trì quan hệ giữa cơ quan thi hành án với chính quyền cấp
cơ sở. Cơng việc thi hành án được thực hiện tại cơ sở. Do vậy, phải thiết lập,
duy trì mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó giữa cơ quan thi hành án với chủ tịch xã,
phường, thị trấn, các tổ chức chính trị - xã hội và Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở.
Việc phối hợp với các cơ quan thi hành án để thực hiện thi hành án đạt
kết quả cao là trách nhiệm của mọi chủ thể mà pháp luật đã quy định.
Thứ năm, cần nâng cao chất lượng xét xử: Để khắc phục tình trạng án
tun khơng rõ, khơng phù hợp với thực tế, gây khó khăn cho việc thi hành
án, cần có biện pháp nâng cao năng lực xét xử của tòa án các cấp, của thẩm
phán. Chất lượng các bản án của Tịa án phải có khả năng thi hành trong thực
tế. Ngành Tòa án cần hạn chế một bản án phải qua nhiều cấp xét xử. Bản án

85


vừa thi hành xong lại thi hành lại, theo một thống kê tại Hội nghị chuyên đề
triển khai công tác thi hành án dân sự năm 2010 khu vực phía Bắc do Bộ Tư
pháp tổ chức mới đây hiện cả nước cịn 270.925 án tồn đọng trong đó có
98.754 án tồn đọng vì có kháng nghị, tun khơng rõ ràng, không phù hợp với

thực tế, tài sản kê biên chưa xử lý được hoặc có khiếu nại... Những bản án về
tài sản có giá trị lớn tịa án cần tun giao cho cơ quan thi hành án giải quyết
trên cơ sở giá thị trường cùng thời điểm, không nên tuyên cụ thể số tiền vì
trong thực tế có sự biến động giá cả trên thị trường người được thi hành án sẽ
chịu thiệt do trượt giá. Đối với các bản án có tang vật khơng cịn giá trị sử
dụng, hoặc có giá trị dưới 50.000 đồng tịa nên tun tiêu hủy, không nên
tuyên trả lại cho người được thi hành án vì nhiều trường hợp họ ở xa khơng
thể đến cơ quan thi hành án nhận tài sản vì chi phí tàu xe quá số tiền tang vật,
nên bản án vẫn tồn đọng. Đồng thời, cần có quy định của pháp luật đối với
thẩm phán, cán bộ tòa án, chấp hành viên, cán bộ thi hành án. Cụ thể: Các bản
án, quyết định của tồn án thì thẩm phán và chấp hành viên phải theo án đến
cùng để có thể khắc phục những thiếu sót của bản án. Giải quyết những
vướng mắc phát sinh; các trường hợp miễn, giảm thi hành án và án chuyển
giao xuống cấp xã. Với phương châm án của thẩm phán nào xét xử thì người
đó phải theo dõi; chấp hành viên nào nhận án phải giải quyết án đến cùng kể
cả án ủy thác đi nơi khác khắc phục án tuyên nửa vời.
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi
trách nhiệm của mình phối hợp với Bộ Tư pháp tiến hành rà soát, thống kê những
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật tun khơng rõ hoặc khó thi hành, để
kịp thời sửa chữa, bổ sung hoặc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Đồng thời trên cơ sở giải quyết những vụ án có vướng mắc, khó khăn trong thi
hành án dân sự, Tòa án nhân dân tối cao cần chỉ đạo chấn chỉnh và hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử. Đề nghị Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp tăng cường và nâng cao chất
lượng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án dân sự.

86


Thứ sáu, tăng cường tuyên truyền pháp luật về thi hành án rộng rãi đối

với nhân dân. Tuyên truyền cho nhân dân hiểu về trách nhiệm, nghĩa vụ của
người phải thi hành án, về các biện pháp cưỡng chế khi không tự nguyện thi
hành, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân. Đặc biệt, có thể thơng báo
trên các phương tiện thông tin đại chúng về người phải thi hành án để cho gia
đình, người thân, làng xóm biết vận động người phải thi hành án tự giác thực
hiện, việc thông báo thi hành án không chỉ tác động đến người phải thi hành
án mà còn tác động đến gia đình, dịng họ, làng xóm, tổ chức đồn thể nơi họ
hoặc người thân của họ đang sinh hoạt. Từ đó có sự động viên, hỗ trợ, giúp đỡ
người phải thi hành án nhanh chóng thực hiện xong nghĩa vụ về thi hành án.
Bên cạnh đó, cần tích cực điều tra, xác minh, phân loại án có biện
pháp xử lý kịp thời, kiên quyết xử lý những người phải thi hành án có điều
kiện thi hành mà khơng chấp hành bản án. Đặc biệt, đối với những vụ án dân
sự trọng điểm mang tính nổi cộm chưa thi hành được mặc dù người phải thi
hành án có điều kiện thi hành.
Thứ bảy, đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa cơng tác thi hành án:
Từng bước xã hội hóa cơng tác thi hành án là một chủ trương được đề ra trong
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2010. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng tiếp tục khẳng
định "từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ
tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số
công việc thi hành án".
Qua nghiên cứu, phân tích mơ hình tổ chức thi hành án của các nước
và xét trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta có thể áp dụng chế định
thừa phát lại vì các lý do sau đây:
- Vẫn duy trì trên cơ sở sắp xếp một cách hợp lý tổ chức thi hành án
hiện nay với chế độ công chức thi hành án, đồng thời có thể triển khai thực

87



hiện chủ trương xã hội hóa một số loại hình dịch vụ thi hành án dân sự thông
thường như tống đạt giấy tờ, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án theo
yêu cầu của đương sự, trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của
Tòa án theo yêu cầu của đương sự (trừ các bản án, quyết định thuộc diện thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án)...và
được thu phí dịch vụ đối với người được thi hành án.
- Mơ hình thi hành án áp dụng cả chế định thừa phát lại sẽ giảm nhẹ
một cách đáng kể các chi phí của nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự.
- Tạo ra cơ chế hợp tác cùng có lợi giữa các đương sự và cơ quan thi
hành án trong hoạt động thi hành án, mở rộng quyền tự định đoạt của các
đương sự, nhất là trong việc lựa chọn các phương thức thi hành án.
- Việc xã hội hóa giúp giảm tải khối lượng công việc của cơ quan thi
hành án dân sự đăng ngày càng tăng lên khơng ngừng, góp phần hạn chế,
khắc phục tình trạng tồn đọng án kéo dài do tình trạng q tải vì thiếu nhân
lực, kinh phí, phương tiện hoạt động của các cơ quan thi hành án hiện nay.
- Thực hiện xã hội hóa sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng thi hành
án dân sự nhờ có sự cạnh tranh giữa các cơ quan, tổ chức thi hành án; làm
thay đổi phong cách, lề lối làm việc, thái độ phục vụ, khắc phục tệ quan liêu,
cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân; tạo thêm khả năng lựa chọn cho người dân
phù hợp với điều kiện, khả năng của mình.
Hiện tại, mơ hình thừa phát lại đang được nhà nước ta thực hiện thí
điểm ở thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh các cơ quan thi hành án đang tồn
tại, ngày 24/7/2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ
chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí
Minh, có hiệu lực từ ngày 09/9/2009. Bộ Tư pháp cũng ban hành Thông tư
03/2009/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định
61/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực
hiện thí điểm ở Thành phố Hồ Chí Minh.


88


Thừa phát lại là người được nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc
về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo
quy định của Nghị định và pháp luật có liên quan. Cá nhân muốn được bổ
nhiệm làm thừa phát lại phải đạt được những tiêu chuẩn tương đương với một
chấp hành viên trung cấp. Để trở thành thừa phát lại, cá nhân làm hồ sơ xin
được bổ nhiệm gửi Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh xem xét, nếu đáp ứng
đủ các điều kiện theo luật định thì Sở Tư pháp sẽ trình Bộ Tư pháp quyết định
bổ nhiệm làm thừa phát lại. Đến nay, Bộ Tư pháp đã bổ nhiệm 21 Thừa phát
lại, phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tập huấn
và cấp Giấy chứng nhận cho 45 trường hợp, hiện thành phố Hồ Chí Minh đã
có 5 Văn phòng Thừa phát lại được cấp phép thành lập với hoạt động chủ yếu
là lập vi bằng.
Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, khi mà tỷ lệ án tồn đọng nhiều,
lực lượng cán bộ, chấp hành viên mỏng, chỉ làm việc giờ hành chính thì việc
thực hiện mơ hình thừa phát lại là lựa chọn cần thiết bởi thừa phát lại có thể đi
xác minh điều kiện thi hành án, lập vi bằng...khơng chỉ trong giờ hành chính
mà cả ngồi giờ, ngày nghỉ...Cần đẩy mạnh việc xã hội hóa cơng tác thi hành
án, khơng chỉ thực hiện thí điểm ở thành phố Hồ Chí Minh mà lên sớm nhân
rộng ra các tỉnh, thành khác.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Trong điều kiện hiện nay khi nhà nước ta đang chủ trương cải cách tư
pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện việc hội nhập kinh tế, quốc
tế, khi thực tiễn thi hành án cịn gặp nhiều khó khăn, tỉ lệ án tồn đọng vẫn cao
thì việc đưa ra được một số giải pháp hạn chế án tồn đọng là một việc làm cần
thiết mang tính khách quan.


89


KẾT LUẬN
Công cuộc đổi mới của đất nước ta đang bước sang một giai đoạn mới
có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực hiện mục tiêu hướng tới một
xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cải cách
hoạt động tư pháp là một trong những nội dung của quá trình đổi mới đồng
thời cũng là đòi hỏi đối với năng lực quản lý nhà nước trong việc đảm bảo
cho các lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội phát triển lành mạnh.
Thi hành án dân sự là một trong những hoạt động của Nhà nước, là một
nội dung trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Thi hành án dân sự là một
khâu quan trọng nhằm đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tịa án ra
thi hành trong đời sống xã hội. Tổ chức thi hành án tốt sẽ góp phần thiết thực
vào việc duy trì, giữ vững kỷ cương phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân và Nhà nước, bảo
đảm các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành
trong thực tế. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án, ngay từ
khi mới thành lập nước, Nhà nước ta đã quan tâm đến công tác này. Sau khi
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, cùng với việc thiết lập hệ thống các cơ
quan tư pháp, Bộ Tư pháp và tổ chức thi hành án dân sự cũng được hình thành.
Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước qua các thời kỳ, tổ chức thi hành án
dân sự ở nước ta đã không ngừng được kiện toàn, hoàn thiện và phát triển.
Qua nghiên cứu thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở Thái Bình tác
giả nhận thấy: nhận thức được đúng đắn những quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự là điều kiện quan trọng để áp dụng đúng đắn trong quá trình
thi hành án, sẽ giảm thiểu được án tồn đọng do áp dụng sai các quy định của
pháp luật. Đồng thời, khi nghiên cứu thực tiễn thi hành án ở một địa phương,
đơn vị cụ thể, tìm hiểu được nguyên nhân của việc án tồn đọng hiện nay và

đưa ra được những giải pháp nhằm hạn chế được tỷ lệ án tồn đọng là rất cần
thiết và là một yêu cầu khách quan. Những giải pháp mà tác giả luận văn đưa ra
có thể chưa được tồn diện, nhưng có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn.

90


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Việt Anh (2008), "Để nâng cao chất lượng công tác thi hành án", Tạp chí
Cộng sản, 10(154).
2. Nhật Anh (2010), "Thực tiễn thi hành án dân sự: vẫn nhiều án tồn đọng",
Báo Người đại biểu nhân dân, ngày 16/01.
3. Bộ Tư pháp (1993), Quyết định số 24/QĐ-THA ngày 08/6 về thành lập
Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp Thái Bình, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2005), Quyết định số 739/QĐ-BTP ngày 04/5 về việc thay
đổi tên gọi của cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh, thánh phố trực thuộc
Trung ương, cơ quan Thi hành án huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2005), Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5 về việc
ban hành Quy chế ủy quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương quản lý một số mặt công tác tổ chức cán bộ của
thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thi hành án
dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2008), Quyết định 295/QĐ-BTP ngày 09/6 về việc quy định
cơ cấu tổ chức của Cục Thi hành án dân sự, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2009), Đề cương Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
8. Bounsavad Boupha (2006), "Mơ hình tổ chức thi hành án tại Lào", Hội
thảo quốc tế: Các mơ hình tổ chức thi hành án trên thế giới, Bộ Tư pháp,
Hà Nội.
9. Chính phủ (1993), Nghị định số 30/1993/NĐ-CP ngày 02/6 về tổ chức,

nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân
sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên, Hà Nội.
10. Chính phủ (1993), Chỉ thị 266/TTg ngày 02/6 của Thủ tướng Chính phủ về
triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.

91


11. Chính phủ (1993), Nghị định số 69/CP ngày 18/10 quy định thủ tục thi
hành án dân sự, Hà Nội.
12. Chính phủ (2004), Nghị định số 173/2004/NĐ- CP ngày 30/9 quy định về
thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân
sự, Hà Nội.
13. Chính phủ (2005), Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4 về cơ quan
quản lý thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án
dân sự, Hà Nội.
14. Chính phủ (2009), Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ
tục thi hành án dân sự, Hà Nội.
15. Chính phủ (2009), Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, Hà Nội.
16. Chính phủ (2009) Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7 về tổ chức và
hoạt động Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
17. Chính phủ (2009), Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về cơ
quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công
chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
18. Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (2007), Quyết định về việc thành
lập Phịng chun mơn thuộc Thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình, Hà Nội.

19. Cục Thi hành án dân sự Thái Bình (2009), Báo cáo thành tích khen
thưởng năm 2009 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2010, Thái Bình.
20. Cục Thi hành án dân sự Thái Bình (2009), Báo cáo tổng kết công tác thi
hành án năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010, Thái Bình.
21. Cục Thi hành án dân sự Thái Bình (2010), Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu
năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Thái Bình.

92


22. Cục Thi hành án dân sự Thái Bình (2010), Báo cáo kết quả công tác thi
hành án dân sự năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ công tác thi hành
án năm 2011, Thái Bình.
23. Cục Thống kê Thái Bình (2000), Báo cáo xu hướng biến động dân số và
tác động của nó đến sự phát triển của Thái Bình, Thái Bình.
24. Cục Thống kê Thái Bình (2001), Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình
năm 2000, Thái Bình.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TƯ ngày 24/5 của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày 02/6 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
27. Nguyễn Linh Giang (2010), "Vướng mắc trong việc thu phí thi hành án trên
thực tế, khắc phục và thống nhất thực hiện", Dongnghieptha.ucoz.com,
ngày 10/6.
28. Học viện Tư pháp (2007), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
29. Lintong O. Siahaan (2006), "Thi hành án Hình sự, Dân sự, Hành chính ở
Inđơnêxia", Hội thảo quốc tế: Các mơ hình tổ chức thi hành án trên thế
giới, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

30. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
31. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
32. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội
33. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
34. Thanh tra Sở Tư pháp Thái Bình (2008), Kết luận thanh tra công tác thi
hành án dân sự ở thi hành án các huyện, thành phố, Thái Bình.
35. Dương Văn Thịnh (2010), "Những bất cập trong thực thi luật Thi hành án
dân sự", Báo Người đại biểu nhân dân, ngày 08/7.

93


36. Tịa án nhân dân tỉnh Thái Bình (2010), Báo cáo tổng kết công tác thi đua
năm 2010 của ngành Tịa án Thái Bình, Thái Bình.
37. Tịa án nhân dân tối cao (1972), Quyết định 186/TC ngày 13/10/1972 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
Chấp hành viên, Hà Nội.
38. Tỉnh ủy Thái Bình (1999), Lịch sử Đảng bộ Thái Bình 1927-1954, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
39. "Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự - thực trạng và phương hướng
đổi mới", Thông tin khoa học pháp lý, (8).
40. Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (2010), Báo cáo chi tiết về kết
quả thi hành án dân sự năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010,
Hà Nội.
41. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2004), Thái Bình tiềm năng và đầu tư
phát triển, Thái Bình.
42. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
43. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
44. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.


94


Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one


×