Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thờ mẫu và mã tín ngưỡng thờ mẫu trong văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 10 trang )

THỜ MRU VÀ MÃ TÍN NGƯỠNG THỜ Mồu
TRONG VĂN HỐ VIÌT NRM
Nguyễn Thị Bích Ha

I. Thờ Mẩu trong hệ thống tín ngưỡng Việt Nam
Tín ngưỡng có thể hiểu là niềm tin, sự ngưỡng mộ tuyệt đối với một đối
tượng siêu nhiên nào đó cỏ ảnh hường, chi phổi đến đời sống sinh hoạt của
con người. Tín ngưỡng là niềm tin về những điều linh thiêng, những sức
mạnh huyền bỉ, vĩ đại mà con người chi cảm nhận được mà khó cỏ thể nhận
thức được.
Như vậy, tín ngưỡng là một sản phẩm văn hoá do con người quan hệ
với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành.
Khái niệm tín ngưỡng và tơn giáo có nhiều chỗ gần gũi với nhau vì nó
cùng cỏ nguồn gốc từ lịng tin tuyệt đối vào một đấng cao siêu huyền bí nào
đó, nhưng chúng cũng có nhiều điểm khác nhau. Tơn giáo với tư cách một
giáo lí, giáo pháp chính là sự phát triển một tín ngưỡng, được cộng đồng thể
chế, quy phạm hố cao độ. Mỗi tơn giáo cần có: Một vị giáo chủ đứng đầu
(Chúa Trời, đức Phật Thích Ca, Lão Tử); Một hệ thống giáo lí; Một hệ thống
thể chế, nghi lễ thờ tự và nơi thờ tự; Một hệ thống tổ chức gồm giáo luật
nghiêm chinh, giáo hội với các tín đồ.
Tơn giáo dân gian khơng hẳn là tơn giáo với những thể cách trên, nó
chù yếu mới là sự sùng tín, nó nằm trong tâm thức của con người, trong sinh
hoạt dân dã và được biểu hiện ra chủ yếu trong phong tục tập quán sinh hoạt

* PGS. TS., Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


Thờ Mâu và mã tín ngưỡng thờ Mâu trong văn hóa Việt Nam

741


chứ chưa được thể chế hóa hay trở thành giáo luật. Các nhà nghiên cứu
thường gọi chung đối tượng này là tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian hoặc đôi
khi cũng dùng khái niệm tôn giáo dân gian. Khái niệm tín ngưỡng vì vậy rộng
rãi hơn và dân dã hơn khái niệm tôn giáo mà người ta thường hay nói đến.
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và ngưỡng
mộ của các thế hệ sau đối với tiền thần, tiền nhân. Ngồi những tín ngưỡng
riêng mà mỗi tộc người có thể có khác nhau, tín ngưỡng dân gian Việt Nam
khá phong phú, nó là tâm thức tôn sùng các lực lượng siêu nhiên như:
- Tôn sùng tự nhiên (mặt trời, mặt trăng, nước, mưa, gió, sấm, chóp...)
- Tơn sùng các loại cây trồng (bầu bí, lúa, ngơ, đậu...), vật ni (trâu,
bị, lựn, chó, cừu...)
- Tôn sùng vật tổ (vật tổ chim, cá, cây, trâu...)
- Tơn sùng tổ tiên (quốc tổ, thành hồng, tổ tiên, ông bà)
- Tôn sùng sự sinh sản: sinh thực khí và các hoạt động tính giao
- Tơn sùng Mầu: các nữ thần, các mẫu tam phủ, tứ phủ (thiên phủ, địa
phủ, nhạc phủ, thoải phủ), Bà chúa xứ, Thiên Yana...
- Tôn sùng các anh hùng dân tộc, anh hùng địa phương, người có cơng
lớn với dân với nước: Thánh Gióng, Tản Viên Sơn Thánh, Lý Ông Trọng,
Bà Trưng, Đức thánh Trần, Chừ Đồng Tử...
Từ tâm thức sùng bái đó, trong các cộng đồng hình thành các phong
tục tập quán và nghi lễ thờ cúng tự nhiên, thờ cúng Tổ Tiên, thờ Mẩu và
nghi lễ phồn thực. Đó là những nghi lễ và phong tục rất quen thuộc đối với
người Việt khắp nơi trong cả nước. Mỗi loại tín ngưỡng này đều có nguồn
gốc sâu xa từ quan hệ qua lại giữa con người với các đối tượng siêu nhiên
kia. Chẳng hạn, tại sao con người lại sùng bái tự nhiên? Là bởi trong sinh
hoạt và lao động, hằng ngày hằng giờ tự nhiên gắn bó mật thiết và chi phối
sự thành bại, tốt xấu, hay dở trong hoạt động của con người. Nó nảy sinh sự
sợ hãi hay e ngại, tâm lí ngưỡng mộ hay sùng bái, cũng từ đó con người nhìn
nhận tự nhiên như những đấng linh thiêng, thần thánh. Con người đưa tự
nhiên vào bàn thờ trong các gia đình hay trong miếu điện. Tự nhiên thành

biểu tượng trong tín ngưỡng thờ cúng, trong văn hóa mỗi dần tộc, trong văn
học và nghệ thuật nhiều thời đại. Đó cũng là con đường chung để các tín
ngưỡng thẩm thấu vào văn hóa hay sinh hoạt cộng đồng nhiều dân tộc trên
thế giới mà không phải chi riêng ở Việt Nam.


742

V ăn h ó a th ờ N ữ thấn - mẫu ở V iệ t nam v à c h â u á

Mỗi loại tín ngưỡng trên lại được biểu trưng qua một số mã khác nhau
mà tìm hiểu tín ngưỡng đó thì khơng thể khơng nhìn nhận các mã của nó.
Trước khi tìm mã tín ngưỡng, phải hiểu bản thân tín ngưỡng đó như một
thực thể văn hóa, những biểu hiện cùa nó trong thực hành văn hóa truyền
thống, vị trí của nó trong các hình thức vãn hóa khác nhau như văn học, âm
nhạc, hội họa, nghi lễ...Từ đó mới có cơ sở để đi tìm sự thể hiện nó một
cách sâu sắc hơn. Đặc biệt là với những tín ngưỡng cổ, nhiều khi người ở
thời đại sau chi có thể nắm bắt được nó thơng qua các mã cùa nó, rồi từ đó
mà hiểu được tín ngưỡng của người xưa.
Chúng tơi đã có dịp trình bày vấn đề mã và mã văn hóa trong T/C Văn
hóa dân gian số 1/2006. Trong đó chúng tơi định nghĩa mã văn hóa như sau:
Mã văn hóa (Cultural code) là kết tinh cùa các giá trị văn hoá, là

phần nổi trội nhất, cơ bản nhất, có tính ổn định tương đổi cùa cộng đồng.
Nó biểu hiện ra ngồi bằng các tín hiệu văn hố, biểu tượng văn hố, chìm
sâu bên trong là vơ vàn lớp nghĩa ln địi hỏi giải mã thì mới cỏ thể hiểu
được con người và cộng đồng đó.
Theo quan niệm của chúng tơi, mã văn hóa có mang tính quốc tế, có
những mã được cả thế giới chấp nhận và sử dụng (Chữ thập đỏ là kí hiệu y
tế), nhưng nhiều mã văn hóa là sản phẩm của một cộng đồng dân tộc, được

hình thành và ổn định ừong q trình lịch sử cộng đồng đó chung sức làm ăn
và chiến đấu chống kẻ thù “bốn chân và hai chân”. Vì vậy, nhiều mã văn hóa
chi là tài sản tinh thần của một cộng đồng, chi những cộng đồng nhất định
mới có thể hiểu và lí giải được (v/d: sợi dây lanh của tộc người Mông, Việt
Nam). Chúng tơi chia Mã văn hóa thành 3 loại: kí tín hiệu (huy hiệu, huy
huân chưong, biển báo, đèn hiệu, logo...), biểu tượng và mật mã. Xét về mặt
số lượng, có lẽ kí tín hiệu phong phú nhất, nhưng cũng dễ nhìn nhận và

khám phá nhất. Biểu tượng và mật mã đều có số lượng khá phong phú,
nhưng cũng khó giải mã và khơng thể lí giải một lần là xong. Đặc biệt, mật
mã là những mã văn hóa bí ẩn, Nó cần phải có chìa khố để giải mã và là
cách duy nhất để lí giải được cái không thể nắm bắt bằng cách nào khác. Đổi
với việc nghiên cứu mã văn hố, mật mã q bí ẩn, khó có thể giải mã được
và khơng ai dám nói là có thể giải mã hồn tồn chúng. Tín hiệu kí hiệu thì
đơn giản, giải mã một lần là xong. Biểu tưựng phong phú và có chiều sâu
hon nhiều. Biểu tượng mang ý nghĩa biểu thị hết sức sinh động tạo nên
những liên tưởng hấp dẫn và rộng lớn. Vì vậy, trong vấn đề giải mã văn hố
thì giải mã biểu tượng là phổ biến và có ý nghĩa hơn cả. Thấu hiểu ý nghĩa


Thờ Mâu và mã tín ngưỡng thờ Mâu trong văn hóa Việt Nam

743

của các biểu tượng, nói rộng ra là hiểu được hệ giá trị văn hoá của một dân
tộc được kết tinh lại trong biểu tượng tức là có thể hiểu đến tận cùng con
người và dân tộc ấy.
Tín ngưỡng là một thành tố trong nhiều thành tố cấu thành chỉnh thể
văn hóa một cộng đồng, trong đó, mỗi ioại tín ngưỡng lại có một số mã tín
ngưỡng tương ứng (những biểu tượng của văn hóa tín ngưỡng) mà giải mã

tín ngưỡng là một thao tác khoa học thực sự lí thú và mang lại nhiều hữu ích
trong nghiên cứu văn hóa cộng đồng đó.

II. Thờ Mẩu, tín ngưỡng bản địa đặc sắc của Việt Nam
Trong tín ngưỡng dân gian cùa một số dân tộc phuơng Đông và
phương Tây đều có tín ngưỡng trọng mẫu, đề cao, suy tơn nữ tính và người
mẹ. Tín ngưỡng đó bắt nguồn từ chế độ nguyên thuỷ với những thị tộc mà
người đứng đầu là phụ nữ, người chia thức ăn, người sinh sản và nuôi lớn
cộng đồng trong cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Với người Việt Nam, tinh thần trọng Mau đã trở thành một tín ngưỡng
và được thể hiện ra qua một số phong tục khác nhau ở nhiều địa phương.
Điều đó ngồi ý nghĩa chung với các dân tộc cùng có tín ngưỡng này, cịn có
ngun nhân từ lịch sử đặc biệt của Việt Nam. Truyền thống trọng mẫu của
Việt Nam có nguồn gốc từ chính vai trị to lớn của người phụ nữ trong lịch
sử hình thành và phát triển cộng động. Xã hội nguyên thủy được duy trì khá
dài ừên mảnh đất này. Trong xã hội đó, thường vai trị lớn nhất là những
người phụ nữ. Vì vậy mà trong tiếng thuần Việt, những gì to lớn nhất, quan
trọng nhất thường được gắn với từ “cái” với ý nghĩa là mẹ, là phụ nữ: Sông
cái, cột cái, cổng cái, đường cái, thúng cái, đũa cái... Tự nhiên trong con mắt
người Việt cổ cũng do chính những người phụ nữ, người mẹ sản sinh và chỉ
phối. Mặt ừời, mặt trăng, núi, đất, nuớc... đều do những người phụ nữ làm
chủ. Cho nên, trong quan niệm của người Việt, tín ngưỡng của họ trước hết
là sự tôn sùng đối với những người phụ nữ, các nữ thần tự nhiên như nữ thần
Mặt Trời, nữ thần Mặt Trăng, mẫu Thiên, mẫu Địa, mẫu Thoải... Người
Việt Nam gọi các nữ thần tự nhiên là Mầu - Mẹ với niềm tơn kính và tin
tưởng rằng các Mầu sẽ che chở cho những đứa con mình khỏi mọi tai hoạ do
thiên nhiên gây ra. Thiên nhiên chủ yếu của người Việt, cũng là thiên nhiên
tác động to lớn nhất đến đời sống lao động sản xuất và sinh hoạt của cư dân
Việt cổ là mưa, nắng, từ đó sinh ra hạn, lụt. Vậy nên, các thần tự nhiên xa
xưa không chỉ là nữ thần mà chức năng của họ luôn là làm mưa hay làm



744

V a n hóa thờ N ữ thán - MẪU ở VlỆT NAM VẢ CHÂU A

nắng, gây hạn hay làm ra lụt lội. Bà Mây (Pháp Vân), bà Mưa (Pháp Vũ), bà
Sấm (Pháp Lôi), bà Chớp (Pháp Điện), mang những chức năng chi phối
thiên nhiên nắng lắm mưa nhiều kia. Các thần mẫu tự nhiên khi bắt gặp Đạo
Giáo thần tiên mới được kết nạp vào tòa thánh, vào điện thờ để trờ thành Tam
toà thánh mẫu, Tứ phủ thánh linh. Đó là những tên gọi quen thuộc người Việt
dùng để gọi các nữ thần tự nhiên trong hình dung vũ trụ rộng lớn: Mầu Thiên
phủ (nữ thần coi sóc chín tầng trời), Mau Nhạc phù (nữ thần rừng núi), Mầu
Thoải phủ (nữ thần sông biển), Mầu Địa phủ (nữ thần đất đai).
Rồi từ các nữ thần tự nhiên, niềm tín ngưỡng ấy lan toả đến các thần
nơng nghiệp như Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Nành, Mẹ Lúa, Mẹ Chè, mẹ Mía, mẹ
Khoai... với niềm tin tưởng rằng nữ tính chính là đặc tính tối ưu đối với mùa
màng và sự sinh sản của cây cối, chì có các nữ thần cai quản cây cối thì mùa
màng mới bội thu. Người nơng dân Việt Nam thường trìu mến và sùng kính
gọi tên các cây trồng quen thuộc, phổ biến và tối quan trọng của mình là
“mẹ” chính là xuất phát từ niềm tín ngưỡng đó.
Rồi từ các bà mẹ nơng nghiệp, niềm tin ấy lại lan toả đến các bà mẹ
lịch sử. Ở vị trí địa lí tự nhiên khá đặc biệt “cuối nguồn sông, đầu nguồn
biển”, là dấu nối quan trọng giữa biển và lục địa, nên lịch sử Việt Nam gắn
liền với lịch sử chống ngoại xâm. “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, những
người phụ nữ bình thường khi đất nước có giặc giã binh đao, được khoác lên
vai chức năng coi kho, giữ lẫm, trở thành các bà Chúa Kho, Chúa Lẩm,...
các bà mẹ thần thánh tham gia chống ngoại xâm giữ nước bằng chức năng
đầy nữ tính của mình. Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Nam, Thanh Hóa,
Hà Tĩnh đều có truyền thuyết về những người phụ nữ, người mẹ giữ kho và

cung cấp hậu cần cho quân đội trong thời chiến. Hon nữa, các bà chúa kho,
chúa lẫm ngày xa xưa ấy, đến nay vẫn tiếp tục trợ giúp các thế hệ cháu con
làm ãn, tăng tài tăng lộc. Của kho dường như là vơ tận, các mẫu khi thì cho
vay, khi thì ban phát tiền của dồi dào cho con cháu. Đầu năm mới, đầu mùa
làm ăn, ai ai cũng đến xin lộc rơi lộc vãi của các bà chúa, các mẫu cũng rộng
rãi chia tài phát lộc khiến đền các bà chúa kho ờ Việt Nam đầu năm luôn tấp
nập đông vui.
Các mẫu nhân thần dần dần đã bước chân vào điện mẫu, ngồi cùng
hoặc hóa thân vào các nhiên thần, khiến cho điện mẫu Việt Nam ngày càng
phong phú. Các Quốc Mầu, Vương Mau... những người phụ nữ Việt Nam có
vai trị to lớn và có cơng trạng hiển hách trong lịch sử dựng nước và giữ
nước như Linh Nhân Quốc Mầu Ỷ Lan, Linh Từ Quốc Mau Trần Thị Dung


Thờ Mâu và mã tín ngưỡng thờ Mâu trong văn hóa Việt Nam

745

là những người phụ nữ có thực trong lịch sử đã trở thành các quốc mẫu được
mọi người tơn vinh. Hệ thống tín ngưỡng thờ nữ thần vì vậy càng ngày càng
trở nên phong phú. Đen, phủ thờ các Mầu trải khắp các vùng trên đất Việt
Nam. Bên cạnh các đền phù thờ riêng các mẫu, Mẩu còn được phối thờ trong
đền “tiền Thần, hậu Mầu” hay trong chùa “tiền Phật, hậu Mầu” mà trong
nghi thức thờ tự ở các dân tộc khác trong khu vực không thấy có. Đó là nét
đặc sắc, độc đáo của tín ngưỡng thờ Mầu Việt Nam.

III. Một số mã tín ngưỡng thờ Mẩu trong văn hóa Việt Nam
Hiện nay, ngịai một số đền phủ thờ các quốc mẫu hay thánh mẫu như
mẫu Âu Cơ, mẫu Ỷ Lan, mẫu Thiều Hoa...là các mẫu có danh vị và lai lịch
cụ thể, thì các đền chùa Việt Nam đều phối thờ các mẫu Tam phủ, Tứ phủ,

các mẫu biểu trưng cho thế giới tự nhiên linh thiêng và rộng lớn. Tín ngưỡng
này lại được biểu hiện ra bên ngoài bằng một số mã đặc thù của nó mà cứ
nơi nào thờ mẫu là có thể thấy sự hiển hiện của các mã này. Mã tín ngưỡng
thờ mẫu là loại mã văn hóa đặc thù, chỉ liên quan và thể hiện ở tín ngưỡng
thờ mẫu. Khi giải mã tín ngưỡng thờ mẫu Việt Nam, chúng tơi quan tâm đến
những mã này. Tuy nhiên, trong nghi thức thờ mẫu chúng tơi đã quan sát
nhưng cũng chưa lí giải được tồn bộ những tín hiệu hay biểu tượng của nó,
một số mã này chúng tơi cũng xin khất lại sau.
Trước hết, chúng tôi coi trang phục như một mã văn hóa được biểu
trưng trong nghi thức thờ mẫu. Nhìn vào một ban thờ mẫu có ba hoặc bốn vị
thánh mẫu được thờ ở vị trí cao nhất, ta biết đó là ban thờ Tam phủ hay Tứ
phù. Hơn nữa, dù vị tri của các mẫu được sắp xếp như thế nào thì qua màu
sắc trang phục của các mẫu ta có thể nhận biết ngay đó là thánh mẫu nào.
Mau đệ nhất (mẫu thiên phủ) thường ngồi ở chính giữa, trang phục màu đỏ
tượng trưng cho thế giới bên trên, cho quyền lực và sự oai nghi. Mầu đệ nhị
(mẫu nhạc phủ) thường ngồi ở bên phải mẫu đệ nhất, từ ngồi nhìn vào thì
mẫu ờ bên trái của ban thờ. Trang phục của mẫu màu xanh, tượng trưng cho
miền rừng núi, cho 81 cửa rừng mà mẫu cai quản, màu của cây cối xanh
tươi. Mầu đệ tam (mẫu thoải phủ) ngồi ờ bên trái mẫu đệ nhất, trang phục
màu trắng, biểu tượng cho nước, cho sự trong sạch, tinh khiết cùa thế giới
thủy phủ, vùng nước sông biển. Mau Địa thường ngồi ờ phía trước và thấp
hơn mẫu Thiên một chút. Mẩu mặc áo mầu vàng, màu tượng trưng cho đất
đai. Nhiều nơi thường chỉ thờ mẫu tam phủ, ít thờ tứ phủ. Dưới hàng tam
mẫu là hàng các quan lớn, các chầu bà, ơng hồng, cơ, cậu. Màu sắc trong


746

V an hóa th ờ Nữ thắn - MẪU ở V iệt NAM VÀ CHÂU A


trang phục của các chầu bà, các quan lớn, các ơng hồng, các cơ, các cậu
cũng tùy vào vai trò của các vị theo hầu mẫu nào mà có màu sắc tương tự
mẫu ấy.

Mầu Tam phù
Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, các tác giả đã trích dẫn khá
nhiều quan niệm của các dân tộc khác nhau trên thế giới về biểu tượng màu
sắc, và nhiều quan niệm trong đó trái ngược nhau. Nhưng tất cả đều chứng
minh một điều rằng, từ xa xưa, các màu sắc khác nhau của vũ trụ đều được
các dân tộc quan tâm và nó mang những biếu trưng khác nhau đối với mỗi
dân tộc đó1. Màu sắc trong trang phục tủ a các mẫu và các hầu cận mang
quan niệm về màu sắc của người Việt khá rõ, nó khơng bị phụ thuộc vào
quan niệm màu sắc của Trung Hoa mà người ta thường lấy để so sánh. Theo
quan niệm ngũ hành (Trung Hoa) thì hành thủy (nước) có màu đen, thủy chủ

I. Jean Chevalier &. Aỉain Gheerbrant. Từ điên biêu tượng
Nằng.&Trường Viết văn Nguyền Du. 1997, tr. 561 - 567.

vân hỏa thể giới.

Nxb Đà


Thờ Mâu và mã tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam

747

phương Bắc, vì vậy biểu tượng cho phương Bắc cũng là màu đen. Cịn hành
kim (kim loại) có màu trắng, kim chủ hướng Tây, vì vậy biểu tượng của
hướng Tây cũng màu trắng. Người Việt quan niệm nước biểu tượng cho sự

thanh sạch, trong trẻo, tinh khiết, vì vậy nước có màu trắng và mẫu Thoải, chù
về nước ln có trang phục màu trắng. Mầu nhạc phủ coi sóc vùng rừng núi,
mà rừng núi thì cây cổi xum xuê, xanh tốt nên trang phục của mẫu không thể
không là màu xanh, màu của tự nhiên rừng núi quen thuộc Việt Nam. Mầu
thiên phủ là mẫu đệ nhất trong các mẫu, mẫu cai quản thế giới bèn trên, gần
với vầng mặt trời đỏ rực rõ, mẫu cũng tượng trưng cho sức mạnh và quyền
lực, vậy nên màu đỏ là quan niệm về màu sắc gắn liền với mẫu.
Vai ừò nổi bật và đặc thù của người phụ nữ, của các Mầu là sinh sản
và nuôi dưỡng con người và mn vật. Vì vậy, tín ngưỡng thờ Mau thường
được thể hiện qua các mã thờ hang và thờ trứng, về mã hang động. Có thể
thấy rằng, lịng hang bí ẩn, tăm tối, ẩm ướt là biểu tượng cái tử cung của
người đàn bà, từ đó mn vật được sản sinh. Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới cũng viết: “Hang là mẫu gốc cùa hình ảnh từ cung người mẹ, hang hiện

diện trong những huyền thoại về sự phát sinh, phục sinh và khai tâm... thụ
pháp cùa nhiều dân t ộ c Người ta còn gọi cái tử cung của người phụ nữ là
“huyền tẫn” với ý nghĩa cái hang tăm tối. Các Mầu thường được thờ trong
hang động hoặc việc thờ cúng có liên quan đến hang động với ý nghĩa này.
Động Hương Tích thờ bà chúa Ba, đền hang (đền thượng) ở Suối Mỡ, Lục
Nam, Bắc Giang thờ Mẩu Thượng Ngàn, động Thiên Hương (trong hệ thống
Tam Cốc Bích Động, Ninh Bình) thờ Linh Từ Quốc Mau Trần Thị Dung, đền
Cùi (thuộc núi Ngũ Mã, Nghi Xuân, Nghệ Tĩnh) thờ Mau Liễu Hạnh... đó là
những nơi thờ Mầu nổi tiếng của người Việt. Ở nhiều điện thờ Mầu tại các
chùa, phủ, dù không phải là các hang động thiên tạo, song nghệ sỹ dân gian
cũng tạo hình lịng hang tại các nơi đó, dường như để hồi cố những hang động
là nơi thờ Mầu quen thuộc. Mã Lòng Hang chính vì vậy mang quan niệm
tương đồng này và chính là một biểu hiện của tín ngưỡng sùng Mầu.
Một trong những mã cùa tín ngưỡng dân gian là biểu tượng trứng. Nó
là một mã của tín ngưỡng sùng Mầu. Nhiều dân tộc trên thế giới quan niệm
quả trứng là mẫu gốc, từ đó sinh ra vũ trụ, trời đất và mn vật. Ở Việt Nam

ta, hình tượng quả trứng Điếng của tộc người Mường cũng mang ý nghĩa ấy.
Họ lí giải con người (hoặc con người của một dân tộc cụ thể nào đó) được

1. Jean Chevalier, Alain Gheebrant. Từ điển biểu tượng vân hóa thế giới. Nxb Đà Nằng &
Trường Viết văn Nguyễn Du. 1997. tr. 380.


748

Vần Hóa thờ NữTHẤN - MẪU ở VlỆT NAM VÀ CHÂU Á

sinh ra từ trứng, hoặc được người mẹ thần linh sinh ra trứng rồi từ trứng đó
nở ra con. Rồi khi chết đi họ lại đi “xin đuông, chuộc số” để mong được trở
về với hình hài vật tổ, về với hình hài trứng mà từ đó họ sinh ra. v ề mã
trứng, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới có viết “77« rằng thế giới sinh ra

từ một quả trứng là một ý tưởng chung cùa người Seltes, người Hy Lạp,
người Ai Cập, người Ân Độ, người Việt Nam, người Trung Quốc, người
Nhật Bản...”.1 Chức năng đặc biệt của người phụ nữ không thể ai thay thế là
sinh đẻ con cái. Trong thần thoại của người Việt và một số dân tộc thiểu sổ
thì người phụ nữ, người mẹ thủy tổ của cộng đồng không sinh trực tiếp ra
con người mà sinh ra trứng, rồi từ trứng nở ra con. Mẹ Âu Cơ (Việt) sinh
một bọc trăm trứng, nở ừăm con; Chim Ây Cái ứ a (Mường) sinh trăm trứng,
99 trứng nờ ra muôn vật, một cái trứng đặc biệt nở ra con người... như vậy,
trứng mang biểu tượng của sự sinh nở và cả sự tái sinh con người. Cúng
trứng vì vậy mang cả sự tơn sùng sinh sản và tái sinh. Cho nên chúng tôi cho
rằng, biểu tượng bộ ba: bát com - đôi đũa bông - quả trứng không thể thiếu
trên nắp quan tài người chết của tộc người Việt không phải chi là đồ ăn cho
người mới mất khỏi đói (vì cịn có nhiều món ăn thịnh soạn hơn), mà đó
chính là biểu tượng thiêng liêng mang ý nghĩa tinh thần, đưa người thân dời

khỏi thế giới ừần gian, về với tổ tiên, trờ lại hình hài trứng như vật tổ. Bát
cơm úp chồng cao, hình vịng cung, màu trắng như bầu trời; đôi đũa nhiều
tầng bông như những lớp mây bay (tương truyền, trước đây vót đũa bơng
phải chọn người khéo tay vót đù 9 tầng bơng mới được), qủa trứng như
nguồn sống, nguồn phát sinh hay hình hài vật tổ từ đó con người sinh ra hay
mong muốn trở về. Vậy là dường như ta rõ hơn rằng, tín ngưỡng của mỗi
dân tộc đều được biểu hiện trong các mã khác nhau, gắn với sinh hoạt và
quan niệm của dân tộc đó... Trứng có hình trịn, có màu trắng, những chiếc
bánh trơi nước cũng có hình trịn, màu trắng như hình những quả trứng, vì
vậy, ừong nhiều lễ hội tưởng niệm các Mầu, người dân thường dâng cúng
bánh ứơi và bí mật thả bánh trôi xuống hang hay xuống giếng để tưởng niệm
về sự sinh sản của các Mầu. Chẳng hạn, Vì mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trứng, nở
trăm con nên trong ngày hội tưởng nhớ Cha Rồng - Mẹ Âu ở Bình Đà, Hà
Tây (cũ) dân làng có tục hèm làm bánh trơi rồi bí mật mang thả một số bánh
nhất định xuống giếng làng vào đêm trước hội. Tuy nhiên, khơng phải ai ở
làng Bình Đà hiện nay cũng đều biết đến hình thức thả bánh mang ý nghĩa
biểu tượng và sự hồi cố trên; Lễ cúng và thả bánh trôi vào rạng sáng ngày 6
tháng 3 âm lịch ở làng Hát Môn, Hà Tây (nơi mà theo truyền thuyết Hai Bà
1. Sđd, tr. 961.


Thờ Mau và mã tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam

749

Trưng đã tuẫn tiết ở đây). Truyền thuyết kể, trước khi tuẫn tiết vào ngày 6
tháng 3, Hai Bà đã ăn bánh trôi. Để tưởng niệm Hai Bà và hồi cố việc ăn
bánh, hồi cố xa hơn về sự sinh sản của Mau nên vào đêm trước hội, đêm
mồng 6 tháng 3 dần làng đã tổ chức làm và thả bánh. Cũng vì thế mà cả
nước có tục ăn bánh trôi vào ngày tết thanh minh mồng 3 tháng 3 âm lịch, thì

tại làng Hát Mơn hiện nay, dân làng chỉ bắt đầu ăn bánh trôi vào ngày 6
tháng 3 âm, sau khi đã dâng bánh và thả bánh tưởng niệm Mau Trumg Trắc,
Trưng Nhị xuống ao làng.
Tín ngưỡng thờ mẫu ờ Việt Nam có nguồn gốc từ xa xưa, đến nay vẫn
đang tồn tại và phát triển. Các tín đồ sùng mẫu ngày càng nhiều, các vấn đề
có Hên quan đến đạo mẫu ngày càng được nghiên cứu, mổ xẻ, đánh giá và
dường như càng gần với hiện thực hơn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề thuộc nội
hàm của đạo mẫu vẫn chưa được khai thác hết, chưa được lí giải cặn kẽ và
hợp lí. Chẳng hạn, tại sao ở Việt Nam đạo Mau lại liên quan đến tục lên
đồng? Tại sao tục thờ ngũ hổ hay ông lốt lại thờ trong điện Mầu mà không
phải ở những thờ tự khác cùa người Việt? Những tín hiệu văn hóa đó cịn ẩn
chứa điều gì?... Do thời gian diễn ra quá dài, lại trải qua nhiều sự kiện lịch sử
và sinh hoạt quan trọng được đan xen, lồng cài vào nhau; Do các mã vãn hóa
chuyển di từ thế hệ trước cho thế hệ sau bị thất truyền; Do con người cố tình
hiểu lại những vổn cổ để phục vụ mục đích nào đó trước mắt... kết quả là
nhiều tín ngưỡng mất đi sự thuần nhất, nhiều mã tín ngưỡng đã bị khúc xạ và
biến tướng đi, khiến việc giải mã nó khơng đơn giản. Điều đó đã thúc đẩy
chúng tơi tiếp tục quan tâm tìm hiểu về vấn đề tín ngưỡng và mã tín ngưỡng
thờ Mẩu trong thời gian tới.



×