Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quản lý tài nguyên ven biển và vấn đề xóa đói giảm nghèo trong các cộng đồng nghề cá ở tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.74 KB, 12 trang )

QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VEN BIỂN VÀ VẤN ĐỀ
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG CÁC CỘNG ĐỒNG
NGHỀ CÁ Ở TỈNH KHÁNH HÒA1
GS. TS Đỗ Thị Minh Đức
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

1. Đặt vấn đề
Quản lí tài nguyên ven biển là cơ sở để phát triển bền vững và góp phần
giải quyết những vấn đề xã hội của lãnh thổ. Nếu quản lí tài ngun khơng
tốt có thể gây ra những xung đột trong sử dụng tài nguyên và phát triển lên
thành xung đột trong xã hội. Ở dải ven biển có những hệ sinh thái cho năng
suất cao, đa dạng nhưng cũng rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Đây lại là
nơi tập trung đông dân cư, và các hoạt động kinh tế đa dạng. Trong điều
kiện phát triển nền kinh tế mở và khả năng chinh phục biển ngày càng lớn,
đây là khu vực đang thu hút rất mạnh đầu tư, cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ
nét, ngày càng phức tạp, nền kinh tế phát triển năng động nhưng cũng tiềm
ẩn những yếu tố không chắc chắn; chính vì vậy vấn đề quản lí tổng hợp tài
nguyên dải ven biển đang được đặc biệt quan tâm trên thế giới và ở nước ta.
Ở Việt Nam, tỉ lệ đói nghèo ở dải ven biển thấp hơn so với vùng núi
nhưng do tập trung đông dân cư nên đây lại là nơi tập trung số người
nghèo. Mặt khác trong thực tiễn, nhiều khi sự phát triển nhanh của kinh tế
lại làm tăng sự bất bình đẳng xã hội. Hơn nữa, vấn đề nghèo đói trong các
cộng đồng nghề cá lại có màu sắc riêng. Tình trạng nghèo đói của ngư dân
sẽ ảnh hưởng rất xấu tới việc khai thác tài nguyên biển, nhất là vùng nước
ven bờ. Vì vậy trong bài báo này, chúng tơi sẽ phân tích những vấn đề về
1 Bài báo này được phát triển từ báo cáo khoa học mà tác giả đã trình bày tại Hội thảo
Địa lí quốc tế (Brisbane, Australia, 6/2006). Đây là kết quả nghiên cứu của tác giả trong
khuôn khổ Dự án nghiên cứu chung giữa ĐHSP Hà Nội và Viện nghiên cứu đô thị
và vùng Nauy (NIBR) “Sự phát triển vùng, quản lí tài nguyên ven biển và việc xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam”.


| 549


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

quản lí tài ngun biển và vấn đề xóa đói giảm nghèo của cộng đồng nghề
cá qua nghiên cứu nhiều năm ở tỉnh Khánh Hòa.

2. Khung lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu này
Nghề cá gắn liền với việc khai thác nguồn lợi sinh vật biển. Vấn đề nghèo
đói trong cộng đồng nghề cá gắn bó chặt chẽ với các đặc điểm của nghề khai
thác cá biển, đặc điểm nguồn lợi, điều kiện khai thác, các rủi ro có thể gặp
phải do thiên tai, những hạn chế do thiếu nguồn lực (nhân lực, tài chính, kĩ
thuật), sức ép cạnh tranh của các hoạt động kinh tế khác có liên quan đến
khai thác tài nguyên biển. Việc nâng cao hiệu quả kinh tế nghề cá và tạo ra
các sinh kế thay thế cho ngư dân gắn liền với việc nâng cao hiệu quả khai thác
nguồn lợi, khắc phục những khó khăn về tự nhiên và hạn chế về kinh tế - xã
hội. Vì vậy, khung lí thuyết về nghiên cứu quản lí tài ngun ven biển và vấn
đề nghèo đói trong cộng đồng nghề cá có thể sử dụng quan điểm tương tự
như trong mơ hình DPSIR1. Mơ hình DPSIR được Cơ quan môi trường châu
Âu (EEA) chấp nhận làm khung lí thuyết nhân quả để nghiên cứu mối quan
hệ qua lại giữa xã hội và môi trường, nhờ thế mô hình này được phát triển để
nghiên cứu các vấn đề phức tạp liên quan đến quản lí tổng hợp tài nguyên.
Chúng tôi đã thử phác họa quan điểm này trong nghiên cứu vấn đề nghèo
đói ở cộng đồng nghề cá và quản lí tài nguyên. Do tính chất biện chứng trong
quan hệ giữa các hợp phần của hệ thống, nên những mối quan hệ, tác động
qua lại này làm cho hệ thống không ngừng biến đổi, và xã hội phải khơng
ngừng tìm ra các sự ứng xử thơng minh và phù hợp.
Trong địa lí kinh tế - xã hội, các nhà địa lí Xơ Viết trước đây đã phát
triển các chuỗi (các chu trình) sản xuất - năng lượng (N.N. Koloxovsky, Yu.G.

Xauskin, A.T. Khrutsov...) và các “cây nguyên liệu”. Các mơ hình này đã mơ
tả được các hình thức tổ chức sản xuất trên quan điểm sử dụng tổng hợp tài
nguyên và dựa trên những công nghệ xác định. Gần đây, nhằm nghiên cứu
việc quản lí nghề cá tổng hợp, các chuyên gia của mạng lưới Quản lí nghề cá
(FISHGOVNET) do Trung tâm Nghiên cứu biển (MARE) của Hà Lan làm cơ
quan điều phối đã sử dụng quan niệm Chuỗi thủy sản (Fish chain) để mơ tả
ba mắt xích lớn (ba tiểu hệ thống) tương ứng với ba pha chuyển dịch của sản
phẩm nghề cá từ hệ sinh thái thủy sinh đến bàn ăn của người tiêu dùng (xem
hình 2). Quan niệm này có phần nào gần gũi với quan niệm của các nhà địa lí
Xơ Viết đã nêu ở trên, nhưng nhấn mạnh quan hệ giữa hệ sinh thái, sản xuất,
phân phối và tiêu thụ thuỷ sản, cả trong đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
1 DPSIR: Driving Forces, Pressure, State, Impacts, Responses, dịch là: Lực tác động, Áp
lực, Hiện trạng, Tác động và sự ứng xử của xã hội.

550 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Hình 1. Mơ hình DPSIR áp dụng cho nghiên cứu vấn đề
quản lí tài ngun và nghèo đói ở cộng đồng nghề cá
Lực tác động (D)
(về mặt) Môi trường
(về mặt) Nhân khẩu học
Đầu tư
Cạnh tranh từ các hoạt động
kinh tế khác

Sự ứng xử của xã hội (R)
Quy hoạch

Kế hoạch hóa gia đình
Chính sách đầu tư
Các chương trình tạo việc làm

Áp lực (P)
Các lựa chọn về sinh kế
Mức sống
Lợi nhuận từ nghề cá
Sự chuyển cư của con người

Hiện trạng (S)
Đội tàu cá và ngư cụ
Nuôi trồng thủy sản (nuôi lồng
bè, ao đầm)
Thu nhập của hộ gia đình
Các vấn đề phát triển xã hội

Tác động (hậu quả) (I)
Đánh bắt quá mức
Sự suy thoái và ơ nhiễm mơi trường
Nghèo đói

Hình 2. Chuỗi thủy sản [3] với các mắt xích lớn

Mỗi một mắt xích của hệ thống là một hệ thống con, có đặc tính và quy
luật hoạt động riêng. Nhưng ở bất cứ hệ thống con nào, ta đều thấy sự hiện
diện của con người và sự can thiệp của con người. Chính các quan hệ xã hội
quy định quan hệ của con người với tự nhiên và con người với con người.
Các tác giả của “chuỗi thủy sản” cho rằng ở đây, mối quan tâm chính là sức
khỏe hệ sinh thái, cơng bằng xã hội, sinh kế và việc làm, an ninh thực phẩm

và an tồn thực phẩm. Như vậy, chúng ta có thể áp dụng khung lí thuyết

| 551


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

này trong nghiên cứu các vấn đề đói nghèo ở các cộng đồng nghề cá và việc
quản lí tổng hợp tài nguyên.

3. Phân tích vấn đề quản lí tổng hợp tài nguyên vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa
Khánh Hòa là tỉnh có thế mạnh nổi bật về kinh tế biển. Do có các mạch
núi ăn lan ra biển, nên từ phía Bắc xuống phía Nam, có các bán đảo và các
đảo ven bờ chắn gió, tạo nên các vũng vịnh như Vịnh Vân Phong, Đầm
Nha Phu, Vịnh Nha Trang, Vịnh Cam Ranh(1). Khánh Hồ có thềm lục địa
và vùng lãnh hải rộng lớn với gần 40 đảo lớn nhỏ nằm rải rác trên biển,
trong đó có quần đảo Trường Sa. Đây là những địa bàn rất thuận lợi cho sự
tập trung các hoạt động kinh tế như du lịch biển, nuôi hải sản nước mặn
(ni biển), đóng tàu, cảng biển. Những bãi biển tốt cho phát triển du lịch
như bãi biển Đại Lãnh, Dốc Lết, Đầm Môn, Bãi Tiên, Bãi Sạn, bãi Dài Cam
Ranh. Có 8 cửa sơng, cửa lạch thuận lợi cho neo đậu các tàu thuyền đánh
cá và phân bố các làng cá, các khu vực dịch vụ hậu cần nghề cá.
Khí hậu Khánh Hịa mang đặc điểm tiêu biểu của khí hậu Nam Trung
Bộ, rất thuận lợi cho phát triển du lịch, nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, Khánh
Hòa rất hiếm khi bị bão đổ bộ vào đất liền.
Tài nguyên biển - tiền đề cho việc khai thác và nuôi trồng thủy sản rất
dễ bị cạn kiệt, ô nhiễm và thường bị cạnh tranh (mâu thuẫn) với các mục
đích khai thác kinh tế khác như du lịch, phát triển đơ thị, cảng biển, khai
thác khống sản... Điều này rất rõ ở Khánh Hịa.
Dân số của Khánh Hồ năm 2006 là 1135 nghìn người, mật độ dân

số trung bình tồn tỉnh là 218 người/km2. Dân số phân bố khơng đều, tập
trung chủ yếu ở một dải hẹp ven biển, nhất là ở thành phố Nha Trang và
thị xã Cam Ranh (gần 50% dân số). Trong mấy chục năm trở lại đây, Khánh
Hòa - đặc biệt là Thành phố Nha Trang và vùng phụ cận - là địa bàn thu
hút dân nhập cư. Trong các cộng đồng nghề cá, những người nhập cư đến
từ các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên và họ đã sớm hòa đồng vào
với cộng đồng người địa phương. Trong những năm gần đây, một bộ phận
ngư dân nghèo từ các tỉnh Bắc Trung Bộ di chuyển đến Khánh Hòa làm
thuê cho các chủ tàu.
Khánh Hòa trong những năm gần đây là địa bàn thu hút mạnh đầu tư
1 Tính từ Bắc xuống Nam, theo đường chim bay, thì bờ biển Khánh Hịa là 116 km,
nhưng do bờ biển khúc khuỷu, nên chiều dài bờ biển thực tế là 385 km.

552 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

nước ngoài và các nguồn đầu tư trong nước. Tỉnh Khánh Hòa đang từng
bước thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2020 [7]. Nhà máy đóng tàu Hyundai-Vinashin ở bán đào Hịn Khói, ở TX
Cam Ranh, các dự án phát triển du lịch ở vùng vịnh Nha Trang, đặc biệt là
khu du lịch VinPearl (trên đảo Hòn Tre), dự án xây dựng cảng Đầm Môn
ở vịnh Vân Phong. Các dự án lớn xây dựng các nhà máy đóng tàu đã làm
mất đi các diện tích lớn đầm ni tơm và sự hoạt động của các nhà máy
đóng tàu cịn đe dọa gây ơ nhiễm môi trường nước, môi trường đất và ảnh
hưởng xấu đến nghề nuôi (cả nuôi đầm và nuôi lồng bè trên biển). Việc
phát triển du lịch đi đôi với bảo tồn vẻ đẹp vịnh Nha Trang đã buộc 800
lồng nuôi tôm hùm ở Vũng Me phải di dời; các ngư dân khơng được đánh
cá ở khu vực Hịn Mun, nơi xây dựng khu bảo tồn biển, trước đây là ngư

trường chính của ngư dân các đảo quanh đó. Việc quy hoạch lại thành phố
Nha Trang cũng đã dẫn đến sự di chuyển hàng trăm gia đình ở Xóm Bóng
(phía Bắc thành phố) xuống khu Hịn Rớ (phường Vĩnh Trường, phía Nam
thành phố). Cư dân Hòn Tre cũng phải chuyển đi các địa phương khác và
phần đông trong số họ cũng phải chuyển đổi nghề nghiệp.
Đặc điểm tài nguyên biển, điều kiện đánh bắt và nuôi trồng thủy sản,
các cộng đồng nghề cá với các truyền thống và tập quán được hình thành
và biến đổi trong thời gian dài, những tác động mạnh mẽ nhưng rõ nét
trong tổ chức sản xuất của nghề cá, từ sau khi các HTX nghề cá kiểu cũ bị
tan rã (cuối thập kỉ 80 của thế kỉ trước) và sự phát triển của kinh tế tư nhân,
vai trò của thị trường xuất khẩu thủy sản..., tất cả đã và đang tạo ra “chuỗi
thủy sản” mới của nghề cá Khánh Hịa.

4. Thực trạng đói nghèo và việc tạo sinh kế mới ở các cộng đồng nghề cá tỉnh
Khánh Hòa
4.1 Bức tranh chung:
Khánh Hòa là một tỉnh đã thực hiện rất có hiệu quả Chương trình
mục tiêu xóa đói giảm nghèo 2001 - 2005. Theo đánh giá của UBND tỉnh
Khánh Hòa [10] tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 11,14% đầu năm 2001 xuống còn
2,94% cuối năm 2004 (dự kiến đến cuối năm 2005 xuống còn dưới 1,5%).
Tuy nhiên, theo đánh giá của báo cáo này, thì các chuẩn nghèo cũ là thấp
so với thực tế và các hộ mới “thốt chuẩn nghèo” chứ chưa thực sự thốt
nghèo. Chính vì vậy, sau khi Nhà nước xác định chuẩn nghèo mới cho giai

| 553


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

đoạn 2006 - 20101, tỉnh Khánh Hòa đã đề xuất chuẩn nghèo riêng của tỉnh2.

Bảng 1. Số hộ nghèo và tỉ lệ nghèo theo chuẩn mới của quốc gia
và chuẩn của tỉnh Khánh Hòa (thời điểm điều tra 1/1/2005)
Chuẩn nghèo mới quốc gia
Đơn vị hành chính

TỒN TỈNH

Tổng số hộ Số hộ nghèo

Tỷ lệ %

Chuẩn nghèo tỉnh
Số hộ nghèo

Tỷ lệ %

216.891

32.954

15,19

38.874

17,92

TP Nha Trang

66.034


6.303

9,55

8.527

12,91

TX Cam Ranh

43.535

7.164

16,46

8.230

18,90

H. Vạn Ninh

25.138

3.255

12,95

4.127


16,42

H. Ninh Hòa

44.044

6.785

15,41

7.766

17,63

H. Diên Khánh

28.262

3.451

12,21

4.228

14,96

H. Khánh Vĩnh

5.918


3.563

60,21

3.563

60,21

H. Khánh Sơn

3.960

2.433

61,44

2.433

61,44

Nguồn: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Khánh Hòa.

Bảng trên cho thấy, mặc dù tỉ lệ hộ nghèo rất cao ở các huyện miền núi
Khánh Vĩnh và Khánh Sơn, nhưng do dân cư tập trung ở đô thị và các vùng
ven biển, nên các địa bàn này cũng là nơi tập trung đông các hộ nghèo, và
tỉ lệ nghèo khá cao ở các huyện, thị ven biển: TP Nha Trang, TX Cam Ranh,
Ninh Hòa, Vạn Ninh. Góp phần vào bức tranh về tình trạng nghèo này có
các hộ gia đình nghề cá và các cộng đồng nghề cá.
Trong vùng ven biển, tỉ lệ nghèo thuộc về các hộ nghề cá rất lớn. Các con
số thống kê chính thức hiện nay chưa phản ánh rõ, do không thể áp dụng

chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn (cho nông dân) vào các hộ ngư dân do các
hộ ngư dân thường khơng có đất, đầu tư và tính bấp bênh đều lớn hơn nhiều.
1 Theo chuẩn nghèo mới của Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010, thì ở khu
vực nơng thơn, miền núi và hải đảo là 200.000đ/người/tháng, còn ở khu vực thành thị
là 260.000 đ/người/tháng.
2 Theo Nghị quyết số 21/2004/NQ- HĐND4 của Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hòa,
chuẩn nghèo mới của tỉnh Khánh Hòa áp dụng từ năm 2005 gồm 03 mức:
Khu vực thành thị: 300.000 đồng/người/tháng - 3.600.000 đồng/người/năm
Khu vực nông thôn đồng bằng: 250.000 đ/người/tháng - 3.000.000 đ/người/năm
Khu vực nông thôn miền núi: 200.000 đ/người/tháng - 2.400.000 đ/người/năm

554 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

4.2. Trong cộng đồng nghề cá
Cộng đồng nghề cá do đặc điểm nghề nghiệp và sự củng cố các quan
hệ “làng xã” trong lịch sử, có tính cố kết khá mạnh và khơng “mở”. Rất phổ
biến ở tỉnh Khánh Hịa là các cộng đồng (các vạn chài, làng chài) gắn với
một vùng nước và một nhóm nghề (làng làm nghề giã cào, làng làm nghề
câu tay, làng làm nghề vây...). Ngay bên cạnh một thành phố Nha Trang,
một thành phố du lịch tương đối lớn và phát triển năng động thì các làng
cá vẫn có dáng dấp cổ truyền rất riêng.
Bên trong cộng đồng nghề cá có các hệ thống phân cơng lao động
riêng, có những chủ tàu, người làm th (đi bạn), người buôn bán cá (nậu),
người cung cấp các dịch vụ liên quan. Cách thức phân chia thu nhập (giữa
chủ tàu và những người làm thuê) khác nhau nhiều giữa các nhóm nghề.
Thường thường, với các tàu nhỏ, sau khi trừ các chi phí bao gồm dầu chạy
máy, đá ướp cá, lương thực, thực phẩm, tiền bán sản phẩm một nửa dành

cho chủ (bao gồm tiền khấu hao tàu thuyền, ngư cụ mà ngư dân gọi là
“lương của tàu”); phần còn lại chia cho các lao động trên tàu theo hệ số, tùy
theo vị trí của họ (thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên...). Với các tàu
lớn, lưới nhiều, tiền thu được trừ lại cho tàu và lưới có thể lên tới 60 - 70 %,
phần chia cho lao động cịn 30 - 40%. Điều ấy cũng có nghĩa là mặc dù làm
thuê, người lao động vẫn phải chịu rủi ro theo từng chuyến biển. Người
làm thuê có thể tự lựa chọn chủ tàu nào để làm, ngắn hạn hoặc lâu dài. Ở
Khánh Hòa, do số lượng tàu thuyền vẫn tăng mà khan hiếm người làm
thuê, chủ tàu đôi khi phải thuê cả người không biết đi biển. Đáng chú ý là
ngay cả ngư dân nghèo, thuyền cá nhỏ đôi khi vẫn phải th lao động, và
hầu như khơng có trường hợp phụ nữ ra biển cùng với chồng.
Cộng đồng ngư dân được sự quan tâm nhiều của Nhà nước thơng qua
các Chương trình như chương trình vay vốn tạo việc làm, chương trình
phát triển cơ sở hạ tầng nghề cá, chương trình đánh bắt xa bờ, chương
trình hỗ trợ cho các xã bãi ngang, chương trình hỗ trợ cho ni trồng thủy
sản... Điều này đã góp phần to lớn để thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện
đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, khi các đơn vị quốc doanh còn ngập ngừng phát triển dịch
vụ nghề cá nhỏ, vốn dĩ gặp nhiều rủi ro thì trong cộng đồng ngư dân tồn
tại một “hệ thống” tiêu thụ sản phẩm, đầu tư cho ngư dân sản xuất rất sống
động - mạng lưới nậu. “Hệ thống” này tác động tới phần đông các ngư dân

| 555


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

từ khâu đầu tới khâu cuối của sản xuất và cả tiêu thụ sản phẩm, thậm chí
có nậu sở hữu cả xưởng chế biến thủy sản. Nậu thường đầu tư cho ngư
dân vay vốn không lấy lãi, bù lại, ngư dân nhận vay phải bán sản phẩm

với giá “mềm“ hơn cho nậu. Đây là hình thức “tín dụng” khá đặc biệt của
cộng đồng nghề cá.
Nhiều tranh cãi về vai trò của nậu trong phát triển nghề cá: có ý kiến cho
là đây là hình thức bóc lột tinh vi và nậu mới là người điều khiển hệ thống
tiêu thụ sản phẩm chứ không phải Nhà nước. Chúng tôi cho là, khi mà Nhà
nước chưa đầu tư được nhiều cho ngư dân, trong khi ngư dân rất cần vốn thì
sự tồn tại của các nậu, vựa là tất yếu. Việc tiêu thụ sản phẩm thủy sản là sản
phẩm tươi sống trong điều kiện khí hậu nhiệt đới cần một mạng lưới rộng,
linh hoạt như của nậu là vô cùng cần thiết. Tại Khánh Hịa, ta có thể quan sát
sự hoạt động mạnh mẽ của hệ thống này tại Nha Trang và Cam Ranh.
Để đấu tranh xóa đói giảm nghèo, việc tạo ra các sinh kế thay thế có
tầm quan trọng hàng đầu. Ta có thể thấy cách lựa chọn khác nhau ở các
cộng đồng nghề cá, gắn với các điều kiện riêng về địa lí, kinh tế. Chúng tơi
xin phân tích vấn đề này ở cộng đồng nghề cá ở TP Nha Trang và huyện
Ninh Hòa.
Cộng đồng nghề cá ở TP Nha Trang tiêu biểu cho các cộng đồng nghề
cá khai thác xa bờ (tập trung chủ yếu ở Nha Trang và một phần ở Cam
Ranh). Đây là các cộng đồng nghề cá có truyền thống lâu đời1 và họ đã
sớm thích ứng với những đổi mới trong quản lí nghề cá (từ đầu thập kỉ 90),
nhanh chóng có được các tàu lớn, có khả năng đánh bắt xa bờ và sử dụng
các loại ngư cụ khác nhau. Các nghề chính là nghề lưới kéo (lưới giã), lưới
vây, lưới rê trôi, câu khơi, lưới trủ, mành đèn, lưới đăng. Tuy nhiên, việc
phát triển đánh bắt xa bờ đòi hỏi hộ ngư dân phải có đầu tư lớn, phải có
nguồn nhân lực , có kinh nghiệm và khả năng tổ chức. Việc đánh bắt xa bờ
lại gặp rủi ro lớn hơn (chẳng hạn do thiếu thơng tin về nguồn lợi...). Vì vậy,
trong cộng đồng này vẫn còn xen lẫn nhiều hộ ngư dân đánh bắt nhỏ ven
bờ và các ngư dân chuyên làm th.
Chúng tơi đã khảo sát khóm Bình Tân và khóm Trường Hải (phường
Vĩnh Trường, TP Nha Trang). Bình Tân chủ yếu có các tàu lớn (cơng suất
trung bình đội tàu khoảng 50CV), trong khi Trường Hải chủ yếu là các tầu

nhỏ (cơng suất trung bình của đội tàu chỉ 25 CV). Các tàu thuyền này chủ
1 Đình Trường Đơng ở phường Vĩnh Trường có từ năm 1853.

556 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

yếu là đánh bắt ven bờ. Một số hộ mặc dù có tàu cơng suất lớn, nhưng do
đánh bắt ở ngư trường xa không hiệu quả nên cũng chuyển sang đánh bắt
gần bờ. Đương nhiên, điều này làm cho việc đánh bắt quá mức ở biển ven
bờ tăng lên rõ rệt.
Trong những năm từ giữa thập kỉ 90 trở lại đây, do đẩy mạnh xuất
khẩu thủy sản, nhất là các mặt hàng có giá trị kinh tế cao, nên nhiều hộ ngư
dân có vốn lớn đã đầu tư vào ni trồng thủy sản. Ở vùng vịnh Nha Trang
chủ yếu là nuôi tơm hùm lồng bè. Những người nghèo đã tìm thấy một
sinh kế thay thế là làm các dịch vụ cho các hộ nuôi tôm hùm (cung cấp thức
ăn cho tôm, chăm sóc lồng bè...). Việc ni lồng bè với mật độ cao, những
khó khăn trong kiểm sốt bệnh tơm cũng như việc phải di dời lồng bè khỏi
vịnh Nha Trang đã làm cho việc ni tơm hùm bị thối trào.
Hình 3. Sự phân bố hộ thủy sản và lao động thủy sản
chuyên làm thuê ở tỉnh Khánh Hòa (2001)

| 557


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Một bộ phận ngư dân nghèo khác tìm sinh kế bằng các dịch vụ cho
các tàu đánh cá lớn như vá lưới, thu gom hải sản, làm thuê cho các cơ sở

chế biến nước mắm... hoặc các sinh kế khác nhau ngồi lĩnh vực thủy sản.
Cộng đồng nghề cá ở thơn Tân Thành và thơn Ngọc Diêm (xã Ninh
Ích, huyện Ninh Hòa) tiêu biểu cho các cộng đồng nghề cá ven các vịnh
biển kín (Vịnh Văn Phong, Đầm Nha Phu). Các vịnh biển này có những
bãi sinh sản của tơm, cá; biển nông và gần bờ rất thuận lợi cho sự tồn tại
của nghề cá nhỏ, thậm chí là các thuyền thủ cơng khơng lắp máy. Chính
vì vậy, ven các vịnh này tập trung nhiều ngư dân nghèo. Dẫu sao thì tài
nguyên thủy sinh của các vịnh biển khá hạn chế (các hệ sinh thái tại chỗ,
khơng có các luồng cá di cư lớn), nên một sự khai thác quá mức dễ làm
cho hệ sinh thái bị tổn thương. Do vịnh tương đối kín nên nếu tình trạng
ơ nhiễm mơi trường xảy ra thì cũng khó khắc phục hơn. Chính vì vậy,
khi có sự tranh chấp trong sử dụng tài nguyên ven biển thì các ngư dân
nghèo bị tác động trước hết và họ ít có khả năng tự tạo ra sinh kế mới. Từ
giữa thập kỉ 90, Viện Hải dương học Nha Trang đã nghiên cứu điều kiện
sống của vẹm xanh và chuyển giao công nghệ nuôi vẹm xanh và sự phát
triển của nhu cầu tôm hùm giống đã làm xuất hiện nghề bẫy tôm hùm
con ở Đầm Nha Phu.
Cộng đồng nghề cá nhỏ có tỉ lệ nghèo cao, phần đơng các gia đình
chỉ có thuyền nhỏ hoặc đi làm th. Theo người dân thì ngun nhân
nghèo là do tính chất thất thường của công việc và yếu tố rủi ro lớn,
người ta cũng nói nhiều rằng “biển bạc”, với nghĩa là đánh bắt trên biển
là “lọc nước lấy cá”. Tình trạng đánh bắt sử dụng thuốc nổ, kích điện...
phổ biến, ngư dân đều biết đó là tự hủy hoại, nhưng lại tự biện rằng ai
cũng làm như mình.
Có tới 70 - 80% số hộ được hỏi cho là đời sống vật chất đã khá lên
nhiều, nhưng 100% người được hỏi đều trả lời biển nghèo đi rất nghiêm
trọng. Người dân nghèo đang trong vịng luẩn quẩn: đói nghèo - đánh bắt
hủy diệt - nguồn lợi cạn kiệt - thu nhập bấp bênh, thấp.
Sự xuất hiện của cộng đồng những hộ nuôi trồng thủy sản (nuôi lồng
bè và nuôi đầm) dường như đang tạo ra một pha mới trong sự phát triển

nghề cá ở Khánh Hịa. Ở đây cũng có thể phân ra những nhóm hộ ni
nhỏ, chủ yếu là hộ nghèo, với nghề nuôi như là sinh kế thay thế như
nuôi vẹm xanh, bắt tôm hùm giống ở Tân Thành, Ngọc Diêm và những
558 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

nhóm hộ ni có đầu tư quy mơ lớn như ở Vĩnh Trường. Những hộ đầu
tư vào nuôi tôm sú, tôm hùm lồng với các mức đầu tư nhiều trăm triệu
đồng. Nhiều người ví nghề ni trồng thủy sản với việc đánh bạc. Nhiều
hộ giàu lên thành tỉ phí nhờ ni thủy sản, nhưng cũng nhiều hộ sa vào
cảnh nợ nần cũng do nuôi thủy sản. Cuối những năm 90 là thời kỳ thất
bại của nuôi tôm sú và hai năm trở lại đây là thối trào của ni tơm hùm.
Ngun nhân thất bại chủ yếu do khơng kiểm sốt được dịch bệnh, mật
độ ni q dày, khơng kiểm sốt được chất lượng con giống... Hậu quả
của thất bại trong nuôi trồng thủy sản không chỉ là làm cho ngư dân
nghèo đi mà cịn là làm cho mơi trường bị hủy diệt, ơ nhiễm.

5. Kết luận
Tài ngun biển có giá trị cho nhiều hoạt động kinh tế; nhiều đối tượng
tham gia vào khai thác tài nguyên. Vì vậy mà việc quản lí việc sử dụng loại
tài nguyên này phải mang tính tổng hợp. Giống như việc điều khiển một
dàn nhạc, quản lí tổng hợp vùng ven biển cần một nhạc trưởng thay vì có
rất nhiều nhạc trưởng như hiện nay1.
Sử dụng đi với bảo vệ tài nguyên biển nhằm mục tiêu phát triển bền
vững địi hỏi phải có những quy đinh được thể chế hóa, phối hợp được sự
hoạt động và trách nhiệm chung của chính quyền địa phương, cộng đồng
nghề cá và những tổ chức khai thác lãnh thổ. Việc quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội phù hợp trong đó xác định rõ các quan hệ cấu trúc của

nền kinh tế địa phương và các thành phần kinh tế, việc quy hoạch không
gian làm cơ sở cho các thiết kế chi tiết sử dụng các vùng đất, vùng nước ven
bờ, thống nhất quan điểm quy hoạch ngành với quy hoạch lãnh thổ ln là
việc làm có tầm quan trọng đặc biệt nhưng cũng hết sức khó khăn.
Cộng đồng nghề cá bao gồm cả đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đều
dựa trên tiền đề là tài nguyên sinh vật biển. Chỉ khi tài nguyên biển được
quản lí hợp lí, bền vững, việc xóa đói giảm nghèo mới vững chắc, ổn định.
Người dân rất cần những chính sách cụ thể như việc chuyển giao sâu
rộng những giải pháp kỹ thuật cho việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản,
đặc biệt là kiểm soát dịch bệnh, cung ứng con giống; khuyến khích thành
lập những tổ chức nghề cá để ngư dân tương trợ nhau trong đi biển, nuôi
1 Việc quy định chức năng quản lí nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường mới đây
hứa hẹn sự thống nhất quản lí nhà nước về tài nguyên biển.

| 559


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

trồng thủy sản; chính sách tín dụng phù hợp với nghề cá, đặc biệt là cho
hộ ngư dân nghèo; chính sách đảm bảo chất lượng sản phẩm thủy sản và
thúc đẩy thị trường trong và ngồi nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói
giảm nghèo. Hà Nội, 5/2002.

2.


Đỗ Thị Minh Đức, Berit Aasen và Nguyễn Viết Thịnh, Đặc điểm nghề cá và
thị trường tiêu thụ sản phẩm nghề cá vịnh Bắc Bộ. Thông báo khoa học của các
trường đại học, Địa lí, 2001, tr. 91-100.

3.

Maarten Bavinck, Ratana Chuenpagdee, Mamadou Diallo, Peter van der
Heijden, Jan Kooiman, Robin Mahon, Stella Williams, Interactive fisheries
governance: a guide to better practice. Centre for Maritime Studies (MARE), 2005.

4.

Ministry of Fisheries and The World Bank, Vietnam Fisheries and Aquaculture
Sector Study Final Report. February 16, 2005.

5.

Peter Edwards - Aquaculture, Poverty impact and Livelihood. ODI. Natural
Resource perspectives. Number 56, June 2000.

6.

Rural Development & Natural Resources East Asia & Pacific Region.
Vietnam: Engagement of Poor Fishing Communities in the Identification of Resource
Management and Investment Needs. Center for Development and Integration
Vietnam Institute of Economics.June 2006.

7.


Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Khánh Hòa, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020. Nha Trang, tháng 10 năm 2004

8.

TCTK - Kết quả tổng hợp Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2001.
Phiên bản CD-ROM.

9.

Tư liệu thực địa của Dự án nghiên cứu chung giữa ĐHSP Hà Nội và Viện
nghiên cứu đô thị và vùng Nauy (NIBR) “Sự phát triển vùng, quản lí tài nguyên
ven biển và việc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam” tại Khánh Hòa các năm 2004,
2005, 2006.

10. UBND tỉnh Khánh Hịa, Chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh Khánh Hịa giai
đoạn 2006 - 2010. Nha Trang tháng 6/2005.

560 |



×