Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thực trạng gánh nặng dinh dưỡng kép và một số đặc điểm thói quen ăn uống của trẻ mầm non tại xã nam hồng huyện đông anh hà nội năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.26 KB, 10 trang )

VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 68-77

Original Article

Double Burden of Nutrition and some Eating Habits
Characteristics of Preschool Children in Nam Hong
Commune, Dong Anh district, Hanoi, 2018
Le Thi Tuyet1,*, Nguyen Thị Trung Thu1, Ngo Thi Thu Hoai2,
Nguyen Thi Lan Huong1, Le Thi Thuy Dung3,4, Do Nam Khanh3
1

Hanoi National University of Education, 136 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2
Kim Anh High School, Thanh Xuan, Soc Son, Hanoi, Vietnam
3
Hanoi Medical University, 1 Ton That Tung, Dong Da, Hanoi, Vietnam
4
North-Eastern Federal University in Yakutsk, Russia
Received 31 July 2019
Revised 07 August 2019; Accepted 14 August 2019

Abstract: The study aims to provide evidence of double nutritional burden (including malnutrition and
overweight/obesity) as well as the impact of eating habits on nutritional status of preschool children at
Nam Hong commune, Dong Anh district, Hanoi. Subjects of study: children aged from 24 to 60 months
old at 2 preschools of Nam Hong commune. The study is divided into 2 phases: at the phase 1: a cross
sectional study was applied to 1593 children; at the phase 2: a matched case-control study was applied in
order to analyze effects of eating habits to nutritional status of children (1 malnourished child / 5 normal
children and 1 obese overweight child / 5 normal children, matched pairs in age, sex, class). Research
results: the percentage of children with normal nutritional status is 86.8%, however, Nam Hong still suffer
a double burden of nutrition when the rate of malnourished children is still high (accounting for 4.2%)
and overweight/obesity children is 9.0%, in which the rate of overweight and obesity children in boys is


higher than girls (10.9% compared with 6.7%, respectively). Eating characteristics affect malnutrition
status of children including: loss appetite (OR=4.3), slowness in eating (OR=2.23), enjoyment of food
score (OR=0.69), desire to drink score (OR=0.82). Eating characteristics affect the overweight/obesity
child’s include: appetite characteristics (OR=4.24), loss appetite (OR=0.43), fast eating (OR=2.56),
slowness eating (OR=0.43), eating more (OR=6.78), eating less (OR=0.31), prefer fat (OR=2.18), food
responsiveness score (OR=1.59), enjoyment of food score (OR=1.8), satiety responsiveness score
(OR=0.51), slowness in eating score (OR=0.05), emotional under eating score (OR=0.67), food
fussioness score (OR=0.72).
Keywords: Double burdens, malnutrition, overweight/obesity, Nam Hong commune, Dong Anh.

________


Corresponding author.
Email address:
/>
68


VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 68-77

Thực trạng gánh nặng dinh dưỡng kép và một số đặc
điểm thói quen ăn uống của trẻ mầm non tại xã Nam Hồng,
huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2018
Lê Thị Tuyết1,, Nguyễn Thị Trung Thu1, Ngô Thị Thu Hoài2,
Nguyễn Thị Lan Hương1, Lê Thị Thuỳ Dung3,4, Đỗ Nam Khánh3
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 136 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2
Trường THPT Kim Anh, Thanh Xuân, Sóc Sơn, Hà Nội, Việt Nam
3

Trường Đại học Y Hà Nội, 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
4
Trường đại học tổng hợp Liên bang mang tên M.K.Ammosov, Liên bang Nga

1

Nhận ngày 31 tháng 7 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 07 tháng 8 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 14 tháng 8 năm 2019
Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm cung cấp bằng chứng về gánh nặng kép dinh dưỡng (bao gồm cả suy
dinh dưỡng (SDD) và thừa cân, béo phì (TC, BP)) cũng như ảnh hưởng của thói quen ăn uống đến
tình trạng dinh dưỡng của trẻ mầm non xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội - nơi đang trong
q trình đơ thị hóa. Đối tượng nghiên cứu: trẻ em từ 24-60 tháng tuổi tại 2 trường mầm non thuộc
xã Nam Hồng, huyện Đông Anh. Nghiên cứu được chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn 1: mô tả cắt
ngang trên 1593 trẻ; giai đoạn 2: nghiên cứu bệnh chứng ghép cặp (1 trẻ suy dinh dưỡng/5 trẻ bình
thường và 1 trẻ thừa cân béo phì/5 trẻ bình thường theo tuổi, giới, lớp). Kết quả nghiên cứu: Toàn
mẫu tỷ lệ trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường là 86,8%, tuy nhiên, Nam Hồng vẫn chịu gánh
nặng kép về dinh dưỡng khi mà tỷ lệ trẻ SDD vẫn cao (chiếm 4,2%) và trẻ em TC, BP 9,0% (3,3%
béo phì), trong đó tỷ lệ trẻ TC, BP ở nam cao hơn nữ (10,9% so với 6,7%, tương ứng). Những đặc
điểm ăn uống ảnh hưởng đến tình trạng SDD của trẻ gồm: lười ăn (OR=4,3), ăn chậm (OR=2,23),
điểm số thích thức ăn (OR=0,69), điểm số thích đồ uống (OR=0,82). Những đặc điểm ăn uống ảnh
hưởng đến tình trạng TC, BP của trẻ gồm: háu ăn (OR=4,24), lười ăn (OR=0,43), ăn nhanh
(OR=2,56), ăn chậm (OR=0,43), ăn nhiều (OR=6,78), ăn ít (OR=0,31), thích ăn béo (OR=2,18),
điểm số phản ứng với thức ăn (OR=1,59), điểm số thích thức ăn (OR=1,8), điểm số phản ứng no
(OR=0,51), điểm số ăn chậm (OR=0,05), điểm số ăn ít khi cảm xúc tiêu cực (OR=0,67), điểm số từ
chối ăn (OR=0,72).
Từ khóa: Gánh nặng kép, suy dinh dưỡng, thừa cân/béo phì, xã Nam Hồng, Đơng Anh.

________



Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email:
/>
69


70

L.T. Tuyet et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 68-77

1. Mở đầu
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế và tình trạng đơ thị hố nhanh
chóng, tình trạng dinh dưỡng của trẻ em Việt
Nam cũng đang thay đổi theo hướng dinh dưỡng
chuyển tiếp. Trong dinh dưỡng chuyển tiếp,
nước ta vẫn đang gánh chịu gánh nặng kép bao
gồm suy dinh dưỡng (SDD) và thừa cân, béo phì
(TC, BP). Mặc dù, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị
SDD ở nước ta đã và đang giảm, nhưng mức độ
giảm này không đồng đều ở các vùng miền [13]. Bên cạnh đó, tình trạng TC, BP sớm ở trẻ lại
đang tăng lên - báo động một vấn đề sức khoẻ
cộng đồng cần được quan tâm [2,4].
Sự thiếu hay thừa dinh dưỡng ở trẻ, đặc biệt
là trẻ mầm non đều gây ra những hậu quả xấu cả
về thể chất và tâm lí, cả ở thời điểm hiện tại và
trong tương lai. Trẻ SDD thường có sức đề
kháng kém, dễ mắc bệnh. Hàng năm, trên thế
giới có khoảng 6 triệu trẻ em dưới 5 tuổi tử vong
do liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến SDD [5].

SDD dạng thấp còi đã, đang và sẽ ảnh hưởng lớn
đến phát triển chiều cao, tầm vóc của người Việt
Nam. TC, BP ở trẻ cũng dẫn đến nhiều tác hại
nghiêm trọng, như làm tăng nguy cơ đối với một
số bệnh mãn tính như tăng huyết áp, bệnh tim
mạch, đái tháo đường type 2, gan nhiễm mỡ,
bệnh ung thư, làm trẻ dậy thì sớm, cong vẹo cột
sống, trẻ thường có tâm lý tự ti, nhút nhát, chậm
chạp, ít hòa đồng, tiếp thu kém [6]. Tới 70% trẻ
béo phì sẽ duy trì tình trạng này khi trưởng thành
từ đó ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ, tâm lí và khả
năng lao động [7].
Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng
SDD hay TC, BP ở trẻ trong đó đặc điểm ăn uống
là một trong những nguyên chính ảnh hưởng đến
sự tăng cân của trẻ, đặc biệt là ở giai đoạn trẻ
mầm non [8-10]. Xác định được những thói quen
ăn uống khơng có lợi đối với tình trạng dinh
dưỡng của trẻ là việc làm cần thiết để những
người chăm sóc trẻ (trong gia đình và trường
học) có thể có biện pháp can thiệp kịp thời, giúp
trẻ có tình trạng dinh dưỡng tốt nhất.
Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội
đang có tốc độ đơ thị hố rất nhanh, do đó sự
chuyển tiếp về mặt cán cân dinh dưỡng ở trẻ em
ở đây có thể đang diễn ra mạnh. Hơn nữa, phân

bố nghề nghiệp ở Đông Anh cũng đang thay đổi
do sự phát triển các khu công nghiệp và sự đô thị
hố ở địa phương, từ đó có thể ảnh hưởng đến

đặc điểm ni dưỡng trẻ trong gia đình. Mục tiêu
của nghiên cứu này là xác định được thực trạng
tình trạng dinh dưỡng của trẻ mầm non xã Nam
Hồng, Đông Anh năm 2018 và tìm hiểu ảnh
hưởng của thói quen ăn uống đến tình trạng dinh
dưỡng của trẻ. Kết quả của nghiên cứu sẽ cung
cấp thơng tin về tình trạng dinh dưỡng của trẻ
mầm non ở một huyện đang trong quá trình đơ
thị hố; kết quả nghiên cứu cũng là tiền đề, gợi ý
cho các can thiệp hiệu quả về mặt dinh dưỡng để
cải thiện tình trạng thiếu hoặc thừa dinh dưỡng
cho trẻ mầm non ở các nghiên cứu tiếp theo.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thiết kế nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành theo 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Nghiên cứu cắt ngang trên 1593 trẻ
(748 bé trai, 24 tháng - 60 tháng tuổi) thuộc hai
trường mầm non xã Nam Hồng, Đông Anh.
Thực hiện cân đo chiều cao, cân nặng để xác định
tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Giai đoạn 2:
Nghiên cứu bệnh - chứng, với mục tiêu phân tích
ảnh hưởng của một số đặc điểm ăn uống đến tình
trạng SDD và TC, BP ở trẻ. Thực hiện gửi thư
xin ý kiến đồng ý tham gia nghiên cứu và phiếu
điều tra về đặc điểm ăn uống của trẻ cho cha mẹ
hoặc người chăm sóc của tồn bộ trẻ trong
nghiên cứu cắt ngang. Những trẻ là đối tượng
cho nghiên cứu bệnh chứng là những trẻ được sự
đồng ý tham gia nghiên cứu và có phiếu điều tra
đầy đủ thơng tin. Lựa chọn đối tượng cho phân

tích bệnh - chứng ghép cặp theo tuổi, giới, lớp
học với tỷ lệ 1 bệnh : 5 chứng, tức là 1 trẻ SDD
- 5 trẻ bình thường cùng tuổi, giới, lớp (cho phân
tích ảnh hưởng của các yếu tố đến tình trạng
SDD của trẻ) và 1 trẻ TC, BP : 5 trẻ bình thường
cùng tuổi, giới, lớp (cho phân tích ảnh hưởng của
các yếu tố đến tình trạng TC, BP của trẻ). Số liệu
thu thập vào từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2018.
Nghiên cứu đã được Hội đồng Y đức của
Viện dinh dưỡng thông qua với quyết định số
343/VDD-QLKH ngày 27/7/2018.


L.T. Tuyet et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 68-77

2.2. Phương pháp xác định tình trạng dinh
dưỡng của trẻ
Thơng tin về ngày sinh, giới tính của trẻ được
lấy từ cơ sở dữ liệu của nhà trường. Chiều cao đứng
được đo bằng thước đo chiều cao đứng (độ chính
xác 0,1cm), kết quả tính bằng cm. Cân nặng được
đo bằng cân điện tử SECA 890 (UNICEF) với độ
chính xác 100 g, kết quả tính bằng kg.
BMI (body mass index, chỉ số khối cơ thể)
được tính theo cơng thức: cân nặng/chiều cao2
(kg/m2). Z-score được tính theo cơng thức: (kích
thước đo được - số trung bình của quần thể tham
chiếu)/độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu
theo tiêu chẩn của WHO 2006 (Quần thể NCHS
- National Center for Health Statistics) dựa trên

phần mền WHO AnthroPlus version 1.01 [11].
Tiêu chuẩn xác định tình trạng dinh dưỡng
của trẻ là dựa vào chỉ số Zscore BMI theo tuổi
(ZBMI, tuổi), cụ thể: suy dinh dưỡng khi ZBMI, tuổi <
-2SD; bình thường khi ZBMI, tuổi trong khoảng từ
-2 SD đến 2 SD; thừa cân khi ZBMI, tuổi trong
khoảng 2 đến 3; béo phì khi ZBMI, tuổi > 3 SD.
Tiêu chẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu là
những trẻ mắc các bệnh cấp tính hoặc các bệnh
mãn tính như lao, HIV/AIDS.
2.3. Phương pháp xác định thói quen ăn uống
của trẻ
Bộ câu hỏi đánh giá thói quen ăn uống của
trẻ (Children’s Eating Behavior Questionnaire CEBQ) từ phiên bản Tiếng Anh gốc được dịch
sang Tiếng Việt với hai dịch giả độc lập (thuộc
nhóm nghiên cứu), hai bản dịch được so sánh và
thảo luận những điểm khác biệt sau đó được thực
thiện dịch ngược lại sang tiếng Anh bởi một dịch
giả thứ ba. So sánh với bản gốc Tiếng Anh ban
đầu, những điểm khác biệt của hai phiên bản
được thảo luận, thống nhất và cuối cùng thống
nhất bản dịch tiếng Việt với nhóm nghiên cứu.
CEBQ bao gồm 35 câu hỏi liên quan đến đặc
điểm ăn uống của trẻ, được cha mẹ đánh giá theo
thang điểm từ 1 đến 5 theo mức độ tần suất diễn
ra (không bao giờ, hiếm khi, thỉnh thoảng,
thường xuyên, luôn luôn). Các câu hỏi này đánh
giá 8 yếu tố, được chia làm 2 nhóm. Nhóm thứ
nhất là nhóm yếu tố “mong muốn được ăn” (food
approach) gồm 4 yếu tố: phản ứng với thức ăn


71

(food responsiveness, FR), ăn nhiều khi có cảm
xúc tiêu cực (emotional overeating, EOE), thích
thức ăn (enjoyment of food, EF), thích đồ uống
(desire to drink, DD). Nhóm thứ hai là nhóm yếu
tố “tránh đồ ăn” (food avoidance) gồm 4 yếu tố:
phản ứng no (satiety responsiveness, SR), ăn
chậm (slowness in eating, SE), ăn ít khi cảm xúc
thay đổi (emotional undereating, EUE), từ chối
thức ăn (food fussiness, FF) [12].
Các thông tin về đặc điểm ăn uống của trẻ
thu được từ câu trả lời của cha mẹ hoặc người
trực tiếp chăm sóc trẻ qua phiếu điều tra. Những
đối tượng nghiên cứu có phiếu điều tra nhưng
thiếu thơng tin sẽ được nhóm nghiên cứu gọi
điện để phỏng vấn trực tiếp để đáp ứng phiếu có
đầy đủ thơng tin nhất.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu thống kê
Số liệu được nhập, quản lí bằng phần mềm
Epidata 3.0 và được xử lí bằng phần mềm SPSS
16.0. Các biến định tính được biểu diễn bằng %
và so sánh bằng kiểm định χ2 test. Các biến định
lượng được kiểm tra phân phối chuẩn. Nếu biến
phân phối chuẩn thì được biểu diễn dưới dạng
trung bình ± SD. Nếu biến khơng phân phối
ch̉n thì biểu diễn dưới dạng trung vị (25th 75th percentile). So sánh giữa hai biến định
lượng bằng kiểm định Student T test (nếu biến
phân bố chuẩn) hoặc kiểm định Man-Withney-U

test (nếu biến phân bố không chuẩn). Ảnh hưởng
của các yếu tố nguy cơ đến SDD, TC, BP được
phân tích bằng phương pháp hồi quy logistic.
Khi P<0,05 theo 2 phía thì giá trị được coi là có
ý nghĩa thống kê.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Tình trạng dinh dưỡng trẻ mầm non Nam
Hồng, Đông Anh, Hà Nội
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện nhằm
xác định tình trạng dinh dưỡng của 1593 trẻ mầm
non (748 nam, 635 Nữ) thuộc 2 trường mầm non
Nam Hồng và mầm non Nắng Hồng, xã Nam
Hồng, huyện Đơng Anh, Hà Nội. Tình trạng dinh
dưỡng của đối tượng nghiên cứu được thể hiện ở
Hình 1.


72

L.T. Tuyet et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 68-77

Hình 1. Tình trạng dinh dưỡng ở trẻ mầm non Nam Hồng, Đông Anh, Hà Nội.

Dựa vào chỉ số ZBMI, tuổi và sử dụng tiêu chuẩn
WHO 2006 để đánh giá tình trạng dinh dưỡng
của trẻ em xã Nam Hồng. Kết quả cho thấy: Tồn
mẫu tỷ lệ trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình
thường là 86,8%, tuy nhiên, Nam Hồng vẫn chịu
gánh nặng kép về dinh dưỡng khi mà tỷ lệ trẻ
SDD vẫn cao (chiếm 4,2%) và trẻ em TC, BP

9,0% (trong đó 3,3% béo phì). Có sự khác biệt
về tỷ lệ này ở 2 giới, trong đó trẻ nam có tỷ lệ
SDD thấp hơn trẻ nữ (3,9% so với 4,5%), nhưng
tỷ lệ trẻ TC, BP ở nam lại cao hơn nữ (6,5% so
với 4,8% và 4,4% so với 1,9%, tương ứng),
(P=0,01).
So sánh với kết quả quả điều tra trên toàn
quốc năm 2013 của Viện Dinh dưỡng Quốc gia,
thì xã Nam Hồng năm 2018 có tỷ lệ trẻ mầm non
SDD đã giảm đáng kể (chỉ còn 4,2% so với tỷ lệ
7% năm 2013 trên cả nước), cịn tỷ lệ TC, BP thì
tương đương [13]. Tuy nhiên, so sánh với kết quả
điều tra của nhóm nghiên cứu chúng tơi năm
2018 ở trẻ mầm non nội thành Hà Nội, trẻ nơng
thơn Thanh Hố và trẻ nơng thơn Phú Thọ, thì
cho thấy tỷ lệ trẻ SDD ở xã Nam Hồng cao hơn
trẻ nội thành Hà Nội (2,5%) và thấp hơn trẻ nơng
thơn Thanh Hố (14,8%), Phú Thọ (17,1%);
ngược lại, tỷ lệ trẻ TC, BP lại thấp hơn so với nội
thành Hà Nội (11,7%) và cao hơn đáng kể so với
trẻ nơng thơn Thanh Hố, Phú Thọ (0,9%-3,3%)
[2]. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng của sự đô thị
hố tới tình trạng dinh dưỡng của trẻ theo chiều
hướng là giảm tỷ lệ SDD và tăng tỷ lệ TC, BP.

So sánh tình trạng dinh dưỡng của ở trẻ mầm
non Nam Hồng với tỷ lệ chung ở các nước trong
khu vực và trên thế giới cho thấy tỷ lệ SDD ở trẻ
mầm non Nam Hồng thấp hơn tỷ lệ này ở trẻ Bắc
Á (15,2%, năm 2018), trẻ Châu Phi (6,2-9,0%,

năm 2018), nhưng lại cao hơn khi so sánh với
các nước phát triển như Mỹ, Châu Âu và Tây Á
(0,9-2,9% năm 2018) [14]. Khi so sánh tỷ lệ trẻ
TC, BP với các khu vực trên thế giới cho thấy Xã
Nam Hồng có tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi thừa dinh
dưỡng chỉ thấp hơn khu vực Châu Âu, Trung Á
và Đông Bắc Phi (11,2%-14,9%, năm 2018); và
cao hơn đáng kể các khu vực còn lại như Bắc Mỹ
và Mỹ La Tinh (7,5%-8,8%) và cao hơn tỷ lệ này
tính chung tồn cầu (5,9%, năm 2018) [15].
Điều này cho thấy sự chuyển tiếp dinh dưỡng ở
trẻ mầm non Nam Hồng, khơng cịn ảnh hưởng
của sự thiếu dinh dưỡng nữa mà đang có xu
hướng nghiêng về phía đủ và thừa dinh dưỡng.
Điều này có thể do sự tăng lên về đời sống kinh
tế và sự tăng lên về lối sống tĩnh tại nơi đây do
kết quả của sự cơng nghiệp hố và đơ thị hố.
Một điểm đáng chú ý nữa là tỷ lệ giới tính và
sự khác biệt về tỷ lệ TC, BP ở trẻ nam và trẻ nữ
trong nghiên cứu này. Đề tài nghiên cứu thực
hiện tiến hành lấy mẫu ở toàn bộ trẻ độ tuổi 2460 tháng ở xã Nam Hồng đang học ở 2 trường
mầm non của Xã, kết quả có 1593 trẻ (55,2%
nam; 44,8% nữ), điều này cho thấy sự mất cân
bằng về tỷ lệ giới tính ở trẻ Việt Nam đang
nghiêng về phía nhiều bé trai. Tỷ lệ trẻ nam TC,
BP ở Nam Hồng cao hơn so với trẻ nữ là đặc


L.T. Tuyet et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 68-77


điểm chung ở lứa tuổi này ở các khu vực trong
nước [2] và trên thế giới [16-18]. Một số nghiên
cứu đã chỉ ra nguyên nhân của sự khác biệt này
là do trẻ nam thường ăn đồ chiên, rán, uống nước
ngọt nhiều và có tổng lượng năng lượng ăn vào
nhiều hơn trẻ nữ [17-18].
3.2. Ảnh hưởng của đặc điểm ăn uống đến tình
trạng dinh dưỡng của trẻ

73

3.2.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu bệnh
chứng
Để tìm hiểu ảnh hưởng của một số đặc điểm
ăn uống đến tình trạng SDD và TC, BP ở trẻ
mầm non Nam Hồng, 2 nghiên cứu bệnh - chứng
ghép cặp được thực hiện: (1) nghiên cứu giữa
nhóm trẻ SDD và nhóm trẻ bình thường và (2)
nghiên cứu giữa nhóm trẻ TC, BP và nhóm trẻ
bình thường. Đặc điểm của các đối tượng nghiên
cứu này được thể hiện ở Bảng 1.

Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng trong nghiên cứu bệnh chứng

Đặc điểm
Giới tính nam (%)
Tuổi (tháng)
Chiều cao (cm)
Zchiều cao, tuổi
Cân nặng (kg)

Zcân nặng, tuổi
BMI (kg/m2)
ZBMI, tuổi

Bệnh chứng: SDD - bình thường
Trẻ bình
Trẻ SDD
thường
P
(n =67 )
(n = 349)
55,2
54,9
1
49,35 ± 10,8
49,5 ± 10,9
0,87
100,85 ± 8,3
103,2 ± 8,3
0,01
-0,63 ± 1,04
-0,05 ± 1,46 <0,0001
15,80 ± 3,06
13,17 ± 2,03 <0,0001
-0,41 ± 0,98
-1,75 ± 0,92 <0,0001
15,42 ± 1,33
12,33 ± 0,84 <0,0001
-0,16 ± 0,94
-2,64 ± 0,75 <0,0001


Bệnh chứng: TC, BP - bình thường
Trẻ bình
Trẻ TC, BP
thường
P
(n =138 )
(n = 712)
69,8
69,6
1
52,39 ± 9,8
51,13 ± 10,19 0,17
102,78 ± 7,32 103,58 ± 8,35 0,25
-0,60 ± 0,01
-0,26 ± 1,21
<0,0001
16,14 ± 2,66
21,76 ± 4,29
<0,0001
-0,47 ± 0,92
1,81 ± 0,98
<0,0001
15,21 ± 1,26
20,12 ± 2,05
<0,0001
-0,14 ± 0,94
2,87 ± 0,85
<0,0001


P nhận được từ kiểm định 2 test (với biến định tính), Student’s T test (với biến định lượng).

Bảng 1 cho thấy khơng có sự khác biệt về
tuổi và tỷ lệ giới tính giữa nhóm bệnh và chứng
(P>0,05), do cách chọn mẫu là ghép cặp theo
tuổi, giới và lớp. Các chỉ số Zchiều cao, tuổi, cân
nặng, Zcân nặng, tuổi, BMI và ZBMI, tuổi cao nhất ở
nhóm trẻ TC, BP và thấp nhất ở nhóm trẻ SDD
(P<0,0001).
3.2.2. Ảnh hưởng của đặc điểm ăn uống đến
tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Để tìm hiểu ảnh hưởng của một số đặc điểm
ăn uống đến tình trạng SDD và TC, BP ở trẻ
mầm non Nam Hồng được thể hiện ở Bảng 2.
Kết quả Bảng 2 cho thấy, những đặc điểm ăn
uống ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của
trẻ mầm non Nam Hồng gồm: đặc điểm háu ăn
của trẻ, thời gian ăn bữa chính, thích béo và một
số yếu tố điểm số CEBQ (P<0,05).
Háu ăn hoặc lười ăn là những đặc điểm rất
dễ nhận biết và ít sai số khi phỏng vấn người
chăm sóc trẻ và có mối tương quan chặt với
lượng thức ăn ăn vào hàng ngày của trẻ. Thời
gian ăn mỗi bữa cũng liên quan nghịch với lượng

thức ăn trẻ ăn, những trẻ ăn nhanh thường có
lượng thức ăn ăn vào nhiều hơn trẻ ăn chậm [19].
Trong nghiên cứu này, trẻ háu ăn làm tăng nguy
cơ TC, BP lên 4,24 lần (P<0,0001), trẻ lười ăn
làm tăng nguy cơ SDD lên khoảng 4 lần

(95%CI=2,96-6,23) và giảm nguy cơ TC, BP 0,3
lần (95%CI=0,14-0,66). Trẻ có thời gian ăn
nhanh (ít hơn 20 phút/bữa) có nguy cơ TC, BP
cao gấp 2,6 lần trẻ có thời gian ăn từ 20-40 phút;
ngược lại, những trẻ ăn chậm (thời gian ăn /bữa
> 40 phút) có nguy cơ SDD cao (OR=2,23,
P<0,0001) và giảm nguy cơ TC, BP với
OR=0,31 (P=0,001). Những trẻ có mức độ ăn
nhiều có nguy cơ TC, BP cao gấp gần 7 lần
(95%CI=3,86-12,2) và trẻ ăn ít giảm nguy cơ này
khoảng 3 lần (OR=0,31, P=0,001) nhưng lại tăng
nguy cơ SDD lên trên 2 lần (95%CI=1,54-3,31).
Kết quả này cũng tương tự với nhiều nghiên cứu
trong và ngoài nước trên đối tượng trẻ mầm non,
trẻ tiểu học [19-20]. Có thể giải thích điều này là
do trẻ háu ăn, ăn nhanh thường có lượng lượng
thức ăn vào nhiều nên tăng nguy cơ TC, BP;
ngược lại trẻ lười ăn, ăn chậm thường có lượng


74

L.T. Tuyet et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 68-77

thức ăn ăn vào trong ngày ít nên sẽ có nguy cơ bị
SDD cao. Vì vậy, khi bố mẹ nhận biết được
những đặc điểm ăn uống này của trẻ cần có
những kiến thức nhất định để lựa chọn loại thức
ăn phù hợp với đặc điểm ăn uống của từng con
mình: với những trẻ háu ăn, ăn nhanh nên chọn


những thức ăn ít năng lượng nhưng vẫn đảm bảo
đủ chất dinh dưỡng; ngược lại, với những trẻ lười
ăn, ăn chậm nên chọn những thức ăn giàu năng
lượng, từ đó đảm bảo nhu cầu về năng lượng
cũng như nhu cầu về chất dinh dưỡng trong khẩu
phần ăn của mỗi trẻ.

Bảng 2. Ảnh hưởng của một số đặc điểm ăn uống đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Yếu tố nguy cơ
Đặc điểm
háu ăn
Được ăn theo
ý thích
Thời gian ăn
bữa chính

Sở thích các
loại thức ăn
(so với khơng
thích)

Điểm số
CEBQ

Bình thường
Háu ăn
Lười ăn

Khơng

20 – 40 phút
< 20 phút
> 40 phút
Thích ngọt
Thích béo
Thích thịt
nạc
Thích trứng
Thích rau
quả
FR
EOE
EF
DD
SR
SE
EUE
FF

Ảnh hưởng đến SDD
OR (95%CI)
P
1
0,45 (0,11-1,92) 0,281
4,30 (2,96-6,23) <0,0001
1
0,97 (0,62-1,52) 0,969
1
0,48 (0,20-1,14) 0,096
2,23 (1,51-3,28) <0,0001

0,64 (0,33-1,23) 0,175
1,18 (0,78-1,77) 0,438

Ảnh hưởng đến TC, BP
OR (95%CI)
P
1
4,24 (2,76-4,46)
<0,0001
0,30 (0,14-0,66)
0,003
1
1,46 (0,94-2,26)
0,09
1
2,56 (1,58-4,14)
<0,0001
0,43 (0,23-0,83)
0,012
0,93 (0,52-1,65)
0,803
2,18 (1,43-3,33)
<0,0001

0,81 (0,55-1,81)

0,269

1,23 (0,83-0,85)


0,306

0,83 (0,47-1,48)

0,530

1,30 (0,07-2,36)

0,392

1,04 (0,66-1,66)

0,860

1,07 (0,66-1,73)

0.780

0,87 (0,69-1,11)
0,85 (0,67-1,08)
0,69 (0,54-0,89)
0,82 (0,68-0,98)
0,10 (0,74-1,34)
1,24 (0,95-1,62)
0,98 (0,78-1,23)
0,93 (0,69-1,25)

0,270
0,187
0,003

0,033
0,992
0,113
0,863
0,619

1,59 (1,24-2,04)
1,11 (0,88-1,4)
1,80 (1,41-2,31)
0,96 (0,79-1,17)
0,51 (0,37-0,70)
0,05 (0,39-0,68)
0,67 (0,53-0,86)
0,72 (0,53-0,99)

<0,0001
0,361
<0,0001
0,704
<0,0001
<0,0001
0,001
0,042

P nhận được từ phân tích hồi quy logistic.

Mối liên quan giữa sở thích đối với mỗi loại
thức ăn và TC, BP đã được báo cáo nhiều, đặc
biệt là sở thích ăn đồ ăn béo [20]. Nghiên cứu
trên trẻ mầm non Nam Hồng cho thấy, trẻ thích

ăn béo làm tăng nguy cơ TC, BP lên 2,18 lần
(P<0,0001) nhưng đặc điểm này không ảnh
hưởng đến SDD. Những thức ăn béo thường tạo
cảm giác ngon miệng nên thường làm trẻ thích
ăn. Đồ ăn béo lại là những đồ ăn giàu năng lượng
và do đó những trẻ thích ăn béo làm tăng nguy
cơ béo phì lên nhiều lần [21].
Các điểm số thành phần trong bộ câu hỏi
CEBQ đã được chứng minh phản ánh tốt và độ

tin cậy cao ở trẻ từ 1-13 tuổi ở nhiều nước trên
thế giới như Thuỵ Điển [16], Chile [23], Canada
[24], Trung Quốc [25]. Tại nước ta, việc áp dụng
bộ câu hỏi CEBQ để đánh giá đặc điểm ăn uống
của trẻ còn chưa phổ biến, mới có cơng bố mới
đây của Nguyễn Thị Nguyệt Anh (2018) thực
hiện trên trẻ 3 tuổi bị nhiễm chất độc Dioxin [26]
là sử dụng bộ câu hỏi này. Nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy việc tăng 1 điểm số ở chỉ số EF
(thích ăn) và DD (thích nước ngọt) làm giảm
nguy cơ SDD ở trẻ với OR là 0,69 và 0,82, tương
ứng (P<0,05). Việc tăng điểm số FR (phản ứng
với thức ăn) và EF làm tăng nguy cơ TC, BP của


L.T. Tuyet et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 68-77

trẻ lên khoảng 1,6-1,8 lần (P<0,0001). Với 4 yếu
tố thuộc nhóm “tránh đồ ăn”, việc tăng điểm số
của các yếu tố này (SR - liên quan đến việc trẻ

nhanh no khi ăn, SE - ăn chậm, EUE - ăn ít khi
trẻ có cảm xúc tiêu cực, FF - trẻ thường từ chối
thử thức ăn mới) làm giảm nguy cơ TC, BP với
OR trong khoảng 0,05-0,7 (P<0,05). Các điểm
số của các yếu tố thành phần trong bộ câu hỏi
CEBQ đã được chứng minh phản ánh tốt đặc
điểm ăn uống của trẻ nhỏ [16, 23-25], điểm số
EF liên quan thuận với lượng thức ăn ăn vào do
đó là yếu tố dự đốn nguy cơ SDD hay TC, BP
ở trẻ; điểm số DD liên quan thuận với lượng
nước ngọt trẻ uống từ đó cũng ảnh ưởng đến
lượng đường tiêu thụ và dẫn đến tăng cân. Bốn
yếu tố trong nhóm “tránh đồ ăn” lại tương quan
nghịch với lượng thức ăn trẻ ăn hàng ngày, do đó
điểm số của những yếu tố này sẽ tương quan
thuận với nguy cơ SDD và tương quan nghịch
với nguy cơ TC, BP của trẻ. Kết quả nghiên cứu
áp dụng bộ câu hỏi CEBQ để đánh giá đặc điểm
ăn uống ở trẻ mầm non Nam Hồng và phân tích
ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ cho
thấy có thể áp dụng rộng rãi bộ câu hỏi này để
đánh giá đặc điểm ăn uống ở trẻ Việt Nam, từ đó
cha mẹ và người chăm sóc trẻ có thể điều chỉnh
thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của
trẻ phù hợp với từng đặc điểm của mỗi trẻ giúp trẻ phát triển một cách tốt nhất, tránh các
nguy cơ bị thiếu hoặc thừa dinh dưỡng có hại
cho sức khoẻ.
4. Kết luận
Gánh nặng kép về tình trạng dinh dưỡng của
trẻ mầm non Nam Hồng, Đơng Anh, Hà Nội

đang nghiên dần về phía thừa dinh dưỡng (3,3%
béo phì; 5,7% thừa cân; 4,2% SDD), trong đó tỷ
lệ trẻ TC, BP ở nam cao hơn nữ (10,9% so với
6,7%, tương ứng). Những đặc điểm ăn uống ảnh
hưởng tình trạng SDD của trẻ gồm: đặc điểm
lười ăn (OR=4,3), ăn chậm (OR=2,23), ăn ít
(OR=2,26), điểm số EF (OR=0,69), điểm số DD
(OR=0,82). Những đặc điểm ăn uống ảnh hưởng
đến tình trạng TC, BP của trẻ gồm: đặc điểm háu
ăn (OR=4,24), lười ăn (OR=0,43), ăn nhanh
(OR=2,56), ăn chậm (OR=0,43), ăn nhiều

75

(OR=6,78), ăn ít (OR=0,31), thích ăn béo
(OR=2,18), điểm số FR (OR=1,59), điểm số EF
(OR=1,8), điểm số SR (OR=0,51), điểm số SE
(OR=0,05), điểm số EUE (OR=0,67), điểm số
FF (OR=0,72). Kết quả nghiên cứu cho thấy, cấu
trúc dinh dưỡng ở trẻ em xã Nam Hồng là đặc
trưng cho khu vực có kinh tế đang phát triển và
tốc độ đơ thị hố nhanh. Đặc điểm ăn uống là
một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh đến
tình trạng SDD và TC, BP ở trẻ em.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu có sự hỗ trợ kinh phí của đề tài cấp
Bộ Giáo dục và Đào tạo mã số B2018 - SPH - 50.
Tài liệu tham khảo
[1] L.T. Huong, N.T. Linh, N.T.T. Ha, Nutritional
status and cognitive development of children under

6 in urban, rural and mountainous area of the north
in 2012, Journal of Food and Nutrition Sciences 10
(2014) 67-74 (in Vietnamese).
/>atName=cac-de-tai-va-xuat-ban-pham&lang=vi
[2] N.T.T. Thu, L.T. Tuyet, Anthropometric
characteristics and nutritional status in 24 - 59
months children in Hanoi city, Thanh Hoa province
and Phu Tho province in 2018, HNUE Journal of
Science, Natural Sciences 3 (2018) 150-157. (in
Vietnamese).
/> />d=5149.
[3] N.T.T. Thu, L.T.T. Dung, L.T Tuyet, Nutritional
status: the trends of preschool children aged 10–60
months in the north of Vietnam, Health Risk
Analysis 4 (2018).
/>[4] N.H. Trang, T.K. Hong, M.J. Dibley, Cohort
profile: Ho Chi Minh City Youth Cohortdchanges
in diet, physical activity, sedentary behaviour and
relationship
with
overweight/obesity
in
adolescents, BMJ Open 2 (2012) e000362.
/> />[5] WHO, fact sheet, 2019. Infant and young child
feeding,
/>en/ (accessed 6/2019).


76


L.T. Tuyet et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 68-77

[6] WHO, Childhood overweight and obesity, 2019.
/>d/en/ (accessed 6/2019).
[7] J.M. Braun, H.J. Kalkwarf, G.D. Papandonatos, A.
Chen, B.P. Lanphear, Patterns of early life body
mass index and childhood overweight and obesity
status at eight years of age, BMC Pediatr 18 (2018)
161. />[8] L.T. Tuyet, B.T. Nhung, T.Q. Binh, Association of
neonatal,
breastfeeding,
eating
behavior
characteristics with obesity in primary school
children in Hanoi urban areas, VNU Journal of
Science: Natural Sciences and Technology 30
(2014) 275-281. (in Vietnamese).
[9] L. Webber, C. Hill, J. Saxton, C.H. Van Jaarsveld,
J. Wardle, Eating behaviour and weight in children,
Int 
J Obes (Lond). 33 (2009) 21-28.
/>[10] A. Meule, A.P. Lutz, C. Vogele, A. Kubler,
Impulsive reactions to food-cues predict
subsequent food craving. Eat Behav 14 (2014) 99105. />[11] WHO, Anthro Plus for Personal Computers
Manual: Software for Assessing 
Growth of the
World’s Children and Adolescents. Geneva,
Switzerland:
World
Health
Organization.
(accessed

3/2019).
[12] J. Wardle, C.A. Guthrie, S. Sanderson, L.
Rapopor, Development of the Children's Eating
Behaviour Questionnaire. J Child Psychol
Psychiatry 42 (2001) 963-970.
/>[13] Vietnam National Institute of Nutrition, UNICEF,
Alive and Thrive, Nutrition monitoring
information 2013, Hanoi, Vietnam (2014).
[14] UNICEF. Undernutrition contributes to nearly half
of all deaths in children under 5 and is widespread
in Asia and Africa 2019.
2019. />utrition/# (accessed 3/2019).
[15] M. de Onis, E. Borghi, M. Arimond, P. Webb, T.
Croft, K. Saha, et al., Prevalence thresholds for
wasting, overweight and stunting in children under
5 years, Public Health Nutr 22 (2019) 175-179.
/>[16] A. Ek, K. Sorjonen, K. Eli, L. Lindberg, J. Nyman,
C. Marcus, P. Nowicka, Associations between
Parental Concerns about Preschoolers' Weight and
Eating and Parental Feeding Practices: Results
from Analyses of the Child Eating Behavior
Questionnaire, the Child Feeding Questionnaire,
and the Lifestyle Behavior Checklist, PLoS One 22

[17]

[18]

[19]


[20]

[21]

[22]

[23]

[24]

[25]

(2016) e0147257.
/>J. Zhang, Y. Zhai, X.Q. Feng, W.R. Li, Y.B. Lyu,
T. Astell-Burt, P.Y. Zhao, X.M. Shi, Gender
differences in the prevalence of overweight and
obesity, associated behaviors, and weight-related
perceptions in a National Survey of Primary School
Children in China, Biomed Environ Sci 31 (2018)
1-11. />V.H.C. Wang, J. Min, H. Xue, S. Du, F. Xu, H.
Wang, Y. Wang, Factors contributing to sex
differences in childhood obesity prevalence in
China, Public Health Nutr 21 (2018) 2056-2064.
/>H. Ochiai, T. Shirasawa, R. Nishimura, A.
Morimoto, N. Shimada, T. Ohtsu, M. Hashimoto,
H. Hoshino, N. Tajima, A. Kokaze, Eating
behavior and childhood overweight among
population-based elementary school children in
Japan, Int J Environ Res Public Health 9 (2012) 13981410. />L.T. Tuyet, B.T Nhung, T.Q Binh, Association of
some eating behaviour characteristics and

sedentary lifestyle with obesity among Hanoi
primary school boy in 2012, VNU Journal of
Science: Natural Sciences and Technology 31 (2),
60-66 (in Vietnamese).
/>W. Labree W., D. van de Mheen, F. Rutten, G.
Rodenburg, G. Koopmans, M. Foets, Differences
in Overweight and Obesity among Children from
Migrant and Native Origin: The Role of Physical
Activity, Dietary Intake, and Sleep Duration, PLoS
One 10 (2015) e0123672.
/>S. Kar, B. Khandelwal, Fast foods and physical
inactivity are risk factors for obesity and
hypertension among adolescent school children in
east district of Sikkim, India, J Nat Sci Biol Med 6
(2015) 356-359. />J.L. Santos, J.A. Ho-Urriola, A. Gonzalez, S.V.
Smalley, P. Dominguez-Vasquez, R. Cataldo,
Association between eating behavior scores and
obesity in Chilean children, Nutr J. 10 (2011) 108.
/>J.C. Spence, V. Carson, L. Casey, N.
Boule, Examining behavioural susceptibility to
obesity among Canadian pre-school children: the
role of eating behaviours, Int J Pediatr Obes 6
(2011) e501–7.
/>Y.T. Cao, V. Svensson, C. Marcus, J. Zhang, J.D.
Zhang, T. Sobko, Eating behaviour patterns in


L.T. Tuyet et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 68-77

Chinese children aged 12-18 months and

association with relative weight - factorial
validation of the Children's Eating Behaviour
Questionnaire, Int J Behav Nutr Phys Act 9 (2012)
5. />
77

[26] A.T.N. Nguyen, M. Nishijo, T.T. Pham, N.N.
Tran, A.H. Tran, L.V. Hoang, H. Boda, Y.
Morikawa, Y. Nishino, H. Nishijo, Sex-specific
effects of perinatal dioxin exposure on eating
behavior in 3-year-old Vietnamese children, BMC
Pediatr. 18 (2018) 213.
/>


×