Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Vận dụng tư tưởng văn hóa hồ chí minh vào xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.78 KB, 21 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh được tổ chức UNESCO ghi nhận là Anh hùng giải phóng
dân tộc của Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất. Ngay từ lúc ra đi tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới một xã hội mới tự do, hạnh phúc, khơng có áp
bức, bóc lột, bất cơng. Trên cơ sở truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa hàng
nghìn năm của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, chắt lọc tinh hoa văn
hóa phương Đơng, phương Tây, văn hóa mácxít, từng bước xây dựng lý luận
văn hóa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề văn hố ln có một vị trí quan
trọng. Những quan điểm của Người về văn hoá là kim chỉ nam để Đảng ta hoạch
định đường lối, sách lược phát triển văn hoá qua các giai đoạn cách mạng.
Những quan điểm và hoạt động văn hố của Người khơng những làm phong phú
thêm kho tàng văn hố của dân tộc, mà cịn góp phần vào sự tiến bộ và phát triển
nền văn minh của nhân loại. Công lao to lớn này đã được UNESCO khẳng định
trong Nghị quyết về tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người: "Sự đóng
góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, nghệ thuật
là kết tinh truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư
tưởng của Người là hiện thân của các dân tộc, tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự
hiểu biết lẫn nhau. Người là vị anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là
nhà văn hố kiệt xuất"
Với tầm vóc của một danh nhân văn hoá thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh
để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng vơ cùng q báu về nhiều lĩnh vực, trong
đó có lĩnh vực văn hố. Việc tìm hiểu những quan điểm của Người về văn hố
và vấn đề giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc giúp chúng ta có cơ sở lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới
đất nước.


2


Chính vì lẽ đó, xin chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay.”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa, đánh giá
q trình vận dụng tư tưởng đó vào trong thời gian qua. Từ đó, đưa ra một số
phương hướng cần quán triệt nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, làm rõ về nguồn gốc, q trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa , từ đó chỉ ra quy luật ra đời, phát triển tư tưởng của
Người.
- Nghiên cứu, làm rõ những nguyên tắc mang tính quy luật của sự vận dụng,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
và cơng cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự vận động, phát triển về văn hoá của cách mạng Việt Nam
được phản ánh trong tư duy Hồ Chí Minh. Đồng thời sự vận dụng những quan
điểm của Người vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc trong giai đoạn hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Thế giới quan, phương pháp luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở, phương pháp luận định
hướng nghiên cứu.

3



4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính đảng với tính khoa học.
- Kết hợp chặt chẽ phương pháp lơ gích với phương pháp lịch sử.
- Bên cạnh việc tuân thủ các phương pháp mang tính chun ngành nói trên, thì
việc vận dụng các phương pháp liên ngành khác như: phân tích tổng hợp, thống
kê, so sánh, điều tra xã hội học,...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Tiểu luận góp phần cung cấp luận chứng về cơ sở lý luận và thực tiễn quan
điểm Hồ Chí Minh về văn hóa. Từ đó, kiên định, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới
và sáng tạo trong tiếp thu, kế thừa tư tưởng của Người.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
được chia thành 2 chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương 2: Quan điểm của Đảng đối với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh

4


CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA
1.1. Xác định vị trí và vai trị của văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “dốt” cũng là một loại giặc khơng kém gì “giặc
đói” và “giặc ngoại xâm”; từ đó Người cho rằng, “chủ nghĩa xã hội cộng với
khoa học chắc chắn sẽ đưa lồi người tới hạnh phúc vơ tận”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi giáo dục, khoa học và văn hóa nói chung có tầm quan trọng như các

lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Vì văn hóa có thể thấm vào các lĩnh vực đó,
khơng chỉ ở phương diện nhận thức tư tưởng, mà trước tiên và cơ bản ở phương
diện tâm lý, luân lý; tức là ở phương diện gốc của tình cảm, đạo lý là người, làm
người, và là gốc của đời sống xã hội nói chung.
Khi miền Bắc bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “... để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì
văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”. Người chỉ
rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao
khơng nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực
được đạo; vì thế, kinh tế phải đi trước... Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”.
Người xác định ba tính chất cơ bản nhất của văn hóa dân tộc là: dân tộc,
khoa học, đại chúng. Quan niệm này được thể hiện rõ trong Đề cương văn hóa
năm 1943 và trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng
(năm 1951).
Một khi văn hóa ở trong kinh tế và chính trị thì phát triển kinh tế và lãnh
đạo chính trị phải có tính văn hóa; và phát triển văn hóa phải trên cơ sở kinh tế
và chính trị. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, phát triển kinh tế - xã
hội và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước theo hướng nhân văn vì

5


sự phát triển toàn diện của con người đang được coi là xu hướng tất yếu vì sự
phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Quan niệm về văn hóa lối sống và đạo đức làm người
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lề lối, tác phong, tư cách, đạo đức của
con người, hay nói chung là văn hóa lối sống của con người. Ngay sau khi thành
lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ (ngày 03-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì đề ra 6 nhiệm vụ

cấp bách mà chính quyền cách mạng non trẻ phải giải quyết; trong đó có nhiệm
vụ xây dựng đời sống mới. Người chủ trương: “Phải giáo dục lại nhân dân
chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng
cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc
lập.
Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách
thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”.
Đến năm 1947, mặc dù cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra quyết
liệt nhưng với bút danh Tân Sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Đời
sống mới với nội dung cơ bản là: “... thanh toán nạn mù chữ”, “...phải học đạo
đức cơng dân, phổ thơng chính trị”, “... để trả lời cho thế giới biết nước ta là
nước văn minh...”. Và Người rất coi trọng tư cách, đạo đức của con người.
Người cho rằng, cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, khơng có đạo đức thì giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đời sống mới, sửa
đổi lối làm việc, phù hợp với từng đối tượng: nhi đồng, thiếu niên, thanh niên,
phụ nữ, phụ lão, cơng nhân, nơng dân, trí thức, bộ đội, cơng an, nhất là cán bộ,
đảng viên. Chẳng hạn Người đề xuất “Tư cách người cách mạng”, “Năm điều
Bác Hồ dạy thiếu nhi”, “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”, “Sáu yêu cầu
về người làm tướng”, và bốn nhiệm vụ của Quân đội. Những yêu cầu của Người
6


không phải là những huấn lệnh tư tưởng, mà đã trở thành chuẩn mực văn hóa.
Người quan tâm triển khai phong trào thi đua nhằm xây dựng những tấm gương
“người tốt, việc tốt”.
1.3. Quan niệm về “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc”
“Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc”, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh là:

“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế”.
Giáo dục, khoa học và văn hóa nói chung, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có
thể trở thành nhân tố động lực thông qua các phương diện sau:
- Trước tiên phải phát động phong trào “diệt giặc dốt”; tức là thực hiện mọi
người đều đi học - học trong nhà trường, trong sản xuất, trong cuộc sống để tiến
lên làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại.
- Xây dựng tâm lý, luân lý như xây dựng phúc lợi cho nhân dân, xây dựng dân
quyền (xây dựng chính trị) và xây dựng kinh tế. Người nói rõ rằng, xây dựng
tâm lý là xây dựng tinh thần độc lập tự cường; xây dựng luân lý là xây dựng
năng lực biết hy sinh, làm lợi cho quần chúng.
- Tâm lý, luân lý nói riêng, văn hóa nói chung thể hiện sâu sắc và tập trung
truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc.
- Do văn hóa tác động vào “mọi phương thức sinh hoạt” nên cần phải kết hợp
khoa học với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; phải thực hiện lồng ghép giá

7


trị văn hóa vào các hoạt động chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và sinh hoạt
của mỗi người.
1.4. Quan niệm về thực hành và tấm gương “người tốt, việc tốt”
nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hành là nhằm xây dựng con người xã
hội chủ nghĩa. Việc coi sinh hoạt thường nhật là một nội dung hoạt động thực
hành - hoạt động vật chất có chủ đích, chứng tỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm

nhuần, vận dụng sáng tạo và phát triển quan niệm của C. Mác (1818 - 1883) về
tính hiện thực trong bản chất tổng hòa các quan hệ xã hội của chủ thể hoạt động
thực hành. Quan niệm “chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta” là nhằm xây
dựng ý thức tự giác của các chủ thể hoạt động thực hành, đặc biệt ở con người
xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động thực hành, theo Người, diễn ra trong mối quan hệ biện chứng
giữa “diện” và “điểm”, cụ thể là giữa việc thực hiện các “công việc hàng ngày”
với phong trào thi đua, giữa tấm gương “người tốt, việc tốt” với người người thi
đua, ngành ngành thi đua, giữa giải phóng và phát triển, nhằm xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa. Thơng qua đó, mới thực hiện được mối quan hệ biện
chứng giữa thực hành và hiểu biết theo vịng xốy ốc đi lên, khơng thể đảo
ngược, với trình độ ngày càng cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc xây dựng tấm gương thực hành và
đoàn kết để thực hành “có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Tấm
gương thực hành được biểu hiện ở những “người tốt, việc tốt” là sự thể hiện
sống động cho sự thống nhất giữa thực tiễn với lý luận. Bởi lẽ, thông qua những
tấm gương người tốt, việc tốt và phong trào thi đua có thể tổng kết thực tiễn; mà
tổng kết thực tiễn chính là vịng khâu trực tiếp để nâng lên thành lý luận.
Tấm gương thực hành còn là biểu hiện thống nhất giữa “biết với làm”,
giữa “lời nói đi đơi với hành động” hay giữa cách nghĩ với cách làm của những
chủ thể hoạt động thực hành. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ thực sự là tấm
8


gương thực hành, khi vận động, tổ chức, lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp
nhân dân tham gia vào hoạt động thực hành trong sự nghiệp cách mạng. Vì thế,
tấm gương khơng tách rời đồn kết, và đồn kết là để thực hành. Các tấm gương
và đoàn kết thực hành là động lực thúc đẩy các hoạt động thực hành nhằm xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.


9


CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA
TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRÊN CƠ SỞ TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
2.1. Quan điểm của Đảng về văn hóa từ khi thực hiện cơng cuộc đổi
mới đến nay
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở
đầu công cuộc đổi mới. Đại hội VII tiếp tục chủ trương đổi mới toàn diện, đồng
bộ và triệt để nhằm đưa đất nước đi vào thế ổn định và phát triển. Sau một thời
gian khủng hoảng kinh tế - xã hội và sau những biến động phức tạp của tình
hình chính trị quốc tế, hai kỳ đại hội trên ưu tiên tập trung xác định đường lối
phát triển kinh tế, ổn định xã hội; văn hóa mặc dù được quan tâm phát triển,
nhưng chưa được xem là vấn đề trọng tâm.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 71998) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”, cho thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức
của Đảng về tầm quan trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và
xây dựng Đảng. Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi
hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo
đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cho
sự phát triển xã hội”.
Đại hội IX của Đảngtiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam
phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình,

10


lối sống có văn hóa, quan hệ hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Bước
phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục
tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn
hóa. Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện. Để đạt được mục tiêu đề ra, các chương trình hành động phải
được triển khai đồng bộ, chú trọng việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn
minh và gia đình văn hóa”, phong trào “Người tốt, việc tốt”, làm cho văn hóa
thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người…
Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, những yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách con người
Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,… được khẳng định lại, tiếp nối quan
điểm về văn hóa từ kỳ đại hội trước. Đại hội lần này cũng đề ra u cầu đa dạng
hóa các hình thức hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống…
Đại hội XI khẳng định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, coi “con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc,

đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(2). Đại hội đề ra mục tiêu cho giai

11


đoạn tiếp theo là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia
đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo
đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã khẳng định mục tiêu:
xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến
chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh
nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Văn hóa
tiếp tục là vấn đề quan trọng, có tính thời sự và dành được sự quan tâm sâu sắc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa và mục tiêu “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc”. Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người có
bước chuyển biến quan trọng: Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với
nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng mơi trường văn hóa với
xây dựng con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với
các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng
tạo, khát vọng vươn lên. Mục tiêu được đề ra là: Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, trong đó, “xây dựng con người

Việt Nam phát triển toàn diện”phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát
triển.

12


2.2. Kết quả đạt được
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nhấn mạnh đến phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người Việt Nam. Quan
điểm này tiếp tục được khẳng định trong các giai đoạn tiếp theo và các chương
trình hành động tương ứng được triển khai nhằm đạt mục tiêu đặt ra... Trong đó,
phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”được khởi xướng và
phát động từ năm 2000 với mục đích tạo dựng mơi trường văn hóa lành mạnh,
giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống. Cùng với việc phát động phong
trào là việc thành lập ban chỉ đạo xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương để
triển khai thực hiện.
2.3. Hạn chế
Mặc dù phong trào “Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã
góp phần ổn định an ninh chính trị, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành
mạnh, tiến bộ và giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, phong trào vẫn còn những hạn chế. Đại hội X của
Đảng đã đánh giá: “Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng
mức. Tình trạng suy thối, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa
cịn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa
được chú ý đầy đủ, còn nhiều khuyết điểm, bất cập”; phong trào triển khai chưa
đồng đều; hoạt động của ban chỉ đạo ở một số địa phương còn nặng tính hành
chính; cách thức triển khai phong trào cịn có những điểmchưa phù hợp với thực
tiễn, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra.
Tại Đại hội XI của Đảng nhận định, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thơng

tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phong trào từng bước đi vào chiều sâu,
nhưng “văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn
hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản cịn thiếu chặt chẽ. Mơi trường văn hóa bị xâm
13


hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội
phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức,
nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại”.
Đến Đại hội XII, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI đánh giá: “Bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm
chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát
vọng vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa từng bước được tăng
cường… Đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện. Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn
trong cộng đồng. Việc xây dựng mơi trường văn hóa đã được chú trọng hơn”.
“Tuy nhiên, so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ
tầm mức để tác động có hiệu quả xây dựng con người và mơi trường văn hóa
lành mạnh. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hóa
tinh thần ở nhiều nơi cịn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa
giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm
được rút ngắn. Mơi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh,
ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có
chiều hướng gia tăng...”
Tại Đại hội XI và Đại hội XII, văn kiện của Đảng đều đánh giá, văn hóa
phát triển chưa tương xứng với các lĩnh vực khác. Một trong những nguyên nhân
quan trọng đó là quan điểm tiếp cận trong xây dựng chính sách và triển khai
hành động cịn nhiều bất cập. Văn hóa ln đa dạng và vận động khơng ngừng.

Mỗi một vùng, miền lại có đặc thù văn hóa riêng và luôn biến đổi theo nhu cầu
của con người - chủ nhân của văn hóa. Tuy nhiên, một số chính sách và việc
triển khai chính sách liên quan đến văn hóa cịn cứng nhắc, chưa phù hợp. Việc
xây dựng một nền văn hóa theo mơ hình chung, khơng căn cứ vào tính đa dạng
và tính thường biến của đối tượng sẽ dẫn đến sựnhất thể hóa, bất biến hóa văn

14


hóa một cách khiên cưỡng. Do đó, các chính sách đưa ra cần phù hợp với
nguyên tắc tôn trọng đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền cụ thể và tơn trọng
quyền tự chủ của người dân. Nói cách khác, các chính sách này nên được xây
dựng trên tinh thần “tạo điều kiện”, chứ không phải “làm thay” như trước. Cần
tạo điều kiện để người dân tham gia một cách chủ động, tích cực vào việc xây
dựng, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa.Nhà nước chỉ đóng vai trị hỗ trợ,
bởi xét đến cùng, văn hóa là của nhân dân, do nhân dân sáng tạo nên.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền văn hóa mới cần hội tụ
tính dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong đó, nền văn hóa mang tính đại chúng
được hiểu là nền văn hóa do nhân dân xây dựng. Ở góc độ này, việc xây dựng
con người là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nhìn cụ thể hơn vào mục tiêu xây dựng
con người Việt Nam, vốn đã được xác định là nhiệm vụ hàng đầu trong các
nhiệm vụ về văn hóa, có thể thấy nhữngkết quả đạt được chưa như mong muốn.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII lần đầu đặt ra yêu cầu việc xây dựng con
người Việt Nam đi liền với xây dựng nền văn hóa dân tộc. Các kỳ đại hội tiếp
theo xác định cụ thể hơn vấn đề này. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã khẳng
định, việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một
mục tiêu của chiến lược phát triển, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu trong
các mục tiêu, nhiệm vụ về văn hóa. Tuy vậy, kết quả thực hiện còn nhiều hạn
chế. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng

viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn
xã hội cịn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng”.
2.4. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, yếu kém trên là:
- “Do nhiều cấp uỷ, chính quyền nhận thức chưa đúng tầm quan trọng và chưa
quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể
hóa, thể chế hóa nghị quyết của Đảng cịn chậm, thiếu đồng bộ. Công tác quản
15


lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí
bng lỏng. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải”.
- Đối với việc xây dựng con người Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng, đó là do hệ
thống giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu. “Xét cho đến cùng, những sai lầm,
khuyết điểm, hạn chế của con người Việt Nam nói chung đều là do những sai
lầm, khuyết điểm, hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực này
mà ra”. Con người là kết quả q trình xã hội hóa thơng qua giáo dục từ gia
đình, nhà trường và xã hội, là nền tảng để tạo nên con người văn hóa. Với tư
cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, mỗi cá nhân trong cộng đồng sẽ góp phần tạo
nên văn hóa của cộng đồng.
- Mặt khác, văn hóa ln mang tính đa dạng và biến đổi, nhưng các chính sách
về văn hóa lại chưa quan tâm đúng mức đến sự đa dạng văn hóa ở một đất nước
vốn có nhiều dân tộc và nhiều vùng địa lý mang những đặc điểm khác biệt.
2.5. Giải pháp
Một là, nâng cao nhận thức về vai trị của văn hóa đối với sự nghiệp xây
dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong bối cảnh hiện nay cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn
bộ xã hội về tầm quan trọng của văn hóa, cả về lĩnh vực lý luận và hoạt động
thực tiễn, nhất là việc thực hành các giá trị văn hóa trong nhân dân, trước tiên
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó:

- Cùng với việc tiếp tục nghiên cứu lý luận theo hướng tăng cường gắn với thực
tiễn, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục các giá trị văn hóa, mà
cụ thể là các chuẩn mực văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong tồn xã hội,
trước tiên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là các cấp lãnh đạo, quản lý.
- Cần đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ, bởi, thanh niên,
cịn là những nhân cách đang định hình. Và cũng cần phải đặc biệt chú trọng
tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ lao động khu vực ngoài quốc doanh, khu vực

16


có vốn đầu tư nước ngồi, vùng sâu, vùng xa. Vì ở những khu vực này trình độ
học vấn, trong đó có nhận thức về tư tưởng, chính trị, cịn hạn chế.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của
Nhà nước, vai trò của của các đoàn thể nhân dân, đồng thời, đẩy mạnh cơng tác
xã hội hóa trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc
Tập trung xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó hình thành, phát triển “văn
hóa Đảng” và mỗi cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, “đảng viên đi
trước, làng nước đi sau”. Đồng thời, đưa văn hóa vào q trình xây dựng, triển
khai tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm sao để
mỗi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, từ khâu xây dựng đến khâu
triển khai tổ chức, thực hiện đều được thẩm thấu và thấm sâu các giá trị văn hóa,
có sức lay động lịng người.
Xây dựng, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, đưa văn hóa vào q
trình xây dựng, triển khai tổ chức, thực hiện pháp luật của Nhà nước để pháp
luật thực sự nghiêm minh và công minh theo nguyên tắc “không trừ một ai” (Hồ
Chí Minh); trên cơ sở đó, lối sống của nhân dân tuân theo “trăm điều phải có
thần linh pháp quyền” (Hồ Chí Minh).

Phát huy vai trị của của các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh, là “cải cách hành chính” đối với các đồn thể nhân dân, trước tiên là các
tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, để các tổ chức này thực sự là
tổ chức nhân dân hay tổ chức có tính tự quản. Nhờ đó, chúng thực hiện vai trị là
tiếng nói về tư tưởng, tình cảm của nhân dân thuộc các thành phần kinh tế, các
giai tầng xã hội khác nhau; đồng thời, đóng vai trị phản biện trong khn khổ
Hiến pháp, pháp luật có tính xây dựng đối với các đường lối, chủ trương, chính

17


sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện một đảng cầm quyền
ở nước ta.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa để văn hóa thực sự phát triển ngày càng
rộng, càng sâu do nó là kết quả của “ý Đảng lịng dân”, chứ khơng phải là sản
phẩm của “kế hoạch hóa”. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa khơng chỉ đóng
khung ở việc góp tiền, mà được phát triển trên cơ sở “Nhà nước và nhân dân
cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng làm”, từ khâu quy hoạch đến khâu
triển khai tổ chức, thực hiện các cơng trình văn hóa và các phong trào văn hóa,
trước hết từ cơ sở. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa theo phương châm Hồ Chí
Minh là: thực hành dân chủ, quản lý dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân; trong cơng tác khơng gị ép, mệnh lệnh, quan liêu; quét sạch nạn quan liêu,
tham ô, hối lộ; đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, gắn liền với thực hành tiết
kiệm (chứ không nên tổ chức lễ hội tràn lan như hiện nay).
Ba là, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Với tư cách là chủ thể của hoạt động thực hành, con người, theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, có nhân cách với những “tính cách riêng”, “sở trường riêng”,
quyền lợi riêng, đời sống riêng. Người cho rằng, người ta ai cũng có tính tốt và

tính xấu. Thiện và ác khơng phải tự nhiên có, mà “phần lớn do giáo dục mà ra”.
Vì vậy, phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi. Thơng qua đó, đào tạo, giác ngộ con người có
phẩm chất cao đẹp, có trình độ phát triển toàn diện, để trở thành những con
người xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “... chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng
được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”(8).
Nhưng để có “con người xã hội chủ nghĩa” trong q trình xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, cần phải “trồng người” và phải biết phát huy nhân tố con người.
18


-Thực tiễn xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam đặt ra nhiều thách thức
trong giai đoạn mới. Đảng ta ln khẳng định quan điểm văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển bền vững đất nước, con
người là trung tâm trong chiến lược phát triển. Chủ trương, đường lối của Đảng
về phát triển văn hóa là nền tảng vững chắc để tạo ra những chuyển biến tích
Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc chỉ có thể phát triển bền vững và phát huy
đầy đủ bản sắc của nó trên cơ sở tiếp thu được những tinh hoa trí tuệ của lồi
người, nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng
không thể tách khỏi quan hệ với thế giới. Bởi xu thế tồn cầu hóa đang diễn ra là
tất yếu xu thế đó là khách quan, mang tính thời đại. Hơn nữa, tồn cầu hóa là
một q trình đầy mâu thuẩn, phức tạp, mặt tất yếu kỹ thuật, kinh tế là mặt tích
cực có lợi ta phải tận dụng, song cũng không thể bỏ qua mặt xã hội kinh tế, mặt
bản chất giai cấp của q trình tồn cầu hóa.
u cầu đó địi hỏi phải qn triệt sâu sắc di sản văn hóa Hồ Chí Minh. Tăng
cường và đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát
huy vai trị của các đồn thể nhân dân đối với các hoạt động văn hóa, xã hội,
đồng thời tạo nên sự tham gia tích cực hơn nữa của tồn xã hội trong cơng tác

này. Trước những yêu cầu bức xúc của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi phải quan tâm
sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nhằm xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu khách quan.
cực trong xây dựng nền văn hóa và con người hiện nay.

19


KẾT LUẬN
Văn hoá Việt Nam là thành quả gắn liền với quá trình lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết
quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để khơng
ngừng hồn thiện mình. Văn hố Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách,
bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Bản sắc văn hoá
Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều với lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Tuy nhiên, bản sắc văn hố khơng phải là một hằng số, là những
giá trị bất biến, mà có những giá trị mới được hình thành, bồi tụ trong từng giai
đoạn kế tiếp nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước ta đang tiến tới xây dựng một
nền kinh tế mở, hội nhập thế giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện
đại, biến chuyển nhanh chóng, đang diễn ra q trình tồn cầu hố, sự hội nhập
khu vực và thế giới với một tốc độ rất nhanh, từ đó nẩy sinh nhu cầu mở rộng
giao lưu các nền văn hố. Trong khi chú trọng giữ gìn, phát huy các truyền
thống văn hoá tinh thần tốt đẹp, văn hoá Việt Nam từng bước mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp thụ những tinh hoa thế giới và thời đại. Nền văn hoá của chúng ta
sẽ đa dạng hơn, phong phú hơn, tiên tiến hơn nhờ hấp thụ được những yếu tố
lành mạnh của thời đại.
Vì vậy, xây dựng nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất đa dạng, thấm nhuần sau sắc tinh thần nhân văn, dân chủ
tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã

hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, là một trong những
định hướng lớn trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII của Đảng”, Văn kiện
Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI),
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013
2. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Sđd
3. Hồ Chí Minh, Tồn tập, sđd, T. 4.
4. Hồ Chí Minh, Tồn tập, sđd, T. 3.
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, sđd, T. 8.

21



×