Tải bản đầy đủ (.doc) (233 trang)

BÀI GIẢNG KINH TẾ VĨ MÔ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 233 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ

BÀI GIẢNG
KINH TẾ HỌC

NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG
20014

1


LỜI NĨI ĐẦU
Kinh tế học là mơn khoa học xã hội nghiên cứu những sự lựa
chọn mà các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ và tồn xã hội đưa ra
khi trong thực tế họ khơng có được mọi thứ như mong muốn.
Theo truyền thống , kinh tế học được chia thành hai nhánh chính:
kinh tế học vi mơ và kinh tế học vĩ mô. Đối với sinh viên khối kinh tế,
đây là môn học cơ sở, cung cấp khung lý thuyết cho các môn định
hướng ngành và kinh tế ngành.
Cuốn sách này bao gồm 10 chương.
Chương 1: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ

Chương 2: Đo lường các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản
Chương 3: Tăng trưởng kinh tế
Chương 4: Thất nghiệp
Chương 5: Tổng cầu và tổng cung
Chương 6: Tổng cầu
Chương 7: Tiền tệ và hoạt động ngân hàng
Chương 8: Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
Chương 9: Lạm phát


Chương 10: Kinh tế học vĩ mô về nền kinh tế mở
Kinh tế học là lĩnh vực khoa học phức tạp và còn nhiều mới mẻ.Mặc
dù tác giả đã hết sức cẩn trọng trong q trình biên soạn, nhưng chắc
chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tơi mong nhận được sự
đóng góp và phê bình từ các độc giả để cuốn sách được hoàn thiện hơn
trong các lần tái bản sau.

2


CHƯƠNG 1
ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CỦA KINH TẾ HỌC
Chương 1 giới thiệu tổng quát về môn học. Bạn sẽ được giới thiệu
những vấn đề then chốt mà kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu. Các
chương tiếp theo sẽ đi sâu nghiên cứu giải thích những vấn đề này.
Phương pháp tiếp cận của vấn đề kinh tế học vĩ mơ được trình bày
trong phần cuối của chương. Với tư cách là một phân nhánh của kinh tế
học, chúng ta không thể nghiên cứu kinh tế học vĩ mô một cách riêng rẽ
và độc lập. Nhiều nội dung trong chương này khơng chỉ bó hẹp trong
phạm vi nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô mà chúng ta xem xét trong
một khung khổ rộng hơn của kinh tế học. Trước tiên chúng ta cần hiểu
kinh tế học là gì và tại sao kinh tế học thường được chia thành hai phân
nhánh: kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mơ.
I. Kinh tế học là gì ?
Vấn đề kinh tế mà cá nhân cũng như xã hội phải đối mặc là nhu cầu
thường vượt quá khả năng đáp ứng. Chẳng hạn một trong những vấn đề
kinh tế mà mỗi cá nhân phải giải quyết là sử dụng nguồn thu nhập có
hạn như thế nào. Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, nhìn chung chúng ta
khơng thể mua được mọi thứ như mong muốn. Hầu hết mọi người đều

muốn tăng số lượng và chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà họ tiêu dùng ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, ở trong các căn hộ sang trọng và đầy đủ tiện
nghi hơn, đi du lịch nhiều hơn, ... Sở dĩ chúng ta tiêu dùng ít hơn mức
mong muốn là do tiêu dùng của chúng ta bị giới hạn bởi thu nhập. Nói
cách khác, người tiêu dùng vấp phải giới hạn về khả năng chi trả được
gọi là giới hạn ngân sách. Khi quyết định đi du lịch nhiều hơn, thì phần
ngân sách của bạn cịn lại để chi cho các nhóm hàng khác sẽ ít hơn.
Xã hội cũng phải đối mặt với những vấn đề nan giải tương tự; nhu
cầu của các thành viên luôn lớn hơn khả năng đáp ứng những nhu cầu
này. Để thỏa mãn nhu cầu cho mọi người dân, xã hội phải sử dụng các
nguồn lực, tức các đầu vào được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa và
dịch vụ. Theo truyền thống, các nhà kinh tế thường chia các nguồn lực
3


này thành 4 loại: lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri thức
công nghệ. Lao động là hoạt động của con người – cả trí óc và chân tay
– phục vụ cho quá trình sản xuất. Tư bản phản ánh những phương tiện
do con người sản xuất ra, bao gồm trang thiết bị và nhà xưởng. Tài
nguyên thiên nhiên bao gồm các nguyên vật liệu như gỗ, nước, khoáng
sản và các yếu tố đầu vào khác mà tự nhiên ban cho, tri thức công nghệ
là sự hiểu biết của xã hội về cách tốt nhất để sản xuất ra hàng hóa và
dịch vụ.
Khi xét trong mối quan hệ với mong muốn vơ hạn của các thành
viên, thì nguồn lực của mọi xã hội đều có giới hạn, hay khan hiếm.Tại
bất kỳ thời điểm nào, ngay cả các nền kinh tế giàu có nhất thế giới cũng
chỉ sẵn có một lượng nhất định về nguyên liệu thô, lao động và trang
thiết bị tại một trình độ cơng nghệ xác định để phục vụ cho q trình
sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Do vậy, khả năng của một nền kinh tế
trong việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ là có giới hạn.
Do khơng thể thoải mãn được mọi nhu cầu buộc chúng ta phải lựa

chọn sử dụng tốt nhất các nguồn lực khan hiếm. Đó chính là mối quan
tâm hàng đầu của kinh tế học. Do vậy chúng ta có thể định nghĩa kinh
tế học là mơn học nghiên cứu cách thức xã hội sử dụng các nguồn lực
khan hiếm nhằm thoải mãn các mong muốn vô hạn theo cách tốt nhất
có thể
Phân tích chi phí – lợi ích và chi phí cơ hội
Để có được sự lựa chọn tốt, chúng ta phải so sánh các chi phí và lợi
ích gắn với mỗi phương án có thể lựa chọn. Một quyết định hay lựa
chọn cụ thể sẽ cải thiện phúc lợi của chúng ta chỉ khi lợi ích đem lại lớn
hơn chi phí thực hiện quyết định đó, tức là chỉ khi những gì mà chúng
ta thu được lớn hơn những gì mà chúng ta bỏ qua. Mọi cá nhân, doanh
nghiệp, và thậm chí mọi chính phủ đều quan tâm đến phân chi phí – lợi
ích – một sự so sánh chi phí và lợi ích giữa các phương án khác nhau –
trước khi quyết định có thực hiện một hoạt động hay khơng.
So sánh chi phí và lợi ích dường như là một q trình tương đối đơn
giản. tuy nhiên, thực tế không phải bao giờ cũng như vậy. Trong một số
trường hợp, chi phí và lợi ích mang tính chủ quan và rất khó so sánh.
4


Trong một số trường hợp khác, có những chi phí hoặc lợi ích ẩn và do
đó rất dễ bị bỏ qua.
Một trong những bài học cơ bản của kinh tế học tất cả các lựa chọn
của chúng ta đều chứa đựng chi phí. Đúng như câu ngạn ngữ Anh :
“Chẳng có gì là cho khơng cả”1. Để có được một thứ ưa thích, chúng ta
thường phải bỏ một thứ khác mà mình cũng thích. Ra quyết định địi
hỏi phải đánh đổi mục tiêu này để đạt được mục tiêu khác. Phương án
thay thế tốt nhất hay có giá trị nhất, mà bạn phải từ bỏ để thực hiện một
hành động cụ thể nào đó được gọi là chi phí cơ hội của hành động đó.
Chẳng hạn, chúng ta xem xét quyết định liệu có nên đi học đại học

hay khơng. Lợi ích của việc học đại học là làm giàu thêm kiến thức và
có được những cơ hội làm việc tốt hơn trong cả cuộc đời. Nhưng chi
phí của nó là gì ? Có thể bạn sẽ cộng số tiền chi tiêu cho học phí, sách
vở và ăn uống lại với nhau. Nhưng con số này không thực sự biểu thị
những gì bạn từ bỏ để theo học đại học.
Câu trả lời trên có vấn đề vì nó bao gồm cả một số thứ khơng thực
sự là chi phí của việc học đại học ngay cả khi không học đại học, bạn
vẫn cần một chỗ để ngủ và lương thực, thực phẩm để ăn. Tiền ăn ở tại
trường đại học chỉ là chi phí của việc học đại học khi nó đắt hơn những
nơi khác. Dĩ nhiên, tiền ăn ở tại trường đại học cũng có thể rẻ hơn tiền
thuê nhà và tiền ăn mà bạn tự lo liệu. Trong trường hợp này các khoản
tiết kiệm được về ăn ở lại là một lợi ích của việc theo học đại học.
Các tính tốn chi phí như trên có một khiếm khuyết khác nữa là nó
bỏ qua khoản chi phí lớn nhất của việc theo học đại học – đó là thời
gian của bạn. Khi dành bốn năm để nghe giảng, đọc giáo trình, tài liệu
tham khảo và viết tiểu luận, bạn không thể sử dụng quãng thời gian này
để làm việc kiếm tiền. Đối với nhiều sinh viên, khoản tiền lương phải từ
bỏ để đi học đại học chính là khoản chi phí lớn nhất.
Khi hội đồng thành phố hay thị trấn nơi bạn ở họp để quyết định
phân bổ ngân sách cho việc xây dựng một công viên, họ có thể phải từ
bỏ việc mua sách cho thư viện cộng đồng, lắp đèn đường hoặc xây
dựng hay nâng cấp trường học. Bất kì những gì mà hội đồng có thể lựa
chọn nếu không xây dựng công viên này đều được xem là chi phí cơ
hội của việc xây dựng cơng viên đó. Khi Quốc hội tranh luận về quy
1

There is no such thing as a free lunch

5



mơ ngân sách dành cho quốc phịng, kết quả của cuộc tranh luận này sẽ
ảnh hưởng đến mỗi chúng ta. Nếu các nguồn lực của mỗi quốc gia được
sử dụng hết thì việc tăng hàng hóa và dịch vụ qn sự sẽ dẫn đến việc
giảm sản lượng của các hàng hóa khác. Tăng chi tiêu quân sự có thể
dẫn tới cắt giảm chi tiêu cho đào tạo nghề, làm đường hay hổ trợ giáo
dục; nó có thể dẫn tới việc tăng thuế và làm giảm chi tiêu của khu vực
tư nhân và giảm mức sản xuất hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, đều này
khơng có nghĩa là chúng ta phải cắt giảm chi tiêu quân sự. Thông điệp
chủ yếu rút ra là chúng ta nên nhận thức đầy đủ việc tăng chi tiêu quân
sự sẽ gây ra cho chúng ta những chi phí gì đối với việc sản xuất các
hàng hóa và dịch vụ cá nhân, hoặc đối với các chương trình khác của
chính phủ. Quan điểm của các nhà kinh tế ở đây là chúng ta không thể
đưa ra được những lựa chọn tốt nhất về việc sử dụng các nguồn lực
khan hiếm của mình, nếu như chúng ta khơng biết các chi phí và lợi ích
đích thực của các quyết định đó.
Ba vấn đề kinh tế cơ bản
Thực tế là nhu cầu khơng có giới hạn trong khi nguồn lực kinh tế chỉ
có hạn đã buộc các xã hội phải đưa ra các quyết định liên quan đến ba
sự lựa chọn cơ bản sau : (1) Chúng ta sẽ sản xuất những loại hàng hóa
và dịch vụ nào? (2) sản xuất những hàng hóa và dịch vụ này như thế
nào? (3) những hàng hóa và dịch vụ này được sản xuất ra cho ai – tức
là, những hàng hóa này được phân phối như thế nào?
Sản xuất cái gì ?
Bởi vì khơng một xã hội nào có thể sản xuất được mọi thứ như mong
muốn, nên mỗi xã hội phải sắp xếp, đánh giá nhiều nhu cầu khác nhau
và sau đó quyết định đem sản xuất những hàng hóa và dịch vụ nào với
số lượng bao nhiêu. Trong đều kiện nguồn lực khan hiếm xã hội không
chỉ cần phân bổ nguồn lực giữa sản xuất hàng hóa cho tiêu dùng hiện
tại và để đầu tư cho tương lai, mà đồng thời cịn phải xác định một cách

chính xác những hàng đầu tư và tiêu dùng cụ thể nào sẽ được sản xuất.
Ví dụ, xã hội phải quyết định xem nền sản xuất quần áo hay sử dụng
nguồn lực khan hiếm của mình cho các mục đích khác. Tiếp đó xã hội
phải quyết định loại quần áo nào sẽ được sản xuất - bao nhiêu sơ mi,
quần âu, áo khoác và những loại khác. Cuối cùng, xã hội phải quyết
6


định sản xuất những kích cở nào và mỗi loại với số lượng bao nhiêu.
Chỉ sau khi đã xem xét các phương án có thể mới quyết định nền sản
xuất những hàng hóa và dịch vụ nào.
Sản xuất như thế nào ?
Sau khi quyết định hàng hóa gì, mỗi xã hội còn phải quyết định sử
dụng những nguyên vật liệu và phương pháp sản xuất nào. Trong hầu
hết các trường hợp, người ta có thể sản xuất ra một hàng hóa hoặc dịch
vụ nào đó bằng nhiều cách khác nhau. Ví dụ, áo sơ mi có thể sử dụng
chất lượng vải là cơ-tơng, len hoặc sợi tổng hợp. Nó có thể được khâu
hoàn toàn bằng tay, một phần bằng tay, hoặc tồn bộ bằng máy. Nó có
thể đóng gói bằng giấy ni-lơng hoặc kết hợp nhiều vật liệu khác nhau.
Nó có thể được vận chuyển bằng xe tải, tàu hỏa, tàu thủy hoặc máy bay.
Nói tóm lại nhà sản xuất phải lựa chọn một trong nhiều phương án khác
nhau về chất liệu, phương pháp sản xuất và phương tiện vận chuyển.
Sản xuất cho ai
Cuối cùng, mỗi xã hội phải quyết định phân phối, tức phân chia số
hàng hóa có hạn của mình như thế nào cho các thành viên muốn sử
dụng chúng. Mỗi người sẽ nhận được một phần như nhau trong tổng
hàng hóa của xã hội? hay người nào đóng góp nhiều hơn sẽ nhận được
nhiều hơn? thế cịn những người khơng tham gia sản xuất thì sao, do họ
không thể lao động hoặc không muốn lao động? họ sẽ nhận được bao
nhiêu? trong việc quyết định như thế nào – hàng hóa sẽ được phân chia

ra sao – các xã hội khác nhau chịu ảnh hưởng của truyền thống và các
giá trị văn hóa của họ.
Thị trường hay chính phủ
Sự sụp đổ của mơ hình kế hoạch hóa tập trung với sự tuyệt đối hóa
vai trị của chính phủ trong nền kinh tế có lẽ là thay đổi quan trọng nhất
trên thế giới trong nửa thế kỷ qua. Ngày nay, hầu hết các nước đã từng
thực hiện mô hình kế hoạch hóa tập trung đều đã từ bỏ hệ thống này và
đang nổ lực phát triển kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường,
quyết định của các nhà làm kế hoạch trung ương được thay thế bằng
quyết định của hàng triệu doanh nghiệp và hộ gia đình. Các doanh
nghiệp quyết sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào,
7


và bán hàng hóa cho ai. Người lao động quyết định làm cái gì, cho
doanh nghiệp nào và dành bao nhiêu thu nhập cho tiêu dùng hiện tại và
để lại bao nhiêu cho tương lai. Các doanh nghiệp và hộ gia đình tương
tác với nhau trên thị trường, nơi mà giá cả và lợi ích riêng định hướng
cho các quyết định của họ.
Mới nhìn qua thì thật khó có thể hình dung thành cơng vượt trội của
các nền kinh tế thị trường so với mơ hình kế hoạch hóa tập trung. Xét
cho cùng thì trong nền kinh tế thị trường, khơng ai phụng sự cho lợi ích
chung của tồn xã hội. Thị trường tự do bao gồm nhiều người mua và
nhiều người bán vơ số hàng hóa và dịch vụ khác nhau, và tất cả mọi
người quan tâm trước hết đến lợi ích riêng của họ. Song cho dù ra quyết
định có tính chất phân tốn và những người ra quyết định chỉ quan tâm
tới lợi ích riêng của mình, thì nền kinh tế thị trường đã chứng tỏ sự
thành công lạ thường trong việc tổ chức hoạt động kinh tế theo hướng
thúc đẩy phúc lợi kinh tế chung của cả xã hội.
Nếu như bàn tay vơ hình của thị trường có sức mạnh kỳ diệu đến

vậy, thì tại sao chúng ta lại cần chính phủ ? Một lý do là bàn tay vơ hình
cần được chính phủ bảo vệ thị trường chỉ hoạt động nếu như quyền sở
hữu được tôn trọng. Tất cả chúng ta đều dựa vào công an và tịa án do
chính phủ cung cấp để thực thi quyền của chúng ta đối với những thứ
do chúng ta tạo ra.
Một lý do khác cần đến chính phủ là mặc dù thị trường cần là một
phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế, nhưng quy tắc cũng có
một số ngoại lệ quan trọng. Có hai nguyên nhân chủ yếu để chính phủ
can thiệp vào nền kinh tế là thúc đẩy hiệu quả và sự công bằng. Nghĩa
là, hầu hết các chính sách đều hoặc nhằm vào mục tiêu làm cho nền
kinh tế tăng trưởng, hoặc làm thay đổi cách thức phân chia thu nhập tạo
ra.
Bàn tay vơ hình thường dẫn dắt thị trường phân bổ nguồn lực một
cách có hiệu quả. Song trong một số trường hợp, bàn tay vơ hình khơng
vận hành tốt. Các nhà kinh tế học sử dụng thuật ngữ thất bại thị trường
để chỉ tình huống mà thị trường tự nó thất bại trong việc phân bố nguồn
lực có hiệu quả. Thị trường có thể thất bại do hành động của một cá
nhân (hay một tổ chức ) tác động đến phúc lợi của người ngoài cuộc
8


như ơ nhiễm; hoặc một người (hay một nhóm người) có sức mạnh thị
trường; hay giá cả khơng linh hoạt gây ra biến động kinh tế trong ngắn
hạn,...
Bàn tay vô hình thậm chí có ít khả năng hơn trong việc đảm bảo
rằng trong sự thịnh vượng kinh tế được phân phối một cách công bằng.
Nền kinh tế thị trường thưởng công cho mọi người dựa thên năng lực
của họ trong việc sản xuất ra những thứ mà người khác sẵn sàng trả giá.
Tuy nhiên, bàn tay vơ hình khơng thể đảm bảo rằng tất cả mọi người có
đủ lương thực để ăn, quần áo để mặc và sự chăm sóc y tế cần thiết. một

mục tiêu của chính sách cơng cộng, chẳng hạn chính sách thuế thu nhập
và hệ thống các phúc lợi xã hội, là đạt được sự phân phối các phúc lợi
kinh tế một cách công bằng hơn.
Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều phát triển theo mơ hình
kinh tế hỗn hợp, trong đó cả nhà nước và thị trường cùng điều tiết nền
kinh tế nhằm khai thác triệt để những lợi thế, đồng thời tránh được hoặc
giảm thiểu những thất bại của chính phủ lẫn thị trường.
II. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
Theo truyền thống, kinh tế học được chia thành kinh tế học vi mô và
kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô là môn học nghiên cứu cách thức
ra quyết định của hộ gia đình và doanh nghiệp cũng như sự tương tác
giữa họ trên các thị trường cụ thể. Kinh tế học vi mô nhấn mạnh đến sự
ôm hiểu chi tiết về các thị trường cụ thể. Để có được mức độ chi tiết
này, nhiều tương tác với thị trường khác bị bỏ qua.
Kinh tế học vĩ mô ngjhiên cứu hoạt động của tổng thể nền kinh tế.
Hàng ngày tại mỗi quốc gia có hàng triệu quyết định kinh tế được
người tiêu dùng, các hãng sản xuất, cơng nhân, các viên chức chính phủ
đưa ra. Kinh tế học vĩ mơ xem xét, phân tích và đánh giá kết quả tổng
hợp của tất cả các hoạt động cá nhân này. Ví dụ, trong một tháng nào
đó, hàng ngàn doanh nghiệp có thể tăng giá cho các sản phẩm của
mình, trong khi nhiều doanh nghiệp khác lại giảm giá. Để hiểu được sự
thay đổi giá cả nói chung, kinh tế học vĩ mơ sẽ xem xét sự biến động
của mức giá

9


Trung bình chứ khơng phải giá cả của từng mặt hàng hay từng nhóm
hàng. Tương tự như vậy, trong kinh tế học vĩ mô chúng ta quan tâm đến
tổng sản lượng của nền kinh tế, chứ không phải là sản lượng của từng

hàng hóa đơn lẻ.
Như vậy, cách tiếp cận cơ bản trong kinh tế học vĩ mô là xem xét
những xu hướng chung của nền kinh tế chứ không phải là các vấn đề
liên quan đế từng đơn vị kinh tế đơn lẻ hoặc từng đơn vị hành chính.
Các câu hỏi lớn của đời sống kinh tế được kinh tế vĩ mơ tìm cách giải
đáp như điều gì làm cho một nước giàu hơn hay nghèo đi theo thời
gian? Các công dân của một nước sẽ tiết kiệm bao nhiêu cho tương lai?
Tại sao mức giá ở một số nước có xu hướng tăng trong khi ở các nước
khác giá cả lại ổn định hoặc tăng chậm? Điều gì quyết định giá trị
tương đối giữa tiền của các quốc gia khác nhau? Tại sao Việt Nam
thường nhập khẩu nhiều hơn so với xuất khẩu?
Một nội dung lớn trong nền kinh tế học vĩ mơ là nghiên cứu các
chính sách của chính phủ có ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động
chung của nền kinh tế. Đa số các nhà kinh tế vĩ mô cho rằng những
thay đổi trong các chính sách kinh tế học vĩ mơ có ảnh hưởng rộng
khắp và có thể dự tính được đến chiều hướng chung trong mức sản
xuất, việc làm , mức giá chung và thương mại quốc tế. Nhiều nhà kinh
tế cho rằng chính phủ cần chủ động sử dụng các chính sách kinh tế vĩ
mô để cải thiện thành tựu kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, một số các nhà kinh
tế khác lại cho rằng mối liên kết giữa các chính sách này với nền kinh
tế là không ổn định và không dự tính được nên khơng thể sử dụng để
quản lý nền kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô và kinh tế vi mơ có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ
với nhau. Vì những thay đổi trong nền kinh tế phát sinh từ các quyết
định của hàng triệu cá nhân, nên chúng ta không thể hiểu được các hiện
tượng kinh tế vĩ mơ nếu khơng tính đến các quyết định kinh tế vi mô.
Chẳng hạn, một nhà kinh tế vĩ mô có thể nghiên cứu ảnh hưởng của
biện pháp cắt giảm thuế thu nhập đối với mức sản xuất hàng hóa và
dịch vụ của nền kinh tế. Để phân tích vấn đề này, anh ta phải xem xét
ảnh hưởng của biện pháp cắt giảm thuế đối với quyết định chi tiêu mua

hàng hóa và dịch vụ của các hộ gia đình
10


Mặt dù có mối liên kết chặt chẽ giã kinh tế học vĩ mô với kinh tế học
vi mô, hai lĩnh vực nghiên cứu này vẫn có sự khác biệt. kinh tế học vi
mô và kinh tế học vĩ mô xử lý các vấn đề khác nhau, đôi khi họ sử dụng
những phương pháp tiếp cận hồn tịan khác nhau và thường được
giảng dạy thành hai môn riêng biệt trong các khóa học.
III. Một số vấn đề kinh tế vĩ mô then chốt :
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên
cứu bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân
thương mại của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải
đáp các câu hỏi như: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số
này? Điều gì làm cho các biến số này thay đổi theo thời gian ? Thực
chất chúng ta khảo sát mỗi biến số này trong những khoản thời gian
khác nhau: hiện tại, ngắn hạn và dài hạn. Mỗi khoản thời gian địi hỏi
chúng ta phải sử dụng các mơ hình thích hợp để tìm ra các nhân tố
quyết định các biến kinh tế vĩ mô này.
Một trong những thước đo quan trọng nhất về thành tựu kinh tế vĩ
mô của quốc gia là tổng sản lượng trong nước (GDP). GDP đo lường
tổng sản lượng và tổng thu nhập của mỗi quốc gia. Phần lớn các nước
trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các nhà kinh tế
vĩ mơ tìm cách giải thích sự tăng trưởng này. Nguồn gốc của tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn là gì ? Tại sao một nước tăng trưởng
nhanh hơn các nước khác ? Liệu chính sách của chính phủ có thể ảnh
hưởng đế tăng trưởng kinh tế dài hạn của một nền kinh tế hay không ?
Mặt dù tăng trưởng kinh tế là hiện tượng phổ biến trong dài hạn
nhưng sự tăng trưởng này có thể khơng ổn định giữa các năm. Trên
thực tế, GDP có thể giảm trong một thời kì. Nhũng biến động ngắn hạn

của GDP được gọi là chu kỳ kinh doanh. Hiểu biết về chu kỳ kinh
doanh là một mục tiêu chính của kinh tế học vĩ mô. Tại sao các chu kỳ
kinh doanh lại xuất hiện ? Các lực lượng kinh tế nào gây ra sự suy giảm
tạm thời trong mức sản xuất, các lượng nào làm cho nền kinh tế phục
hồi ? phải chăng các chu kỳ kinh doanh gây ra bởi các sự kiện khơng
dự tính được hay chúng bắt nguồn từ các lực lượng nội tại có thể dự
tính trước được ? Liệu chính sách của chính phủ có thể sử dụng để làm
dịu bớt hay triệt tiêu những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế hay
11


không ? Đây là những vấn đề lớn đã được đưa ra và ít nhất cũng đã
được giải đáp một phần bởi kinh tế học vĩ mô hiện đại.
Thất nghiệp là biến số then chốt thứ hai mà kinh tế học vĩ mô quan
tâm nghiên cứu. Tỷ lệ thất nghiệp đo lường số người khơng có việc làm
và đang tích cực tìm việc tính theo tỷ lệ phần trăm so với lực lượng lao
động. Sự biến động nhắn hạn của tỷ lệ thất nghiệp liên quan đến những
dao động theo chu kỳ kinh doanh. Những thời kỳ sản lượng giảm
thường đi kèm với tăng thất nghiệp và ngược lại.
Biến số then chốt thứ ba mà các nhà kinh tế vĩ mô đề cập đến là lạm
phát. Lạm phát là hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới trong những
thập kỷ gần đây. Vấn đề đặt ra là điều gì quyết định tỷ lệ lạm phát dài
hạn và những dao động ngắn hạn của lạm phát trong một nền kinh tế?
Sự thay đổi tỷ lệ lạm phát có liên quan như thế nào đến chu kỳ kinh
doanh ? lạm phát có tác động đến nền kinh tế như thế nào và phải chăng
ngân hàng trung ương nên theo đuổi mục tiêu lạm phát bằng khơng ?
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành một trong
những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, tất
cả các nước trên thế giới đều điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa,
giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho

viêc trao đổi hàng hóa, luân chuyển các yếu tố sản xuất như vốn , lao
động và kỷ thuật trên thế giới ngày càng thơng thống hơn, một vấn đề
được kinh tế học vĩ mô hiện đại quan tâm nghiên cứu là cán cân
thương mại. Tầm quan trọng của các cân thương mại là gì và điều gì
quyết định sự biến động của nó trong ngắn hạn và dài hạn ? Để hiểu cán
cân thương mại vấn đề then chốt cần nhận thức là mất cân bằng thương
mại liên quan chặt chẽ với dòng chu chuyển vốn quốc tế .Nhìn chung,
khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế giới bên ngồi so
với xuất khẩu, nước đó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dơi ra
đó bằng cách vay tiền từ thế giới bên ngoài, hoặc phải giảm lượng tài
sản quốc tế hiện đang nắm giữ. Ngược lại, khi xuất khẩu nhiều hơn
nhập khẩu thì nước đó sẽ tích tụ thêm tài sản của thế giới bên ngoài.
Như vậy, nghiên cứu về mất cân bằng thương mại liên quan chặt chẽ
với việc xem xét tại sao các công dân một nước lại đi vay hoặc cho các
công dân nước khác vay tiền.
12


IV. Các nhà kinh tế tư duy như thế nào
Cũng như các lĩnh vực nghiên cứu khác, kinh tế học nói chung và
kinh tế vĩ mơ nói riêng có những cách nói và tư duy riêng. Điều cần
thiết là phải học được các thuật ngữ của kinh tế học bởi vì nắm được
các thuật ngữ này sẽ giúp cho bạn trao đổi với những người khác về các
vấn đề kinh tế một cách chính xác. Phần này sẽ điểm qua phương pháp
tiếp cận của các nhà kinh tế khi nghiên cứu thế giới
Nhà kinh tế với tư cách là nhà khoa học
Các nhà kinh tế cố gắng nghiên cứu đối tượng của mình với tính
khách quan của một nhà khoa học. Phương pháp nghiên cứu nền kinh tế
của họ về cơ bản giống như phương pháp nghiên cứu vật chất của các
nhà vật lý, phương pháp nghiên cứu cơ thể sống của các nhà sinh học:

họ đưa ra các lý thuyết, thu nhập số liệu và sau đó phân tích dữ liệu để
khẳng định hay bác bỏ lý thuyết của mình.
Phương pháp khoa học: quan sát, lý thuyết, tiếp tục quan sát
Tính khoa học của một mơn khoa học được quyết định bởi cách tiếp
cận vấn đề chứ không phải bởi công cụ sử dụng nghĩa là phải phát triển
và kiểm định các lý thuyết về phương thức vận hành của thế giới một
cách khách quan và vô tư. Cũng như các ngành khoa học khác, các nhà
kinh tế quan sát sự kiện, phát triển các lý thuyết và thu nhập dữ liệu để
kiểm định chúng. Ví dụ, khi quan sát lạm phát, các nhà kinh tế phát
hiện thấy lạm phát xuất hiện là do lượng tiền cung ứng quá nhiều. Sau
đó, họ phải thu nhập số liệu về tốc độ tăng cung tiền và lạm phát ở
nhiều quốc gia để xét xem liệu có thực sự tồn tại mối quan hệ giữa
chúng không. Song việc thu nhập số liệu để kiểm định các lý thuyết
kinh tế khó khăn vì các nhà kinh tế thường không tạo ra được số liệu từ
các thực nghiệm. Nghĩa là, các nhà kinh tế không thể thay đổi nền kinh
tế đơn thuần chỉ để kiểm định một lý thuyết. Bởi vậy, các nhà kinh tế
thường sử dụng số liệu được thu nhập từ các sự kiện trong quá khứ.
Vai trò của các giả thiết
Giả thiết được đưa ra để làm cho thế giới dễ hiểu hơn. Nhà vật lý giả
thiết một vật rơi trong chân không khi đo lường gia tốc do lực hấp dẫn
tạo ra. Giả thiết này tương đối chính xác với một hịn đá, nhưng khơng
13


đúng với một quả bóng. Tương tự như vậy, nhà kinh tế sử dụng những
giả thiết khác nhau để lý giải các vấn đề khác nhau Nghệ thuật trong tư
duy khoa học là quyết định đưa ra những giả thiết nào. Giả sử chúng ta
muốn nghiên cứu thêm điều gì sẽ xảy ra đối với nền kinh tế khi chính
phủ thay đổi lượng tiền trong lưu thông. Khi nghiên cứu chúng ta thấy
rằng một điều trong vấn đề quan trọng trong phân tích này là cách thức

phản ứng của giá cả.Nhiều loại giá cả trong nền kinh tế không thay đổi
thường xuyên : giá bán trong các siêu thị khá ổn định, các nhà hàng
không tăng giá vào buổi trưa khi đông khách và giảm giá vào buổi
chiều khi vắng khách ,… Nắm được thực tế này sẽ đưa chúng ta tới
những giả thiết khác nhau khi nghiên cứu ảnh hưởng của sự thay đổi
chính sách trong các khoản thời gian khác nhau. Để nghiên cứu những
ảnh hưởng ngắn hạn của sự thay đổi chính sách, chúng ta có thể giả
thiết rằng giá cả không thay đổi đáng kể. Thậm chí, chúng ta có thể sử
dụng giả thiết cực đoan là giá cả hồn tồn khơng thay đổi. Nhưng để
nghiên cứu những ảnh hưởng dài hạn của chính sách, chúng ta có thể
giả thiết rằng tất cả các loại giá cả đều linh hoạt, tức là thay đổi đủ
mạnh để đảm bảo cho mọi thị trường đều cân bằng. Tương tự như các
nhà vật lý sử dụng các giả thiết khác nhau khi nghiên cứu trạng thái rơi
của hòn đá và quả bóng, nhà kinh tế sử dụng các giả thiết khác nhau khi
nghiên cứu ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn của sự thay đổi cung ứng
tiền tệ.
Các mô hình kinh tế
Mơ hình là sự trừu tượng hóa thế giới hiện thực để làm cơ sở cho
phân tích. Các giáo viên dạy sinh vật ở trường sử dụng bản sao cơ thể
con người làm bằng chất dẻo để giảng phần đại cương về giải phẩu.
Các mơ hình này đơn giản hơn cơ thể của con người thực, nhưng chính
sự đơn giản hóa này làm cho chúng trở nên hữu ích. Các nhà kinh tế mô
phỏng lại nền kinh tế bao gồm các biến quan trọng và loại bỏ các biến
khơng quan trọng. Họ sử dụng mơ hình kinh tế được tạo thành bởi các
đồ thị và phương trình đại số. Chúng dựa trên các các giả thiết quan
trọng đơn giản hóa hiện thực kinh tế. khi sử dụng các mơ hình để phân
tích các vấn đề khác nhau trong suốt cuốn sách này, chúng ta sẽ thấy
rằng tất cả các mơ hình đều được xây dựng trên cơ sở các giả thiết.
Cũng giống như nhà vật lý bắt đầu phân tích trạng thái rơi của hịn đá
14



bằng các giả thiết không tồn tại ma sát, các nhà kinh tế bỏ qua nhiều chi
tiết của nền kinh tế có vai trị thứ yếu đối với vấn đề mà họ quan tâm.
Tất cả các mơ hình cho dù trong lĩnh vực vật lý, sinh học hay kinh tếđều là sự đơn giản hóa hiện thực để giúp chúng ta dể nắm bắt đối
tượng. Việc xác định điều gì nên đưa vào và điều gì khơng nên đưa vào
trong một mơ hình là một nghệ thuật của các nhà kinh tế ; nó địi hỏi
khả năng đánh giá và kỷ sảo của các nhà kinh tế.
Nhà kinh tế với tư cách nhà tư vấn chính sách
Thơng thường các nhà kinh tế được yêu cầu lý giải nguyên nhân gây
ra các hiện tượng kinh tế. Chẳng hạn, họ phải giải thích tại sao lạm phát
lại dâng cao trong năm 2004 ? Đôi khi các nhà kinh tế được đề nghị
đưa ra những khuyến nghị chính sách nhằm cải thiện các kết cục kinh
tế. Khi các nhà kinh tế tìm cách lý giải thế giới, họ đóng vai trị là các
nhà khoa học, cịn khi tìm cách thay đổi thế giới, họ đóng vai trị là nhà
tư vấn chính sách.
Phân tích thực chứng và chuẩn tắc
Các nhà kinh tế tìm cách khám phá xem thế giới kinh tế vận hành
như thế nào, và để theo đuổi mục tiêu này, họ phân biệt giữa hai loại
nhận định: thế giới là gì ? và thế giới cần phải như thế nào ?
Những nhận định mô tả về sự sự vận hành của thế giới được gọi là
nhận định thực chứng. Chúng khẳng định rằng thế giới là như thế nào.
Một nhận định thực chứng có thể đúng hoặc sai. Chúng ta có thể kiểm
định một nhận định thực chứng bằng cách đối chứng với thực tế. Khi
một nhà hóa học làm thí nghiệm trong phịng thí nghiệm, anh ta dùng
các bằng chứng thực nghiệm để kiểm định một nhận định thực chứng.
Những nhận định có tính chất khuyến nghị và trả lời cho câu hỏi thế
giới cần phải như thế nào được gọi là nhận định chuẩn tắc. Khi quốc
hội tranh luận về một đề nghị, suy cho cùng họ tìm cách quyết định
điều đó cần phải như thế nào. Họ đang đưa ra một nhận định chuẩn tắc.

Những nhận định này phụ thuộc vào giá trị và không thể đánh giá
chúng chỉ bằng số liệu. việc quyết định xem chính sách nào tốt và chính
sách nào tồi khơng phải đơn thuần chỉ là một vấn đề thuần túy khoa
15


học. Nó cịn gắn với quan điểm của chúng ta về đạo đức, tơn giáo và
triết lý chính trị.
Để phân biệt giữa nhận định tực chứng và nhận định chuẩn tắc,
chúng ta hãy xét ví dụ sau. Chẳng hạn có hai sinh viên đang tranh luận
về tiền tệ và lạm phát. Dưới đây là một phần trong cuộc trao đổi của họ:
Hùng : Tăng cung ứng tiền tệ gây ra lạm phát
Hương : Chính phủ cần tăng cung tiền
Nhận định của Hùng và Hương khác nhau ở điều mà hai sinh viên
này tìm cách làm. Hùng đang nói như một nhà khoa học : bạn ấy khẳng
định phương thức vận hành của thế giới. Hương đang nói như một nhà
tư vấn chính sách: bạn ấy khẳng định điều mà thế giới cần thay đổi.
Nhận định của Hùng là nhận định thực chứng, còn nhận định của
Hương là nhận định chuẩn tắc.
Nhận định thực chứng và nhận định chuẩn tắc có mối quan hệ với
nhau. Quan điểm thực chứng của chúng ta về phương thức vận hành
của thế giới ảnh hưởng tới quan điểm chuẩn tắc của chúng ta về việc
những chính sách nào là đáng mong muốn. Nếu nhận định của Lan rằng
tăng cung tiền gây ra lạm phát là đúng, nó có thể đưa chúng ta đến bác
bỏ khuyến nghị của Hương là chúng ta nên tăng cung tiền. Song kết
luận chuẩn tắc không phải chỉ được rút ra từ các phân tích thực chứng.
Nó cần tới cả phân tích thực chứng và các đánh giá giá trị.
Trong thực tế, các nhà kinh tế hoạt động với tư cách nhà tư vấn cho
chính phủ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Thủ tướng được các nhà kinh tế
trong Ban Cố Vấn, Bộ Tài Chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng

Nhà Nước Việt Nam, Bộ Tư Pháp,…tư vấn. Quốc hội nhận được sự tư
vấn của các nhà kinh tế trong văn phòng Quốc hội, Ủy ban kinh tế và
ngân sách,…
Tại sao các nhà kinh tế lại bất đồng ?
Việc hoạch định các chính sách nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế
là một trong những ứng dụng quan trọng nhất của lý thuyết kinh tế và là
chức năng quan trọng nhất của các nhà kinh tế. Tuy nhiên nếu xem bản
tin trên ti vi hoặc đọc báo bạn sẽ thấy rằng các nhà kinh tế không phải
lúc nào cũng nhất trí với nhau về các chính sách kinh tế. Do vậy, những
16


người thiếu hiểu biết sẽ hồi ngjhi về những đóng góp mà kinh tế học
đem lại trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Các nhà kinh tế bất
đồng với nhau vì họ có những quan điểm khác nhau về nó là gì hoặc cái
gì nên làm.
Chúng ta đã giải thích rằng các nhà kinh tế khơng có những chuyên
môn đặc biệt trong việc lựa chọn các mục tiêu để quyết định điều gì nên
làm và nên làm như thế nào. Tuy nhiên, cũng như những học giả khác,
các nhà kinh tế cũng có những quan niệm khác nhau về giá trị và có
quan điểm riêng về việc đánh giá mục tiêu kinh tế nào của xã hội là
quan trọng nhất. Hãy xét vấn đề hút thuốc. Nhiều nhà kinh tế ủng hộ
mức thuế cao hơn đánh vào thuốc lá nhằm ngăn chặn việc hút thuốc,
đặc biệt đối với giới trẻ. Tuy nhiên, những người khác lại lập luậnrằng
một chính sách như vậy sẽ gây ra gánh nặng tài chính quá lớn đối với
những người nghiện thuốc lớn tuổi, những người thường nghèo hơn
những người không hút thuốc lại khơng có khả năng thay đổi hành vi
của mình khi thuế tăng. Đây chính là sự bất đồng về mục tiêu. Điều gì
quan trọng hơn : giảm việc hút thuốc cho giới trẻ hay bảo vệ mức sống
của những người nghiện thuốc lớn tuổi ? Rõ ràng, các nhà kinh tế với

những triết lý khác nhau về những gì mà một xã hội cần đạt được sẽ có
những đề xuất chính sách kinh tế khác nhau.
Các nhà kinh tế có thể cũng có những bất đồng về chính sách kinh tế
vì họ khơng nhất trí với nhau phương thức hoạt động của thế giới – về
cơ chế hoạt động của nền kinh tế hoặc về những cơ chế tác động của
một chính sách cụ thể. Ví dụ, thậm chí các nhà kinh tế, những người
ủng hộ mức thuế cao hơn đánh vào thuốc lá nhằm ngăn chặn thanh
thiếu niên hút thuốc có thể cũng khơng thống nhất với nhau về mức
thuế suất. Ở đây, sự khác nhau trong số liệu thống kê liên quan đến
phản ứng của người tiêu dùng đối với sự thay đổi giá thuốc lá cũng có
thể gây ra một sự bất đồng quan điểm nữa. Do các ước tính khác nhau
này, các nhà kinh tế có thể đưa ra các khuyến nghị khác nhau về mức
thuế cần tăng – các đề xuất đó phản ánh các kết luận khác nhau về phản
ứng của thanh niên đối với việc tăng thuế.
Tóm lại, các nhà kinh tế có thể bất đồng với nhau hoặc do họ có
những quan điểm khác nhau về cái gì nên làm hoặc do họ có những
quan điểm khác nhau về cơ chế hoạt động của nền kinh tế. Tất nhiên
17


những lĩnh vực tranh cãi này thường được chú ý hơn những lĩnh vực
mà mọi người đã thống nhất. Tuy nhiên, việc các nhà kinh tế giống như
các nhà khoa học xã hội, quan tâm đến việc khám phá và tranh luận
những vấn đề mà họ bất đồng với nhau khơng có nghĩa là họ khơng
bao giờ đi đến kết luận chung. Thực ra, các nhà kinh tế đã thống nhất
với nhau ở rất nhiều vấn đề và câu trả lời. do vậy, khơng thể vì những
bất đồng về những chính sách cụ thể nào đó mà bạn có cái nhìn sai
lệch. Việc nghiên cứu kinh tế học có một đóng góp rất lớn vào nhận
thức của bạn về thế giới và nhiều vấn đề xã hội của nó. Tiếp cận nghiên
cứu với một tư duy mở sẽ giúp bạn hiểu được các sự kiện mà bạn chưa

từng biết trước đó.
V. Cấu trúc của cuốn sách
Với tư cách là nhà khoa học các nhà kinh tế học gặp nhiều khó khăn
bởi vì họ khơng thể làm các thí nghiệm có kiểm soát. Để hiểu hành vi
của nền kinh tế, các nhà kinh tế học cần có các số liệu kinh tế.Chúng ta
có tiến bộ trong kinh tế vĩ mơ trên cơ sở quan sát số liệu, phát hiện
những xu hướng và mối quan hệ, xây dựng mơ hình để giải thích các xu
hướng và mối quan hệ đó , và sau đó kiểm định xem các mơ hình có
phù hợp với số liệu mới cập nhật khơng . Do đó phần đầu của cuốn
sách giới thiệu định nghĩa và cách đo lường các biến số kinh tế vĩ mô
cơ bản bao gồm tổng sản phẩm trong nước, mức giá chung, và tỷ lệ thất
nghiệp. Chúng là nền tảng quan trọng cho các lý thuyết được giới thiệu
trong các chương sau. Trong hai chương tiếp theo, chúng ta phát triển
mơ hình giải thích hành vi của nền kinh tế thực trong dài hạn, khi giá cả
linh hoạt. Tiếp theo, chúng ta xem xét các mơ hình của nền kinh tế
trong ngắn hạn, khi giá cả có thể cứng nhắc. Chương 5 đưa ra khung cơ
bản để nghiên cứu những biến động kinh tế vĩ mô ngắn hạn. Trong
chương này, chúng ta mô tả những tư tưởng trung tâm về tổng cung,
tổng cầu và mối cân bằng kinh tế vĩ mô. Chương 6, chương 7 và
chương 8 đi sâu phân tích tổng cầu của nền kinh tế với sự nhấn mạnh
đặc biệt vào hai chính sách kinh tế vĩ mơ cơ bản là chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ. Chương 9 đề cập với một vấn đề then chốt trong
phân tích kinh tế vĩ mơ cơ bản là lạm phát. Chương cuối cùng giới thiệu
các khái niệm và chính sách kinh tế vĩ mô trong một nền kinh tế mở với
sự nhấn mạnh vào tỷ giá hối đoái.
18


Tóm tắt
 Việc quản lý nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn

lực có tính khan hiếm. Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách thức
sử dụng các nguồn lực khan hiếm nhằm thỏa mãn các nhu cầu khơng
có giới hạn của chúng ta một cách tốt nhất có thể.
 Chi phí cơ hội của việc thực hiện một hành động là phương án thay
thế tốt nhất, hay có giá trị nhất, mà bạn phải từ bỏ để thực hiện một
hành động đó.
 Ba vấn đề cơ bản mà mọi xã hội phải đối mặt là sản xuất cái gì ? sản
xuất cho ai ? sản xuất như thế nào ?
 Thi trường thường là cách tốt để tổ chức các hoạt động kinh tế đồng
thời chính phủ đơi khi cũng có thể cải thiện được các kết cục thị
trường khi kết quả do thị trường tạo ra là không hiệu quả hay không
công bằng.
 Kinh tế học được chia làm hai phân nhánh: kinh tế vi mô và kinh tế
vĩ mô. Kinh tế vi mơ nghiên cứu q trình ra quyết định của các hộ
gia đình và doanh nghiệp, cũng như sự tương tác giữa hộ gia đình và
doanh nghiệp trên các thị trường đơn lẻ. Kinh tế vĩ mô nghiên cứu
các lực lượng và xu thế tác động tới nền kinh tế với tư cách một tổng
thể.
 Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu
bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân
thương mại của một nền kinh tế. Kinh tế vĩ mơ quan tâm đến cả giải
thích hành vi của nền kinh tế và đưa ra khuyến nghị về các chính
sách kinh tế vĩ mơ.
 Các nhà kinh tế tìm cách nghiên cứu đối tượng của mình với tính
khách quan của một nhà khoa học. Giống như các nhà khoa học, họ
đưa ra các giả thiết thích hợp và thiết lập các mơ hình đơn giản để
giải thích thế giới xung quanh họ.
 Nhận định thực chứng là khẳng định về việc thế giới là như thế nào.
Nhận định chuẩn tắc là sự khẳng định về việc thế giới cần phải như
thế nào. Khi các nhà kinh tế đưa ra nhận định chuẩn tắc, họ hành

động giống nhà nhà tư vấn chính sách hơn một nhà khoa học.
19


 Nhà kinh tế tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách thường đưa ra
những lời khuyên mâu thuẫn nhau do có sự khác biệt trong các đánh
giá khoa học hoặc do có sự khác biệt trong giá trị.
Câu hỏi ơn tập
1. Hãy nêu ba ví dụ về sự đánh đổi quan trọng mà bạn phải đối mặt
trong cuộc đời.
2. Chi phí cơ hội của việc đi xem một bộ phim là gì ?
3. Ba vấn đề kinh tế cơ bản mà mọi xã hội phải đối mặt là gì ?
4. Tại sao các nền kinh tế hiện đại đều được tổ chức theo mơ hình
kinh tế hỗn hợp trong đó cả thị trường và nhà nước đều điều tiết
các hoạt động kinh tế ?
5. Kinh tế học là gì ? Kinh tế học chia thành hai phân ngành gì ?Hãy
cho biết mỗi phân ngành nghiên cứu vấn đề gì.
6. Kinh tế học giống các mơn khoa học khác ở điểm nào ?
7. Tại sao các nhà kinh tế lại đưa ra các giả định ?
8. Mơ hình có cần mơ tả hiện thực một cách chính xác khơng ?
9. Sự khác nhau giữa nhận định thực chứng và nhận định chuẩn tắc là
gì ?Hãy nêu ví dụ cho mỗi loại nhận định.
10. Tại sao đôi khi các nhà kinh tế đưa ra những lời tư vấn mâu thuẫn
nhau cho các nhà hoạch định chính sách ?

20


CHƯƠNG II
ĐO LƯỜNG CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN

Các nhà hoạch định chính sách tìm cách cải thiện hoạt động của nền
kinh tế. Các mục tiêu hàng đầu mà họ theo đuổi là kinh tế tăng trưởng
nhanh và bền vững, thất nghiệp thấp và ổn định lạm phát ở mức hợp lý.
Để đo lường mức độ nền kinh tế thực hiện các mục tiêu này, các nhà
kinh tế cần có các chỉ tiêu định lượng phản ánh hoạt động của nền kinh
tế. Trong chương này chúng ta sẽ thảo luận về cách thức đo lường sản
lượng và tăng trưởng , lạm phát và thất nghiệp cho một nền kinh tế.
I. Ba mục tiêu then chốt về thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc
gia
Một thước đo then chốt về thành tựu của một nền kinh tế là tỷ lệ
tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế góp phần làm tăng mức sống, và do
vậy đó là mục tiêu kinh tế vĩ mô hàng đầu. Trong hai thập niên qua, kể
từ khi áp dụng những chính sách cải cách kinh tế toàn diện với nội dung
cốt lõi là tự do hóa, ổn định hóa, thay đổi thể chế, chuyển dịch cơ cấu
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và mở cửa ra nền kinh tế thế
giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về tăng
trưởng kinh tế. Từ chỗ hầu như khơng có tăng trưởng, thì ngay sau đổi
mới, trong giai đoạn 1986-1990, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi và
phát triển, tuy tốc độ chưa cao. Trong những năm 1990, nền kinh tế liên
tục tăng tốc. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh cao nhất vào năn 1995
(9,54%), tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã bị giảm sút và
xuống mức đáy vào năm 1999 (1999 : 4,77%), chủ yếu do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ khu vực. Bắt đầu từ năm 2000,
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã liên tục cao lên. Với đà tăng
trưởng bình quân hàng năm 7,3% như trong suốt giai đoạn từ năm 1990
đến nay, thì tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam sẽ gấp đôi sau
khoản 1 thập kỷ.

21



Hình 1.1 Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hằng năm ở Việt Nam, 1986-2004

Hình 1.2 Tỷ lệ thất nghiệp hàng năm ở Việt Nam, 1998-2004
Tỷ lệ thất nghiệp, một thước đo cơ bản về cơ hội tìm việc làm và
hiện trạng của thị trường lao động, cho chúng ta một thước đo khác về
hoạt động của nền kinh tế. Một mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản đối với
mọi quốc gia là đảm bảo trạng thái đầy đủ việc làm,cho mọi lao động
sẵn sàng và có khả năng làm việc tại mức tiền lương hiện hành đều có
việc làm. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam đã
liên tục giảm xuống trong tiến trình cải cách và hội nhập kinh tế quốc
tế. Đây là một nguồn quan trọng đóng góp tích cực cho tăng trưởng
kinh tế cao ở Việt Nam trong thời gian qua.
Lạm phát là thước đo then chốt thứ ba về thành tựu vĩ mô của một
nền kinh tế. Ngay sau khi thực hiện đổi mới, nước ta đã vấp phải thách
thức lớn : nền kinh tế bị mất ổn định nghiêm trọng. Giá cả hàng hóa và
dịch vụ bắt đầu tăng tốc. Giai đoạn 1986-1988 là những năm lạm phát
phi mã, tỷ lệ lạm phát tăng lên ba con số (1986: 774,7% ; 1987:
223,1% ; 1998: 393,8%) với những hậu quả khôn lường: triệt tiêu động
22


lực tiết kiệm và đầu tư, làm đình trệ sự phát triển lực lượng sản xuất,
thất nghiệp tăng nhanh, đời sống của đại bộ phận dân cư - đặc biệt là
là những người làm trong bộ máy nhà nước bị suy giảm nghiêm trọng.
Năm 1989, với chương trình ổn định mà nội dung chủ yếu là áp dụng
chính sách lãi suất thực dương. Việt Nam đã thành công trong việc chặn
đứng siêu lạm phát. Song, kết quả này đã không bền vững: lạm phát cao
đã quay trở lại trong hai năm sau đó vì thâm hụt ngân sách q lớn và
được tài trợ chủ yếu bằng phát hành tiền. Từ năm 1992, chính phủ Việt

Nam theo đuổi chính sách tài khóa và tiền tệ thận trọng: Thâm hụt ngân
sách được duy trì ở mức thấp và đặc biệt đã khơng tài trợ bằng phát
hành tiền; lãi xuất thực dương liên tục được duy trì. Những giải pháp
này được thực hiện trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách kinh tế và chủ
động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã đưa đến những
thành cơng đáng khích lệ : lạm phát được kiểm soát và kinh tế tăng
trưởng cao. Tuy nhiên từ năm 1999, nước ta lại phải đối mặt với một
thách thức mới : lạm phát quá thấp đi cùng với đà tăng trưởng kinh tế
chậm. Với chủ trương kích cầu kịp thời, nền kinh tế nước ta khởi sắc
với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Bước sang năm 2004,
lạm phát đột ngột tăng tốc trở thành mối quan tâm chung cho sự phát
triển kinh tế ở nước ta : chỉ số giá tiêu dùng tăng 9,5%. Đây là mức
tăng giá cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm
1999 tỷ lệ lạm phát vượt ngưỡng do Quốc hội đề ra là 5%. Điều này
hoàn toàn nằm ngoài dự kiến của các nhà hoạch định chính sách, các
nhà kinh tế và của mọi người dân.

Hình 1.3 Tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Việt Nam, 1986-2004
23


Tăng trưởng, thất nghiệp và lạm phát là ba mối quan tâm hàng đầu
của các nhà kinh tế vĩ mô. Hiểu được các vấn đề đó là bước đầu tiên để
đưa ra các chính sách thích hợp nhằm cải thiện thành tựu kinh tế vĩ mô
hướng tới các mục tiêu: tăng trưởng nhanh, đầy đủ việc làm và ổn định
lạm phát ở mức hợp lý. Tuy nhiên, để hiểu các vấn đề này trước hết
chúng ta cần biết cách đo lường chúng.
II. Đo lường sản lượng và tăng trưởng
Để đánh giá thành công của nền kinh tế trong việc nâng cao mức
sống cho mọi người dân, trước hết chúng ta cần hiểu tổng sản lượng

của nền kinh tế được đo lường như thế nào. Chúng ta sẽ thấy tổng thu
nhập của một nền kinh tế đúng bằng tổng sản lượng hàng hóa và dịch
vụ mà nền kinh tế tạo ra. Do vậy, việc đo lường sản lượng chính là
điểm xuất phát để đánh giá hoạt động của cả hệ thống kinh tế.
Tổng sản phẩm trong nước : (Gross Domestic Product – GDP)
Sản lượng của nền kinh tế bao gồm hàng triệu hàng hóa và dịch vụ
khác nhau. Chúng ta có thể ghi chép sản lượng của từng hàng hóa và
dịch vụ mà nền kinh tế tạo ra. Số liệu này có thể hữu ích cho một số
mục tiêu, nhưng đó không phải là thông tin mà chúng ta cần. Nếu như
trong năm vừa qua, sản lượng gạo tăng 4%, thịt gà giảm 5%, cà phê
tăng 3%, và phân đạm giảm 2%, thì tổng sản lượng của nền kinh tế đã
tăng hay giảm ? Và tăng hay giảm bao nhiêu ?
Chúng ta cần một con số duy nhất tổng hợp sản lượng của cả nền
kinh tế. Tuy nhiên làm thế nào chúng ta có thể tổng hợp các sản phẩm
khác nhau lại với nhau ?
Ý nghĩa của khái niệm GDP
Tổng sản phẩm trong nước, gọi tắt là GDP, là một thước đo về tổng
sản lượng và thu nhập của một quốc gia. Khi đánh giá xem liệu một nền
kinh tế hoạt động tốt hay không, một cách tự nhiên, người ta thường
nhìn vào tổng thu nhập mà mọi người trong nền kinh tế nhận được. Đó
chính là vai trị của GDP.
Tổng sản phẩm trong nước là tổng giá trị thị trường của tất cả hàng
hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một nước
trong một thời kỳ nhất định là một năm.
24


GDP cùng một lúc đo lường hai chỉ tiêu: tổng thu nhập mà mọi cá
nhân trong nền kinh tế nhận được và tổng chi tiêu cho những hàng hóa
và dịch vụ mà nền kinh tế tạo ra. Lý do mà GDP có thể đo lường cả

tổng thu nhập và tổng chi tiêu là vì hai chỉ tiêu này thực ra phản ánh hai
mặt của cùng một quá trình. Đối với tồn bộ nền kinh tế thì tổng thu
nhập phải bằng giữa thu nhập và chi tiêu thông qua biểu đồ vịng chu
chuyển trong Hình 2.1.
Biểu đồ này mơ tả tất cả các giao dịch giữa các hộ gia đình và các
doanh nghiệp trong một nền kinh tế giản đơn chỉ bao gồm các hộ gia
đình và các doanh nghiệp, khơng có khu vực chính phủ và quan hệ
thương mại và tài chính với thế giới bên ngồi. Trong nền kinh tế này,
các hộ gia đình hoặc là trực tiếp sở hữu các nhân tố sản xuất hoặc gián
tiếp sở hữu các nhân tố sản xuất thông qua việc nắm giữ cổ phiếu trong
các công ty cổ phần và nhận được toàn bộ thu nhập tạo ra từ việc sử
dụng các nhân tố sản xuất đó. Các doanh nghiệp thuê các nhân tố sản
xuất từ các hộ gia đình và sử dụng chúng để sản xuất hàng hóa và dịch
vụ nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Toàn bộ giá trị thị trường do các doanh nghiệp tạo ra được sử dụng
để trả cho các hộ gia đình tương ứng các nhân tố sản xuất dưới các hình
thái thu nhập như tiền cơng, tiền lương, tiền th và lợi nhuận,... Đến
lượt mình, các hộ gia đình lại sử dụng thu nhập này để mua hàng hóa và
dịch vụ từ các doanh nghiệp.

Hình 2.1 Biểu đồ vòng chu chuyển

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×