Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

mot so bien phap giao duc ky nang song cho tre mau giao 4 5 tuoi 8716

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.52 KB, 22 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP:
“Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”, trẻ em sinh ra có quyền được chăm
sóc và bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Vì thế giáo
dục con người ở lứa tuổi mầm non vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi con
người đối với xã hội, đối với cộng đồng. Trẻ em là công dân của xã hội, là thế hệ
tương lai của đất nước nên ngay từ thưở lọt lịng chúng ta cần chăm sóc giáo dục trẻ
thật chu đáo. Đối với trẻ mầm non cuộc sống cịn rất non nớt, rất cần sự chăm sóc
của người lớn, đó là sự chăm sóc khơng chỉ là vật chất mà cịn cả về tinh thần vì đây
là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách,
đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng
và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ
cịn thụ động, khơng biết ứng phó với các tình huống nguy cấp, khơng biết tự bảo vệ
mình trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác.
Hiện nay tình trạng trẻ em vơ tư, thờ ơ, trầm cảm, tự kỷ chưa có cách xử lý phù
hợp với những tình huống diễn ra hằng ngày như: Thưa – gởi, cảm ơn – xin lỗi, thăm
hỏi, giúp đỡ,...hay những hành vi gây hại với môi trường: Hái hoa, bẻ cành, dẫm lên
thảm cỏ, khơng thích chăm sóc cây cối xung quanh,...hoặc việc làm gây hại đến
chính bản thân trẻ: xem ti vi khoảng cách gần, ngủ không đúng giờ,...là nỗi trăn trở
của người giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Đối với những trẻ có một
số vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng trẻ đến trường.
Đơn giản là vì những trẻ này thường khơng có khả năng chờ đến lượt, không biết chú
ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ khơng thể tập trung lĩnh hội
những điều cơ giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm
học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn
định nề nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày.
Để có một đất nước phồn vinh, văn minh, giàu mạnh, đầy ắp những con người
biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi gặp khó
khăn, ln có thái dộ, hành vi ứng xử đúng với tình huống đã, đang và có thể sẽ xảy
1



ra trong thực tế. Ngay từ lứa tuổi mầm non, chúng ta cần hình thành “kỹ năng sống”
phù hợp, để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn mình một cách có định hướng, hình
thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên 4 lĩnh
vực: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh thần. Từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng
sống hịa nhập với thế giới xung quanh.
Với trách nhiệm là giáo viên chủ nhiệm lớp 4 tuổi, tôi đã trăn trở rất nhiều về
việc làm sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hồn cảnh
trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của
trẻ. Một tập thể trẻ có kỹ năng sống tốt sẽ tạo nên mơi trường sống ấm áp, hoà thuận,
vui vẻ và phát triển ở nhóm lớp. Nếu thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ cũng đồng nghĩa với việc thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn bởi 2 yếu tố này hỗ
trợ lẫn nhau và khơng tách rời nhau. Vì vậy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi”.
II. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP
Đề tài sáng kiến đã từng có nhiều người nghiên cứu song ở mỗi độ tuổi, mỗi
trường, mỗi vùng miền lại mang một đặc điểm riêng. Do vậy các giải pháp đưa ra áp
dụng cũng không thể giống nhau. Và thực t trng mm non nơi tôi công tác,
giỏo dc kỹ năng sống được tổ chức lồng ghép ở trường vào mọi thời điểm trong
ngày, thế nhưng giáo viên chưa thực sự chú trọng đến việc tổ chức các hoạt động
giáo dục kỹ năng đó sao cho phù hợp, hấp dẫn, lôi cuốn và đưa lại hiệu quả giáo dục
cao. Chính vì thế giáo dục kỹ năng sống vẫn cịn thể hiện một cách hình thức, chưa
thể hiện hết hiệu quả của nó đối với sự phát triển tồn diện của trẻ. Vì lẽ đó tơi đã
mạnh dạn chọn đề tài này nhằm mục đích:
Phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, lễ phép, tự tin của trẻ
thông qua các hoạt động trong ngày như ( hoạt động học, chơi,ăn, ngũ, lao
động….) nhằm củng cố, rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản. Từ đó, giúp
trẻ có thái độ, hành vi đúng đắn, tích cực đối với mơi trường tự nhiên, mơi trường xã
hội, có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được điều nên làm và khơng nên làm để
thích ứng với cuộc sống hiện tại và trong tương lai. Ví dụ: trẻ nói lời “cảm ơn” khi

2


được được lớn hay bạn bè cho quà, hay thấy cộng rác là trẻ tự nhặt bỏ vào thùng rác,
hành động “cảm ơn”; “nhặt rác” đã trở thành “ý thức” của trẻ chứ khơng phải vì
người khác sai bảo.
Đánh giá thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo nhỡ ở trường mầm
non tôi công tác trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mầm non,“giúp trẻ chuyển tải những gì mình biết, những gì
mình cảm nhận và những gì mình quan tâm thành những khả năng thực thụ giúp trẻ
biết phải làm gì và làm như thế nào trong những tình huống khác nhau của cuộc sống
hàng ngày. Từ đó phát triển tồn diện nhân cách trẻ.
III. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi”, tôi đã vận dụng những kiến thức, hiểu biết cơ bản của
mình chuyễn tải đến trẻ nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ đạt được kết quả khá
mỹ mãn. Được hội đồng khoa học nhà trường đánh giá cao và khuyến khích cần
nhân rộng đề tài ở các trường MN trong toàn huyện, tỉnh và đăng trên Web, giáo án
điện tử.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU:
Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có
khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Lứa
tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội giá trị sống để phát triển nhân
cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành nhân cách trẻ. Phát
triển về các mặt thể chất, tình cảm-xã hội, ngơn ngữ, nhận thức , giúp trẻ sẵn sàng
đi học lớp một ở trường phổ thông sau này. Cụ thể là:
Giúp trẻ được an toàn , khỏe mạnh, khéo léo bền bỉ, có khả năng thích ứng với
thay đổi của điều kiện sống.
Giúp trẻ biết kiểm sốt cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng cảm với mọi

người xung quanh.

3


Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tơn trọng người khác, có khả
năng giao tiếp tốt với mọi người. Giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng
thích ứng với hoạt động học tập ở lớp một như : sẵn sàng hòa nhập, vượt qua khó
khăn để hồn thành nhiệm vụ…Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như :
- Kỹ năng chào hỏi, Kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng mạnh
dạn, kỹ năng nhận thức, kỹ năng vận động, kỹ năng thích nghi, kỹ năng vệ sinh . Từ
đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các nội dung đơn giản và hết sức gần
gũi với trẻ như: Dạy trẻ có kỹ năng hợp tác với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn
thành nhiệm vụ , kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng kiểm sốt cảm xúc…các kỹ năng này
khơng tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào
nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc
giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ có nhân cách tốt.
- Khi giáo dục kỹ năng sống còn góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ,
giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ... cho trẻ.
Nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã triển khai được một số năm
học, tuy nhiên kết quả đạt trên trẻ chưa cao và chưa đồng đều giữa các trẻ. Nếu giáo
viên thực hiện chuyên sâu và có phương pháp giáo dục phù hợp thì kết quả trên trẻ sẽ
có bước tiến bộ nhanh chóng.
1. Thuận lợi:
Năm học 2019 - 2020 tôi được nhà trường phân cơng chủ nhiệm nhóm lớp 4
- 5 với số lượng là 43 cháu, tất cả đều đã qua lớp mẫu giáo bé nên đã có một số kỹ
năng sống cơ bản. Đa số trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát
triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngơn ngữ, và tình cảm xã hội, biết cảm
thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ.
Líp häc có đủ diện tích, sạch sẽ, thống mát có đầy đủ ánh sáng để trẻ học

tập. Mặt khác lớp được đầu tư đầy đủ trang thiết bị điện tử, CNTT, giúp giáo viên dễ
dàng hơn trong việc chuyển tải kiến thức, tiết học cũng trở nên sinh động và hấp dẫn.
Nhà trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ về trang thiết bị dụng cụ, đồ dùng dạy
học.
4


Luụn nhn đợc sự quan tâm chỉ đạo sát sao v chuyờn mụn của
ban giám hiệu nhà trờng ó to điều kiện cho giáo viên được đi tập huấn, học
hỏi thêm kinh nghiệm của các trường bạn.
Bản thân tôi luôn có tinh thần trách nhiệm, u nghề mến trẻ, ln quan sát,
nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý, thói quen của từng trẻ trong lớp.
Bản thân trình độ chuyên môn đại học, được tập huấn về nội dung dạy kỹ năng
sống cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức và qua các buổi bồi dưỡng chuyên
môn tại trường, tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm
non.
Trường, lớp có khơng gian hoạt động an tồn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi
cần thiết trong các hoạt động giáo dục.
Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức, lĩnh
hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt.
Phụ huynh quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà
trường, ca nhúm lp.
2. Khú khn
Mặc dù có những thuận lợi nh vËy song trong quá trình thực hiện
vẫn gặp phải nhng khăn sau:
Trỡnh nhn thc ca tr khụng ng đều, do đó cùng một thời gian và biện
pháp dạy trẻ các nội dung kỹ năng sống nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa tương đương
với nhau.
Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động ,một số
trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cơ, kỹ

năng sống của trẻ cịn nhiều hạn chế.
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là khơng đồng đều, 100% phụ
huynh là nông thôn .
Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các anh chị hoặc ông bà
đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ cịn ít, khơng dành thời gian trị chuyện
để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi
5


đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần địi
mua đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà khơng biết điều đó có phù hợp với
hồn cảnh kinh tế của bố mẹ hay không, khi được món đồ chơi đó trẻ cũng khơng
biết cảm ơn bố mẹ….Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho trẻ thiếu kỹ
năng sống.
Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ chức
một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy kỹ năng sống
cho trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên.
Đa số giáo viên đã lồng ghép chỉ số vào mục tiêu phù hợp nhưng một số chỉ số
chưa đạt được ở chủ đề trước giáo viên thường bỏ qua mà không rèn tiếp trẻ hoặc
đưa tiếp vào mục tiêu của chủ đề sau cho nên nhiều trẻ bị bỏ qua các kỹ năng của ch
s ú
3. Kho sỏt thc trng:
* V phớa tr:
Vào đầu tháng 9, tôi tiến hành khảo sát để đánh giá về thực
chất và khả năng của trẻ, xem kỹ năng sống của trẻ thông qua các mặt đạt
được như thế no.
Tôi đánh giá 2 mức độ ( t v cha t), để từ đó có kế hoạch
bồi dỡng cụ thể:
t
Mc độ nội dung khảo sát

Kỹ năng giao tiếp chào hỏi
Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
Kỹ năng hợp tác hoạt động cùng nhóm
Trẻ mạnh dạn, tự tin
Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng vận động
Kỹ năng thích nghi
Kỹ năng vệ sinh

6

SL

%

18
18
13
13
16
19
18
25

42 %
42 %
31 %
31 %
37 %
44 %

42 %
45 %

Không đạt
SL
%
25
25
30
30
27
24
25
18

58 %
58 %
69 %
69 %
63 %
56 %
58 %
42 %


Qua bảng khảo sát, thống kê ở trên thì chúng ta biết được rằng kỷ năng sống
của trẻ ở lớp tơi các mặt cịn hạn chế. Tỷ lệ trẻ đạt được quá thấp..
* Về phía giáo viên.
Giáo viên đã tích cực thực hiện lồng ghép nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ
vào các hoạt động trong ngày , đã đưa giáo dục kỹ năng sống vào mục tiêu của chủ

đề để rèn một số kỹ năng qua các chỉ số đó nhưng hình thức tổ chức chưa linh hoạt,
chưa sáng tạo, cịn lung túng nên chưa lơi cuốn trẻ tham gia hoạt động một cách
hứng thú.
Chưa mạnh dạn, tự tin, chưa chú trọng sâu vào việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
* Về phía phụ huynh.
Một số phụ huynh chưa có nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
Qua khảo sát từ phụ huynh cho thấy, có một số ít trẻ khi ở lớp thì thực hiện các kỹ
năng sống tốt do trẻ rất nghe lời cô giáo nhưng khi về nhà được bố mẹ và người thân
chiều chuộng thì trẻ lại khơng thực hiện một số kỹ năng sống trẻ có mà ln phụ
thuộc vào người khác( vd: trẻ không kiềm chế cảm xúc mà có thể lăn ra và khóc bất
cứ lúc nào nếu người thân không đáp ứng nhu cầu của trẻ…). Phụ huynh cịn nng
chiều và làm thay trẻ
4 Ngun nhân của thực trạng
Qua khảo sát, đánh giá kết quả tôi tìm ra một số nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ đạt
được của trẻ cịn thấp đó là:
Do trình độ nhận thức của trẻ khơng đồng đều.
Do trẻ cịn nhút nhát khơng giám thực hiện theo u cầu của cơ.
Hình thức tổ chức các hoạt động chưa linh hoạt, chưa kích thích hứng thú cho
trẻ hoạt động.
Đồ dùng trực quan cịn ít, chưa đẹp, chưa hấp dẫn.
Công tác phối kết hợp với phụ huynh của giáo viên còn hạn chế. Qua kết quả
khảo sát thực trạng trên, bản thân tôi rất băn khoăn, lo lắng để tìm ra các biện pháp
7


nhằm đưa chất lượng của giáo dục kỹ năng sống đạt kết quả cao hơn. Vì vậy tơi đã
mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo 4 – 5 tuổi ” ở lớp mình phụ trách.

II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
*Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức tìm tịi để tự bồi dưỡng cho bản thân.
Để thực hiện tốt “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi”
trước hết giáo viên không chỉ nghiên cứu nắm vững, mục đích, yêu cầu của hoạt
động, mà còn cần phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp
trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, khơng gị bó, áp đặt. Giúp trẻ hiểu bài sâu
hơn, và vận dụng những điều đã học vào thực tế hằng ngày của trẻ.
Năm học 2019 – 2020 bản thân tôi được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm
cho tham gia lớp tập huấn tại phòng giáo dục với chuyên đề dạy kỹ năng sống cho
trẻ từ đó giúp tơi càng nắm chắc, khắc sâu hơn kiến thức về dạy kỹ năng sống cho
trẻ như: mục đích, nội dung, phương pháp…để truyền thụ kiến thức cho trẻ thơng
qua các hoạt động trong ngày.
Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí
mầm non, xem ti vi…..Cụ thể là:
+ Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ mầm
non.
+ Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non{ nhà xuất bản
đại học quốc gia}.
+ Sách bé thực hành các tình huống giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ mẫu
giáo.
+ Sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo.
Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống…
+ Xem các chương trình truyền hình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống
quanh ta trên các kênh truyền hình như VTV3 vào tối chủ nhật hàng tuần…
Tôi mạnh dạn trao đổi, chia sẽ, thảo luận với đồng nghiệp trong trường và
trường bạn về thực trạng và giải pháp mà tôi đã thực hiện và tham khảo thêm ở các
bạn đồng nghiệp để từ đó tơi lĩnh hội được vốn kiến thức tốt nhất trong việc dạy trẻ
các kỹ năng sống cần thiết cho trẻ.
8



Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cô giáo phải là tấm
gương để trẻ soi vào, để trẻ học làm người. Chính vì vậy, khơng phương pháp nào
hiệu quả bằng phương pháp “ Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Những người
dạy nội dung giá trị và kỹ năng sống càng cần là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời
ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề. Đây là những u cầu rất cao và
địi hỏi các cơ giáo cũng ln phải tự rèn luyện mình để cơng tác giáo dục trẻ hiệu
quả hơn. Và tôi đưa ra những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ đó là:
- Khơng nói dài và nói nhiều.
- Khơng đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tịi
- Khơng vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tịa nhưng kiên trì giúp trẻ tranh
luận và kết luận.
- Không làm thay, làm hộ trẻ.
- Không bắt trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức, vì sự phục tùng một cách
thái q khơng có sự thỏa thuận giữa các bên, khơng tạo điều kiện phát triển tính tự
lập ở trẻ.
* Giải pháp 2: Hình thành kỹ năng sống cho trẻ thơng qua các hoạt động trong
ngày.
Hình thành thói quen tốt trong giờ đón, trả trẻ:
Trong xã hội hiện nay với cơng nghệ tiên tiến phát triển khơng ngừng về mọi
mặt, thì những kỹ năng giao tiếp chào hỏi tối thiểu lại mất dần đi. Và tôi quyết định
đưa kỹ năng chào hỏi và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón trả trẻ.
Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp vơi cô cùng bạn
bè, tôi chủ động chào trẻ trước “ Cô chào bạn Lan” thì lúc đó trẻ sẽ biết đáp lại câu “
Con chào cô ạ” và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ để đi vào lớp nào. Hoặc khi trẻ đang
chơi nếu có khách đến thì tơi nhắc trẻ “ Các con chào bác, cơ, dì.... đi nào” cứ như
vậy dần dần trẻ sẽ có thó quen chào cơ, chào bố mẹ và chào khách. Cịn với trẻ chưa
có kỹ năng giao tiếp với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi với trẻ hơn, trò chuyện
với trẻ nhiều hơn, về những người thân của trẻ, thế giới xung quanh từ đó trẻ mạnh

dạn hơn, khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác.
Tôi sử dụng hương pháp thực hành, trải nghiệm, hình thức nêu gương đánh giá
để trẻ thấy và thực hiện tốt hơn. Cụ thể ngay từ đầu năm tôi đã tập cho trẻ ý thức tự
cất đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp lúc vào lớp cũng như lúc ra về. Và tôi phân công tổ
9


trưởng sẽ kiểm tra xem bạn nào thực hiện chưa đạt, cuối ngày tôi sẽ đánh giá và nêu
gương bạn thực hiện tốt, đồng thời cũng khích lệ động viên cá nhân có cố gắng. Sau
đó tơi có thể đưa ra hình thức khen thưởng khác (cắm cờ, kẹo, tặng quà, ..) để trẻ
thực hiện tốt hơn. Từ đó việc cất đồ dùng khơng cịn là “hành động” mà trở thành “ý
thức”, trẻ tự thực hiện không cần phải đợi nhắc nhở hay kiểm tra.
Hình thành kỹ năng sống thơng qua hoạt động học:
Tôi luôn chú ý bồi dưỡng cho trẻ kinh nghiệm sống, nhân cách tốt đẹp qua
những câu chuyện, bài thơ, tục ngữ, ca dao, đồng dao, bài hát,.... Được nghe kể
chuyện là điều trẻ rất thích, do đó tơi lựa chọn câu chuyện phù hợp để lồng ghép giáo
dục. Chẳng hạn chủ đề bản thân, với câu chuyện “Giấc mơ kì lạ” có nội dung giáo
dục “ăn uống đầy đủ để các giác quan hoạt động”, khi đó cơ chuyển tải những thơng
điệp q báu “kỹ năng tự nhận thức bản thân”, hãy biết giữ gìn và bảo vệ chính cơ
thể mình.
Trong bài thơ “Thỏ bơng bị ốm” với nội dung “Bạn Thỏ bị đau bụng với lý do
ăn thức ăn cịn sống, uống nước ngồi ao” nhằm lồng ghép giáo dục kỹ năng an toàn,
tự bảo vệ (khơng ăn thức ăn chưa được nấu chín, khơng ra gần bờ ao dễ xảy ra tai
nạn).
Thông qua hoạt động âm nhạc kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ tình cảm,
khả năng tưởng tượng, và tính sáng tạo của mình.
Ví dụ: Tiết múa “ Cơ mẫu giáo miền xi” trẻ nói “ Dạ thưa cơ cháu khơng
múa được” Cơ động viên trẻ thế con có u cơ giáo của mình khơng? À vậy thì con
hãy múa cùng cơ để tặng cơ giáo của mình nha. Từ những lời động viên khích lệ đó
trẻ sẽ hứng thú hơn và tự tin hơn trong hoạt động.

Thông qua hoạt động làm quen với tốn: “ Sắp xếp theo quy tắc” tơi sử dụng
trò chơi gắn các dụng cụ của nghề sắp xếp theo quy tắc, đội nào gắn đúng, nhanh, thì
đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy buộc trẻ phải thảo luận với nhau, hợp tác hoàn thành
bài tâp. Trong giờ học nào tôi cũng sưu tầm những đồ dùng đồ chơi sáng tạo

10


Thông qua hoạt động môi trường xung quanh: Chủ đề gia đình tơi cho trẻ chia
sẻ những thơng tin về gia đình, những việc mà trẻ hay làm ở nhà, qua đó giáo dục kỹ
năng giao tiếp, lắng nghe ý kiến người khác.
Đối với các hoạt động khác diễn ra trong hoạt động học cũng vậy, giáo viên lựa
chọn nội dung phù hợp, kết hợp với phương pháp dùng lời, trẻ được nghe, được đọc
cùng với sự giảng giải của cô, trẻ sẽ thấm nhuần ý nghĩa của cuộc sống xung quanh,
từ đó tích lũy cho mình những bài học kinh nghiệm.
Hình thành kỹ năng sống thơng qua hoạt động vui chơi.
Như chúng ta đã biết trẻ mẫu giáo “Học bằng chơi chơi mà học” , thông qua
hoạt động vui chơi trẻ sẽ bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và khơng tốt, vì vậy tơi ln
lồng ghép tích hợp nhiều kỹ năng sống cần thiết. Ví dụ “nhìn ngắm hoa đẹp” trẻ thể
hiện cảm xúc vui vẻ, thoải mái, từ đó trẻ u thích cái đẹp, khơng được hái hoa vì
hoa làm đẹp cho thiên nhiên. Hoặc tơi sử dụng tình huống để trẻ giải quyết “đang đi
dạo chơi cùng trẻ thì trẻ bị ngã”, lúc này trẻ sẽ dựa vào cách giải quyết của trẻ mà rèn
cho trẻ “kỹ năng giúp đỡ chia sẻ”, phải biết đỡ bạn bị ngã, không những vậy mà khi
đi bất cứ đâu nếu có gặp người lớn tuổi, em nhỏ, người tàn tật thì giúp đỡ, cảm thơng
với hồn cảnh của họ.
Giáo viên cho trẻ dạo chơi sân trường, tận dụng nhiều tình huống ví dụ “cơn
gió làm lá cây rơi xuống sân”, sân trường khơng cịn sạch đẹp, vậy làm thế nào để
sân trường sạch đẹp ? (nhặt lá cây rơi, nhặt rác bỏ vào thùng rác)...Hình thành được
kỹ năng ứng xử văn minh cho trẻ, không những ở trường mà trẻ sẽ thực hiện việc giữ
vệ sinh ở nhà, ở lớp, ở nơi công cộng...

Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, càng hứng thú và
tích cực hơn bởi đáp ứng được nhu cầu. Trẻ được chơi với đồ vật, được trải nghiệm
thực tế, là cơ sở vững chắc để hình thành và phát triển, rèn luyện và giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
Trong chủ đề “nghề nghiệp” ở góc phân vai có trị chơi “bác sĩ”, bác sĩ khám bệnh
cho bệnh nhân với thái độ vui vẻ, niềm nở, y tá cấp phát thuốc và dặn bệnh nhân
uống thuốc đúng giờ, bệnh nhân bốc số thứ tự và ngồi chờ khám theo lượt, lúc này
11


tơi giả bộ đóng vai bà lão đi khám bệnh, bà lão đi sau cùng nhưng được cô y tá dẫn
đi khám trước, tình huống xảy ra là các bệnh nhân kia khơng đồng ý, bác sĩ mới ra
giải thích: bệnh nhân vui lịng đợi tí, ưu tiên cho người già và trẻ nhỏ. Có thể nói trẻ
đóng vai bác sĩ đã có kinh nghiệm sống rất tốt và trẻ đã áp dụng ngay trong quá trình
chơi, kỹ năng giao tiếp và ứng xử văn minh được thể hiện. Ở chủ đề “Giao thơng”
có góc chơi “ba chở con đi học bằng xe máy”, yêu cầu trẻ phải đội mũ bảo hiểm, cô
dạy trẻ cách đội, cách gài dây, thao tác lặp đi lặp lại 2- 3 lần, từ đó hình thành kỹ
năng an tồn và rèn luyện một cách tự nhiên.
Đối với chủ đề “Gia đình” dạy trẻ kỹ năng chia sẻ, thể hiện sự quan tâm lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình, ví dụ như: gọi điện thoại hỏi thăm, chăm sóc ơng
bà, gia đình cùng nhau đi du lịch, thăm hỏi lẫn nhau lúc ốm đau...
Thông qua hoạt động vui chơi tôi đưa kỹ năng sống hợp tác cho trẻ: Ở độ tuổi này
trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm, trẻ sẳn sàng chia sẽ với bạn, và tình bạn
trở nên cần thiết đối với trẻ
Ví dụ: Với góc chơi xây dựng trong chủ đề giao thơng, trong khi xây thì tất cả các
thành viên trong nhóm phải cùng nhau thảo luận, phân công công việc cho nhau, và
cùng làm công việc được giao. Cuối cùng trẻ hồn thành cơng trình đã xây dựng. Đó
là cách hợp tác cùng làm việc
Hoạt động vui chơi diễn ra trong thời gian tương đối dài, có rất nhiều tình huống
xảy ra, giáo viên cần bao quát và kịp thời can thiệp để điều chỉnh hành vi, giúp trẻ có

thói quen tốt, biết được cái nào nên làm, cái nào khơng nên làm. Lâu dần những thói
quen tốt, những hành vi đẹp sẽ được tích lũy và trở thành kỹ năng sống đối với trẻ.
Kỹ năng sống khi ăn, khi ngủ, khi vệ sinh
Trong giờ ăn, ngủ, vệ sinh tôi luôn dành thời gian cho trẻ tự thực hiện các kỹ
năng tự phục vụ, luôn chờ đợi trẻ khơng nóng vội khơng làm hộ trẻ. Chẳng hạn trẻ
biết trước khi ăn là phải rửa tay, tự lấy ghế vào bàn ăn, ăn xong phải đánh răng, tự
thay quần áo, xếp quần áo gọn gàng, tự lấy gối ngủ dậy tự cất đồ dùng.
Trong giờ ăn tôi lồng ghép các bài thơ “ Giờ ăn” “ Bé ơi nhớ nhé” để dạy lồng
ghép kỹ năng vệ sinh cho trẻ. Cứ như thế ngày này qua ngày khác, trẻ tự thực hiện
12


mà không cần giáo viên phải nhắc nhở. Kỹ năng sống ấy không những được trẻ thực
hiện ở trường mà còn thực hiện ở nhà, hay ở bất cứ đâu khi trẻ đi đến.
*Giải pháp 3: Sử dụng các tình huống có vấn đề để hình thành một số kỹ năng
sống cần thiết.
Một trong những kỹ năng cần hình thành, thì kỹ năng an tồn, tự bảo vệ là một
trongnhững số đó, giúp trẻ có khả năng biết từ chối, xử lý những tình huống khi thấy
khơng an tồn. Tơi tự đặt ra một số tình huống để trẻ tự giải quyết vấn đề, và những
tình huống khác, có liên quan cũng được áp dụng trong suốt quá trình chăm sóc trẻ.
Ví dụ: Tơi kể cho trẻ nghe câu chuyện: Bạn An được mẹ hứa rướt về sớm, nhưng mẹ
bận họp đột xuất, chờ mãi mà không thấy mẹ. An đi ra cổng để đón mẹ, bỗng có một
người phụ nữ cho bạn An kẹo và nói “Hơm nay mẹ bận khơng đón con được, mẹ nhờ
cơ chở con về, con ngoan ăn kẹo đi rồi lên xe cô chở con về”. Tôi dừng lại và hỏi
trẻ : bạn An có về với người phụ nữ đó khơng ? Nếu con là bạn An con sẽ xử trí như
thế nào ? Cho trẻ thảo luận và đưa ra câu trả lời. Sau đó cơ kể tiếp: Bạn An khơng
chịu lên xe, nói là đợi mẹ đón về, bạn An đi trở vào lớp, người phụ nữ nắm lấy áo
bạn An, bạn An đã kêu lên thật to “cứu con với, có người định bắt con”, chú bảo vệ
chạy tới...Qua câu chuyện tôi rèn cho trẻ biết “không đi theo người lạ dù người lạ có
cho bất cứ gì”. tơi có thể cho trẻ đóng vai các nhân vật trong câu chuyện cơ vừa kể

để khắc sâu hơn kỹ năng.
Ngồi ra tơi có thể đặt ra nhiều tình huống khác và tổ chức lồng ghép mọi lúc mọi
nơi để trẻ có cơ hội giải quyết và xử lý tình huống như: khi ở nhà một mình (khơng
được mở cửa cho người lạ vào), đi lạc đường (đứng ở nơi trống và kêu thật to), khi bị
cơn trùng cắn (nói liền với người lớn),...
Rèn luyện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi: Kỹ năng sống của trẻ
được tiếp nhận và rèn luyện mọi lúc mọi nơi trong môi trường gia đình và nhà
trường. Ở trường tơi tận dụng bất cứ khi nào có thể để hình thành, rèn luyện kỹ năng
cho trẻ.
* Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin đưa vào các chủ đề để giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
13


Để dạy tốt kỹ năng sống cho trẻ tôi đã xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. Tôi tìm tịi các đoạn phim,
video phù hợp để đưa vào các chủ đề nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ một
cách tốt nhất Ở chủ đề “ Bản thân” để trẻ biết được cách chăm sóc bản thân và các
kỹ năng tự phục vụ thì tơi đã cho trẻ xem một đoạn video từ đó trẻ sẽ hiểu rỏ hơn về
bản thân, cách vệ sinh, cách mặc quần áo và các khả năng tự phục vụ khác . Ở chủ đề
nghề nghiệp tơi lồng ghép hình ảnh chú bộ đội vào các hoạt động để giúp trẻ biết
công lao to lớn của các chú bộ đội, từ đó trẻ biết yêu thương các chú bộ đội và luôn
dành những tình cảm tốt đẹp nhất cho các chú.
Ngồi ra tơi đã tìm tịi và đã đưa các chương trình trên tivi như “quà tặng cuộc
sống”, vào cho trẻ xem để hình thành ở trẻ những kỹ năng sống cần thiết
Trẻ hứng thú hơn khi được xem trực tiếp các đoạn video, phim, bởi các hình ảnh
đẹp, sống động, kích thích sự tò mò, khám phá của trẻ, trẻ cùng nhau chia sẻ, tìm tịi
lĩnh hội được nhiều kinh nghiệm q báu hơn từ đó các kỹ năng sống tốt sẽ được
khắc sâu hơn cho trẻ.
Giải pháp 5: Tuyên truyền phối hợp với các bậc phụ huynh cùng giáo dục kỹ

năng sống cho trẻ.
Hiểu rỏ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần khơng nhỏ vào việc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm, khi tổ chức họp phụ huynh
tôi đã đưa ra sáng kiến và ý tưởng giáo dục kỹ năng sống của mình áp dụng vào trẻ.
Và thống nhất với các phụ huynh biện pháp giáo dục ở nhà. Đặc biệt đối với phụ
huynh ít quan tâm đến con, tơi tìm gặp và trao đổi về tình hình học tập của cháu ở
lớp và hỏi nề nếp, sinh hoạt sở thích của cháu khi ở nhà. Chính vì vậy cha mẹ có thể
giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc bằng cách tạo mối lên kết giữ cơ và gia đình và
bạn bè.
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống đạt kết quả tốt thì mỗi một giáo viên phải biết
kết hợp hài hịa các biện pháp trên.
Và khơng thể thiếu một trong những biện pháp đó. bên cạnh đó khơng thể thiếu là
tình yêu thương, ý thức, trách nhiệm và tình u thương của cơ giáo đối với trẻ.
14


IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN:
Sau một thời gian thực hiện các biện pháp nêu trên, lớp tôi đã đạt được những kết
quả như sau:
* Về phía học sinh
100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy
tình tị mị, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức.
Trẻ đi học đều đạt tỷ lệ 98% trở lên, trẻ chăm ngoan đạt từ 99% trở lên và ít gặp
khó khăn khi ở lớp, trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự
xếp khay để khăn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn, bát, thìa ….trong các giờ ăn, tự xếp chăn
và gối trước và sau khi ngủ ...
Trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng gia tiếp chung
Đa số trẻ có các kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hồn thành cơng việc của mình

đến cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt động hàng ngày
100% trẻ khỏe mạnh, sạch sẽ, mạnh dạn, hồn nhiên.
Trẻ có ý thức học tập tốt, biết lao động tự phục vụ bản thân, có thói quen vệ sinh
ở mọi lúc, mọi nơi.
Trẻ mạnh dạn, tự tin trao đổi ý kiến của mình và chia sẻ ý kiến của mình với bạn,
với cơ.
Trẻ biết hợp tác tốt với bạn khi chơi trong nhóm.
Với việc áp dụng các giải pháp vào tình hình thực tế ở lớp kết quả đạt được khá
mĩ mãn, cụ thể như sau:
Bảng đối chứng số liệu đầu năm so với cuối năm:

Nội dung và mức độ khảo sát
Kỹ năng giao tiếp chào hỏi
Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
Kỹ năng hợp tác hoạt động cùng nhóm

Đầu năm
Đạt
SL
%
18
42 %
18
42 %
13
31 %
15

Cuối năm
Đạt

SL
%
43
100%
43
100%
43
100%


Trẻ mạnh dạn, tự tin
Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng vận động
Kỹ năng thích nghi
Kỹ năng vệ sinh

13
16
19
18
25

31 %
37 %
44 %
42 %
45 %

43
43

43
43
43

100%
100%
100%
100%
100%

* Về phía giáo viên.
Bản thân tơi nắm rất chắc nội dung, phương pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tự tin sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo được uy tín, tiềm năng đối với phụ huynh.
Qua các đợt thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất của ngành, lớp được xếp loại
Tốt.
* Về phía phụ huynh :
Phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, luôn
quan tâm đến sự phát triển sau này của con em mình.
Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô trong việc dạy trẻ các kỹ năng
sống, trao đổi với giáo viên thơng qua nhiều hình thức
Giao tiếp giữa bố mẹ và con gần gũi hơn, ít la mắng hơn, hướng dẫn trẻ để trẻ tự
đi lây đồ dùng phục vụ bản thân.
C. PHẦN KÕt luËn

.

I.Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP
Việc áp dụng các biện pháp trong quá trình nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh
nghiệm như: Nâng cao nhận thức tìm tịi để tự bồi dưỡng cho bản thân. Hình thành

kỹ năng sống thơng qua một số hoạt động trong ngày, sử dụng tình huống có vấn đề,
phối hợp với phụ huynh nhằm mục đích giúp trẻ có thái độ, hành vi đúng đắn, tích
cực đối với mơi trường tự nhiên, mơi trường xã hội, có kinh nghiệm trong cuộc sống,
biết được điều nên làm và không nên làm để thích ứng với cuộc sống hiện tại và
trong tương lai
Với những kết quả đạt được như hôm nay, tôi rất phấn khởi và tự tin hơn khi
tổ chức thực hiện các họat động giáo dục kỹ năng sống trên lớp . Từ đó tơi rút ra
những bài học kinh nghiệm.
16


Để làm tốt nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, giáo viên phải có lịng u
nghề, mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao trong cơng việc. Đặc biệt phải có vốn
kiến thức chun mơn, có kinh nghiệm, biết xây dựng và sử dụng linh hoạt những
phương pháp, biện pháp, thủ thuật đề ra trong tiết học. Giáo viên phải biết lấy trẻ làm
trung tâm, luôn hướng trẻ vào hoạt động một cách tích cực nhất. Cơ chỉ là người gợi
mở, và hướng dẫn thêm cho trẻ khi cần thiết.
Để phát triển kỹ năng sống cho trẻ tốt phải có một q trình sư phạm lâu dài
bởi vì cho dù ở đâu nữa, từ thành phố đến nông thôn, miền núi hay hải đảo xa xôi trẻ
em khi sinh ra đều như tờ giấy trắng, nó chỉ có thể trở thành con người hoàn thiện
khi người lớn hướng tác động vào nó một cách tồn diện.
Người lớn phải tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh, tắm
mình trong thế giới đó để rồi từ đó trẻ có những hiểu biết nhất định về thế giới bên
ngồi từ đó hình thành ở trẻ tính tự lâp, kiên trì từ đó phát triển tồn diện nhân cách
cho trẻ.
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:
Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non trong giai đoạn hiện nay thông
qua việc thực hiện các biện pháp trên đã phần nào đạt được một số kết quả như đã
nêu. Bản thân xin có một số đề xuất sau :
1. Đối với phòng giáo dục và đào tạo:

Tạo điều kiện bổ sung những tài liệu tham khảo, trang thiết bị và đồ dùng phục
vụ trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Cần tăng cường hơn nữa các lớp tập huấn, bồi dưỡng để giáo viên có nhiều cơ hội
học tập và rút kinh nghiệm cho bản thân.
Cung cấp các tiến bộ khoa học kỹ thuật như: Học tập qua băng hình, đĩa ghi
hình... để cung cấp thêm tư liệu cho giáo viên.
2. Đối với nhà trường:
Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên dự giờ, tổ chức thao giảng, hội thảo... về
chuyên đề giáo dục kỹ năng sống để các giáo viên có thể trao đổi , học hỏi kinh
17


nghiệm lẫn nhau. Tạo điều kiện cho chị em giáo viên được dự giờ đồng nghiệp để
cùng trao đổi kinh nghiệm giảng dạy.
Ban giám hiệu cần có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên về kiến thức chăm sóc giáo
dục trẻ trong qua trình giáo dục kỹ năng sống và có những biện pháp hữu hiệu để
giáo viên thực hiện được tốt hơn. Cần tạo môi trường thuận lợi về các yếu tố cho trẻ
học tập như: yếu tố về thiên nhiên, yếu tố vệ sinh để trẻ có một sân chơi bổ ích.
Trên đây là “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 -5 tuổi”.
Rất mong được sự góp ý của hơị đồng khoa học để bản sáng kiến được hoàn thiện
hơn. Xin chân thành cảm ơn

18


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………............................................................
.


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD & ĐT
19


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………............................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................

20


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………............................................................
.

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD & ĐT
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………............................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................

21



22



×