Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Người phiên dịch người dịch thuật trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.16 KB, 76 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM LAN THANH

NGƯỜI PHIÊN DỊCH, NGƯỜI DỊCH THUẬT
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM LAN THANH

NGƯỜI PHIÊN DỊCH, NGƯỜI DỊCH THUẬT
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG

Hà Nội – 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Lan Thanh


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ NGƯỜI PHIÊN DỊCH, NGƯỜI DỊCH THUẬT TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ .............................................................................................. 6
1.1. Khái niệm người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự .... 6
1.1.1. Khái niệm người phiên dịch trong tố tụng hình sự ........................... 6
1.1.2. Khái niệm người dịch thuật trong tố tụng hình sự.......................... 11
1.2. Căn cứ cơng nhận người phiên dịch, người dịch thuật tham gia tố tụng

hình sự .......................................................................................................... 13
1.2.1. Căn cứ pháp lý ................................................................................ 13
1.2.2. Căn cứ thực thi pháp luật tố tụng hình sự giải quyết vụ án hình sự14
1.2.3. Căn cứ khác có liên quan đến yêu cầu phiên dịch, dịch thuật ........ 19
1.3. Phiên dịch, dịch thuật trong các giai đoạn tố tụng................................ 20
1.3.1. Phiên dịch trong các giai đoạn tố tụng............................................ 20
1.3.2. Dịch thuật trong các giai đoạn tố tụng ............................................ 23
1.4. Quy định của Luật tố tụng hình sự về người phiên dịch, người dịch thuật 23
1.4.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người phiên dịch giai
đoạn 1945 đến 2003 .................................................................................. 23
1.4.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người phiên dịch giai
đoạn từ 2003 đến 2015 .............................................................................. 27
1.4.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về người phiên
dịch, người dịch thuật. .............................................................................. 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 36


Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ NGƯỜI PHIÊN DỊCH, NGƯỜI DỊCH THUẬT VÀ CÁC
KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ................................................................................. 37
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về người phiên dịch, người dịch thuật
trong tố tụng hình sự từ 2015 đến 2019 ....................................................... 37
2.1.1. Tình hình người phiên dịch, người dịch thuật tham gia giải quyết vụ
án hình sự và những kết quả đạt được ..................................................... 37
2.1.2. Những tồn tại, vướng mắc trong thực thi các quy định của luật tố
tụng hình sự về người phiên dịch, người dịch thuật ................................. 42
2.1.3. Những nguyên nhân làm phát sinh các tồn tại, vướng mắc trong thực thi
các quy định của luật tố tụng hình sự về người phiên dịch, người dịch thuật 49
2.2. Những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả hoạt động của người phiên
dịch, người dịch thuật .................................................................................. 51

2.2.1. Những giải pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự ................... 51
2.2.2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về người phiên dịch,
người dịch thuật ........................................................................................ 55
2.2.3. Xây dựng tiêu chuẩn pháp lý người phiên dịch, người dịch thuật 56
2.2.4. Kiểm tra, sát hạch đối với cấp Chứng chỉ hành nghề phiên dịch,
dịch thuật tư pháp...................................................................................... 59
2.2.5. Thành lập hiệp hội phiên dịch tư pháp ........................................... 60
2.2.6. Nâng cao trình độ nghiệp vụ tố tụng cho người phiên dịch, người
dịch thuật. .................................................................................................. 61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 64
KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 66


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

DTTS

Dân tộc thiểu số

TTHS

Tố tụng hình sự


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng


Bảng 2.1

Bảng thống kê số lượng bị cáo là người nước ngoài,
người DTTS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên toàn
quốc

Trang

37


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong q trình đổi mới tồn diện trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh. Chính vì vậy, việc mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế,
bảo vệ quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân luôn là nhiệm vụ
đặt lên hàng đầu của toàn xã hội. Trong điều kiện cải cách tư pháp, bảo vệ
quyền con người trong Nhà nước pháp quyền và triển khai thực hiện Hiến
pháp năm 2013 đòi hỏi phải có những biện pháp hỗ trợ hữu hiệu cho hoạt
động tư pháp, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong TTHS, vấn đề đảm bảo quyền con người ngày càng được chú trọng
bởi các hoạt động tố tụng trực tiếp ảnh hưởng đến quyền tự do dân chủ của
công dân. Để bảo vệ quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng, Bộ
luật TTHS đã có những quy định cụ thể liên quan đến người tham gia tố tụng,
yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tơn trọng và thực
hiện. Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều tư cách tố tụng chưa được quy định rõ trong
Bộ luật TTHS khiến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ trên thực tế cịn

gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Trong đó có tư cách tham gia tố tụng của
người phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS.
Thực tế cho thấy rằng, trong những năm qua, đã xảy ra nhiều vụ án hình
sự mà người tham gia tố tụng là người nước ngồi hay người DTTS khơng sử
dụng được tiếng Việt. Đồng thời, cùng với sự hội nhập kinh tế, nhiều tài liệu,
văn bản trong q trình cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập
không được thể hiện bằng tiếng Việt cần có người phiên dịch, người dịch
thuật tham gia để trợ giúp. Quá trình giải quyết các vụ án này cho thấy còn
phát sinh một số hạn chế, vướng mắc liên quan đến việc áp dụng quy định của

1


pháp luật TTHS về người phiên dịch, người dịch thuật như chưa có quy định
liên quan đến điều kiện, tiêu chuẩn của người phiên dịch, người dịch thuật;
chưa có văn bản quy định cụ thể về chế độ đối với người phiên dịch, người
dịch thuật,... Chính vì vậy, mỗi địa phương, mỗi cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng áp dụng một cách khác nhau dẫn đến không thống nhất, chưa
đáp ứng được yêu cầu trong hoạt động TTHS đặt ra khi cần có người phiên
dịch, người dịch thuật, thậm chí có những trường hợp ảnh hưởng đến kết quả
điều tra, xử lý tội phạm.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu các quy định của Luật TTHS về
người phiên dịch, người dịch thuật nhằm có cái nhìn sâu sắc, đầy đủ hơn và
có những giải pháp hồn thiện quy định pháp luật về người phiên dịch, người
dịch thuật là hồn tồn cần thiết. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Người phiên
dịch, người dịch thuật trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài
Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về người tham gia tố
tụng nhưng những cơng trình nghiên cứu về người phiên dịch, người dịch

thuật trong TTHS còn hạn chế. Có thể các cơng trình này thành 03 nhóm
chính sau:
Nhóm thứ nhất, gồm các cơng trình nghiên cứu về người phiên dịch,
người dịch thuật dưới dạng đại cương, phân tích các quy định của Bộ luật TTHS
về địa vị pháp lý của người phiên dịch, người dịch thuật hoặc phân tích các quy
định khác liên quan tới người phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS như: Giáo
trình luật TTHS Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. Công an nhân
dân (2019); Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2015 của GS.TS Nguyễn
Ngọc Anh, Luật sư, TS. Phan Trung Hồi (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia
sự thật (2018); Sách chuyên khảo bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự

2


Việt Nam, Nxb Công an nhân dân (2010). Các công trình trên đã tiếp cận các quy
định của pháp luật về người phiên dịch, người dịch thuật ở nội dung chung nhất
bằng cách giải thích mang tính tham khảo.
Nhóm thứ hai, các đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên
cứu về vấn đề liên quan đến quy định của pháp luật TTHS về người phiên
dịch, người dịch thuật. Đó là, luận văn tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền của
người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam” của tác
giả Trần Thảo (2014); Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” của Lại Văn Trình (2011); Luận văn
thạc sĩ “Phân biệt các loại người tham gia tố tụng theo bộ luật TTHS” của
Nguyễn Thị Phong (2006);... Những cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu
nghiên cứu các quy định của luật TTHS về bảo đảm quyền con người của
từng nhóm người tham gia tố tụng mà không nghiên cứu sâu về vấn đề các
quy định của Luật TTHS về người phiên dịch, người dịch thuật.
Nhóm thứ ba, các tác giả trực tiếp nghiên cứu về người làm chứng, người
phiên dịch trong TTHS Việt Nam dưới góc độ là bài báo đăng trên tạp chí

khoa học. Đó là các bài viết: “Người phiên dịch, người giám định và vấn đề
tính hợp pháp của chứng cứ” của tác giả Nguyễn Nông đăng trên Tạp chí
kiểm sát số 04/2006; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc bảo đảm
sự tham gia của người phiên dịch trong hoạt động TTHS” của Tiến sỹ Trần
Cơng Phân đăng trên tạp chí kiểm sát số 04/ 2007; “Sự trợ giúp ngôn ngữ của
người phiên dịch trong TTHS Việt Nam” của tác giả Mai Thanh Hiếu đăng
trên tạp chí Luật học số 02/2012. Những bài viết này chỉ mới giải quyết được
một phần nội dung về người phiên dịch mà chưa có có cơng trình nghiên cứu
chuyên sâu, nghiên cứu có hệ thống về người phiên dịch, người dịch thuật.
Với tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng định việc
nghiên cứu đề tài “Người phiên dịch, người dịch thuật trong Luật tố tụng

3


hình sự Việt Nam” là địi hỏi khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa cả mặt lý luận
lẫn thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu quy định của Luật TTHS về người
phiên dịch, người dịch thuật, đối chiếu những quy định này trong thực tiễn, từ
đó luận văn tổng kết và đúc rút và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả tham gia tố tụng của người phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đặt ra và giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề có liên quan về người phiên dịch, người
dịch thuật trong TTHS; Phân tích những quy định của luật TTHS về người phiên
dịch, người dịch thuật và thực tiễn áp dụng nhưng quy định này trên thực tế;
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng của người

phiên dịch, người dịch thuật.’
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là những vấn đề lý luận, những quy
định của Luật TTHS Việt Nam về người phiên dịch, người dịch thuật.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Về mặt lý luận, luận văn tập trung
nghiên cứu khái niệm về người phiên dịch, người dịch thuật, căn cứ công
nhận người phiên dịch, người dịch thuật là người tham gia TTHS, phiên dịch,
dịch thuật trong các giai đoạn tố tụng, sự phát triển của pháp luật TTHS Việt
Nam về người phiên dịch. Khi nghiên cứu quy định của luật TTHS về người
phiên dịch, người dịch thuật, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về
người phiên dịch, người dịch thuật trong Bộ luật TTHS năm 2003 và trong Bộ
luật TTHS năm 2015. Về thực tiễn, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các

4


quy định về người phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS từ năm 2015 đến
năm 2019. Về giải pháp, luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật
TTHS và những giải pháp thực tiễn khác nhằm nâng cao hiệu quả tham gia tố
tụng của người phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, nhằm tiếp cận và sáng tỏ về mặt lý luận
từng vấn đề tương ứng, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp
hỏi ý kiến chuyên gia...
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật
học về người phiên dịch, người dịch thuật trong Luật TTHS. Thông qua kết
quả nghiên cứu và các đề xuất kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp một

phần cơng sức nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật về người phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS. Ngoài ra, luận văn có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy
về khoa học luật TTHS và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan
Cơng an, Viện kiểm sát, Tịa án.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận chung, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo
và danh mục các từ viết tắt, nội dung luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về người
phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về người
phiên dịch, người dịch thuật và những kiến nghị, đề xuất

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
NGƯỜI PHIÊN DỊCH, NGƯỜI DỊCH THUẬT TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm người phiên dịch trong tố tụng hình sự
“Phiên dịch” là từ ngữ Hán Viêt trong đó “phiên” có nghĩa là chuyển
dịch ngơn ngữ hay kí hiệu; “dịch” có nghĩa là chuyển nội dung diễn đạt từ
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Theo từ điển Tiếng Việt 2009 thì “phiên
dịch là việc chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác” [36, tr.587].
Như vậy, ngôn ngữ cần dịch được gọi là ngôn ngữ nguồn, ngôn ngữ cần
được dịch đến là ngôn ngữ đích. Trong quyết định quy định về cộng tác viên
dịch thuật và khung thù lao mức dịch thuật của một ủy ban nhân dân một số
tỉnh như Phú Yên, Đắk Lắk,... có giải thích: “Phiên dịch là việc nhắc lại lời

nói của một người nói bằng ngơn ngữ nước ngồi hoặc mô tả lại hành vi, cử
chỉ của một người sang tiếng Việt và ngược lại nhằm làm cho các bên hiểu để
giải quyết một công việc”.
Người phiên dịch được hiểu là người thực hiện việc chuyển ngôn ngữ này
sang ngôn ngữ khác mà không làm thay đổi nghĩa của nó. Vì bản chất của
phiên dịch là việc chuyển đổi văn bản nói từ ngơn ngữ này sang ngơn ngữ
khác một cách trực tiếp, nhanh chóng mà khơng cần sử dụng từ điển hay tài
liệu tham khảo bổ sung nào khác, nên người dịch phải chịu sức ép rất lớn về
thời gian, phản ứng rất nhanh và gần như không có thời gian để suy nghĩ cân
nhắc về từ ngữ. Do đó, người phiên dịch phải có khả năng nghe đồng thời và
khả năng giải thích tốt. Người phiên dịch cần xử lí và ghi nhớ lời của người
nói đồng thời dịch sang ngơn ngữ mục tiêu trước đó năm đến mười giây.

6


Ngồi ra, người phiên dịch phải có kỹ năng nói trước cơng chúng tốt, khả
năng trí tuệ để ngay lập tức biến đổi thành ngữ và giải thích cho người nghe
có thể hiểu dễ dàng trong khoảng thời gian cho phép. Hoạt động này thường
dùng trong các hội nghị, hội thảo quốc tế và người dịch thường ngồi trong
phòng cách âm, dịch qua micro, nghe qua tai nghe và dịch đồng thời cùng với
diễn giả (còn gọi là dịch cabin). Bên cạnh đó, hoạt động này cũng được dùng
khi những người khác ngôn ngữ gặp nhau để giao tiếp hoặc trao đổi công
việc. Người phiên dịch sẽ phải sử dụng lời nói để truyền đạt hàm ý hoặc
thơng điệp của người nói đến người nghe.
Trong xu thế phát triển như hiện nay, người phiên dịch đóng vai trị quan
trọng khơng chỉ trong hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mà còn là nhân
tố bảo vệ quyền lợi của chủ thể tham gia tố tụng. Nhiều ngành luật trong hệ
thống pháp luật Việt Nam có quy định liên quan đến người phiên dịch. Ví dụ,
trong Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính có đưa ra khái niệm người

phiên dịch như sau: “Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngơn
ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố
tụng không sử dụng được tiếng Việt” [28].
Trong TTHS, để giải quyết vụ án hình sự cần có sự tham gia của rất nhiều
chủ thể bao gồm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Người phiên dịch thuộc
nhóm người tham gia tố tụng. Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật TTHS
“Tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS là tiếng Việt”. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp mà người tham gia tố tụng không thể sử dụng được tiếng
Việt hoặc sử dụng nhưng khơng thành thạo thì “Người tham gia tố tụng có
quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần
phải có phiên dịch”. Trong những trường hợp này, sản phẩm của người phiên
dịch quyết định rất lớn chất lượng của hoạt động tố tụng, nhất là liên quan đến

7


các hoạt động tố tụng nhằm thu thập chứng cứ thuộc nhóm dấu vết phi vật
chất như: âm thanh, ánh sáng, màu sắc, mùi vị…(là những tình tiết phản ánh
vào ý thức chủ quan của những người biết những tình tiết đó) được tiến hành
bằng các hoạt động tố tụng như: hỏi cung bị can, lấy lời khai, tranh tụng…
Như vậy, người phiên dịch là một trong những người tham gia tố tụng, họ có
vai trị khá quan trọng trong việc bảo đảm tính xác thực và tính hợp pháp của
chứng cứ. Cụ thể, khi bản cung của bị can, lời khai của những người tham gia
tố tụng được coi là chứng cứ khi nó được ghi nhận, phản ánh theo quy định của
Bộ luật TTHS và phù hợp với chứng cứ khác của vụ án. Những ghi nhận này là
quá trình phản ánh của phản ánh, nghĩa là: lời khai của người tham gia tố tụng
là quá trình phản ánh sự việc qua ý thức chủ quan của họ được tái hiện lại bằng
các hoạt động ghi nhận của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Đồng thời,
một lần nữa được người phiên dịch ghi nhận và phản ánh lại, giữa ngơn ngữ

khác nhau dù có tương đồng về trình độ phát triển thì cũng ln tồn tại những
điểm khác biệt, đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến ngữ nghĩa của ngôn ngữ khi
phiên dịch sang các ngơn ngữ khác nhau, làm ảnh hưởng đến tính khách quan,
tính chính xác của chứng cứ, nhất là trong trường hợp phải sử dụng hai người
phiên dịch trở lên và phiên dịch theo hình thức bắc cầu qua ngơn ngữ trung
gian. Do đó, nếu người phiên dịch dù cố ý hay vô ý phiên dịch không đầy đủ,
không đúng nội dung của các thông tin trong ngôn ngữ của người tham gia tố
tụng ra tiếng Việt thì sẽ làm giảm hoặc làm mất tính xác thực của thơng tin.
Chính vì tầm quan trọng của người phiên dịch trong việc đảm bảo giá trị chứng
minh của chứng cứ nên pháp luật TTHS đã quy định người phiên dịch là một
trong những người tham gia tố tụng.
Trước khi Bộ luật TTHS năm 2015 ra đời, chưa có khái niệm cụ thể về
người phiên dịch nhưng thơng qua một số cơng trình nghiên cứu đã đưa ra
một số khái niệm, quan điểm về người phiên dịch trong TTHS.

8


Có quan điểm cho rằng: “Người phiên dịch là người thông thạo tiếng
Việt, ngoại ngữ hoặc ngôn ngữ của DTTS Việt Nam cần phiên dịch trong vụ
án” [18]. Quan điểm này đã liệt kê các đối tượng ngôn ngữ cần cho việc
phiên dịch nhưng chưa nêu ra được các chủ thể có thẩm quyền yêu cầu người
phiên dịch. Trong cuốn sách bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2003,
GS.TS Nguyễn Ngọc Anh đã đưa ra khái niệm người phiên dịch trong TTHS
như sau: “Người phiên dịch là người biết những ngôn ngữ cần thiết cho việc
giải quyết vụ án được các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu tham gia tố tụng
trong những trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng
Việt”. Hay như trong cuốn sách Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa đưa ra khái niệm: “Người phiên dịch là người tham gia tố
tụng theo yêu cầu của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án để dịch

ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và dịch ngược lại”.
Hai quan điểm về người phiên dịch nêu ở trên mặc dù đã bao quát được đối
tượng ngôn ngữ cần phiên dịch trong vụ án và nêu được chủ thể có thẩm quyền
yêu cầu người phiên dịch tham gia tố tụng là các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án). Tuy nhiên, ngồi các chủ thể đã được liệt kê
ở trên thì cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có
thể có thẩm quyền yêu cầu người phiên dịch tham gia tố tụng. Từ một số quan
điểm đã đưa ra, có thể nhận thấy người phiên dịch trong TTHS có các đặc điểm
sau đây:
Thứ nhất, người phiên dịch là người tham gia tố tụng.
Trong quan hệ pháp luật TTHS ln có sự tham gia của hai loại chủ thể
đó là chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng (gồm cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng; người có thẩm quyền tiến hành tố tụng) và người tham gia
tố tụng. Người tham gia tố tụng là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt
động tố tụng theo quy định của bộ luật TTHS.

9


Như vậy, người phiên dịch là người tham gia tố tụng nằm ở nhóm các chủ
thể tham gia tố tụng bằng việc dịch ngôn ngữ khác sang tiếng Việt (ngược lại)
để làm rõ các tình tiết của vụ án.
Thứ hai, người phiên dịch phải là người có khả năng dịch được ngôn ngữ
khác ra tiếng Việt.
Ngôn ngữ khác ở đây có thể là tiếng nước ngồi, tiếng DTTS, hoặc có thể
là ngôn ngữ cử chỉ, hành vi. Người phiên dịch đóng vai trị là người “thơng
ngơn”, có nghĩa là phải hiểu được ngôn ngữ cần phiên dịch và phải dịch được
sang tiếng Việt. Trong các vụ án hình sự cần có sự tham gia của người phiên
dịch, khả năng dịch của họ có ảnh hưởng khá lớn trong việc xác định sự thật
khách quan của vụ án, chính vì vậy trong q trình thực hiện cơng việc của

mình, người phiên dịch phải dịch chính xác, sát nghĩa nhất ngơn ngữ nguồn ra
tiếng Việt và ngược lại. Người phiên dịch là một trong những người tham gia tố
tụng, họ đóng vai trị trong việc bảo đảm tính xác thực và tính hợp pháp của
chứng cứ. Nếu người phiên dịch dù cố ý hay vô ý phiên dịch không đầy đủ,
không đúng nội dung của các thông tin trong ngôn ngữ của người tham gia tố
tụng ra tiếng Việt thì sẽ làm giảm hoặc làm mất tính xác thực của thơng tin.
Thứ ba, người có khả năng phiên dịch trở thành người phiên dịch trong
TTHS khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Người có khả năng dịch được ngơn ngữ khác ra tiếng Việt chỉ có thể trở
thành người phiên dịch trong TTHS khi được cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng yêu cầu. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là những cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có quyền trưng cầu người phiên dịch. Để tham gia
vào hoạt động TTHS, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu thì
người phiên dịch mới thực hiện nhiệm vụ phiên dịch.

10


Từ các đặc điểm đã phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm người phiên
dịch trong TTHS như sau: Người phiên dịch trong TTHS là người tham gia tố
tụng, có khả năng dịch từ một ngơn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại, được
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu người phiên
dịch trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt.
1.1.2. Khái niệm người dịch thuật trong tố tụng hình sự
Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định về người phiên dịch, theo đó có thể
hiểu ngắn gọn, người phiên dịch là người dịch giao tiếp, trong khi đó, có trường
hợp người tham gia TTHS khơng sử dụng được tiếng Việt, có nghĩa là khơng nói
được, khơng viết được bằng tiếng Việt; cùng với đó, có những tài liệu khơng
phải bằng tiếng Việt (có thể là tiếng nước ngồi, tiếng DTTS) thì ngồi việc dịch

giao tiếp thì cịn cần phải dịch bằng văn bản. Vì vậy, cùng với quy định về người
phiên dịch, Bộ luật TTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định về người dịch thuật là
người tham gia tố tụng. Đồng thời, để đảm bảo cơ sở pháp lý đầy đủ về vấn đề
này trong hoạt động TTHS. Vì người dịch thuật là người tham gia tố tụng lầu
đầu tiên được quy định trong Bộ luật TTHS nên hiện nay chưa có một văn bản
pháp lý nào có một khái niệm riêng về người dịch thuật.
Theo nghĩa Hán Việt, “dịch” có nghĩa là chuyển dịch ngơn ngữ hay ký
hiệu, “thuật” có nghĩa là kỹ thuật, học thuật. “Dịch thuật” được hiểu là
phương pháp giải nghĩa từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Như vây, dịch
thuật là một hoạt động bao gồm việc luận giải ý nghĩa của một đoạn văn hoặc
một văn bản trong một ngơn ngữ nào đó (văn nguồn) và chuyển sang một
ngôn ngữ khác thành đoạn văn mới và tương đương văn đích hay bản dịch.
Nói một cách dễ hiểu hơn, dịch thuật là công việc chuyển đổi từ ngơn ngữ
nước ngồi trong các loại văn bản, giấy tờ sang tiếng Việt hoặc ngược lại.
Nếu như người phiên dịch là người dịch lại lời nói của một người nói
bằng ngơn ngữ nước ngồi hoặc mơ tả lại hành vi, cử chỉ của một người sang

11


tiếng Việt và ngược lại nhằm làm cho các bên hiểu để giải quyết một cơng
việc cụ thể thì người dịch thuật là người làm công việc chuyển đổi từ ngơn
ngữ nước ngồi trong các loại văn bản, giấy tờ sang tiếng Việt hoặc ngược
lại. Mục đích của dịch thuật là diễn đạt lại ý tưởng, ngôn ngữ với độ chính
xác tối đa. Dùng lời của người dịch để thay đổi ý nghĩa của văn bản hay quan
điểm của người khác là điều khơng cho phép. Bên cạnh đó, họ phải truyền tải
thông tin một cách trung thực, không tự ý sửa đổi ý tưởng của người khác.
Có thể đưa ra khái niệm người dịch thuật trong TTHS như sau: Người
dịch thuật trong TTHS là người tham gia tố tụng, có khả năng chuyển đổi
ngơn ngữ trong các tài liệu tố tụng sang tiếng Việt, được Cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu người dịch thuật trong
trường hợp có tài liệu tố tụng khơng thể hiện bằng tiếng Việt.
Người phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS là cầu nối giữa người
tham gia tố tụng khơng sử dụng được tiếng Việt và cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng. Vai trò của người phiên dịch, người dịch thuật là tham gia
tố tụng với tư cách người phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết và làm sáng tỏ vụ án hình sự. Lý do tham gia
của người phiên dịch, người dịch thuật trong TTHS không phải vì lợi ích của
họ mà là vì lợi ích của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bị can, bị
cáo,... và của toàn xã hội. Khi so sánh vai trò, chức năng tố tụng của họ với
những chủ thể tham gia tố tụng khác như bị can, bị cáo có thể thấy sự khác
biệt về tư cách tố tụng. Cụ thể, nếu như bị can, bị cáo là người bị buộc tội
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình thì người phiên dịch,
người dịch thuật tham gia tố tụng với tư cách là người phối hợp với cơ quan
có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án tham gia tố tụng khơng vì lợi
ích của cá nhân. Bằng việc dịch chính xác, trung thực ngôn ngữ của người
tham gia tố tụng cũng như các văn bản tố tụng không được thể hiện bằng

12


tiếng Việt sẽ góp phần làm sáng tỏ những tình tiết trong quá trình điều tra,
chứng minh tội phạm.
Đối với người tham gia tố tụng, sự tham gia của người phiên dịch, người
dịch thuật nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Những người
tham gia tố tụng không biết hoặc không sử dụng thành thạo tiếng Việt có
quyền thơng qua phiên dịch, dịch thuật tìm hiểu hồ sơ, tham gia vào các hoạt
động tố tụng, phát biểu tại Tịa án bằng tiếng dân tộc của mình.
Đối với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, sự tham gia của người
phiên dịch, người dịch thuật giúp kết nối với người tham gia tố tụng một cách

thuận lợi và hiệu quả nhất. Thông qua phiên dịch, dịch thuật, chủ thể tiến
hành tố tụng có thể nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án hình
sự đồng thời đảm bảo củng cố các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Trong trường họp người phiên dịch, người dịch thuật không dịch một cách
khách quan, khơng chính xác, khơng đúng sự thật sẽ làm cho quá trình tố tụng
phức tạp hơn, quá trình đều tra kéo dài, hao phí tiền bạc của Nhà nước. Có thể
thấy vai trò của người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự là rất
quan trọng, có sức ảnh hưởng lớn đối với việc làm sáng tỏ nội dung của vụ án
trong trường hợp có người tham gia tố tụng không biết tiếng Việt hoặc tài liệu
không được thể hiện bằng tiếng Việt.
1.2. Căn cứ công nhận người phiên dịch, người dịch thuật tham gia tố
tụng hình sự
1.2.1. Căn cứ pháp lý
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
quy định“các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của mình” (Điều 5), kể
cả người nước ngoài, người dân tộc đều bình đẳng khi tham gia các quan hệ
pháp luật và có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình khi tham gia
vào các quan hệ tố tụng. Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Tiếng nói và chữ

13


viết dùng trong TTHS là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng
nói và chữ viết của dân tộc mình, trường hợp này phải có phiên dịch”.
Cũng tương tự như trong Bộ luật TTHS, tại Điều 15 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Tiếng nói, chữ viết dùng trước Tịa án là
tiếng Việt. Tòa án đảm bảo cho những người tham gia tố tụng quyền dùng
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tịa án nhân dân, trường hợp này
phải có người phiên dịch”.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ người nào có khả năng phiên dịch hoặc khả

năng dịch thuật đều là người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình
sự. Để trở thành người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự phải
có những văn bản tố tụng cơng nhận họ có đủ khả năng tham gia tố tụng hình
sự với tư cách người phiên dịch, người dịch thuật.
Trong trường hợp vụ án hình sự có người tham gia tố tụng khơng biết
tiếng Việt hoặc có những tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án,...) và người tiến hành tố tụng ban hành những văn bản pháp lý yêu cầu
người phiên dịch, người dịch thuật tham gia tố tụng.
Như vậy, căn cứ công nhận người phiên dịch, người dịch thuật tham gia tố tụng
hình sự là phải có văn bản của cơ quan có thẩm quyền tố tụng ghi rõ họ và tên
người phiên dịch, người dịch thuật tham gia vụ án hình sự về tội gì được quy định ở
điều khoản nào của Bộ luật hình sự chứ không thể tùy tiện bất kỳ người nào.
1.2.2. Căn cứ thực thi pháp luật tố tụng hình sự giải quyết vụ án hình sự
Việc sử dụng ngơn ngữ của con người có mức độ (thơng thạo hay khơng
thơng thạo) và các kĩ năng (nói, đọc, viết) cũng có sự phân hóa khác nhau.
Luật TTHS Việt Nam khơng quy định rõ việc “không sử dụng được tiếng
Việt” ở mức độ và kỹ năng nào thì mới bắt buộc có sự trợ giúp ngôn ngữ của
người phiên dịch, người dịch thuật. Nếu là ngơn ngữ nói trong TTHS hiện

14


nay, người tham gia tố tụng chủ yếu là dùng lời nói nên khơng sử dụng được
ngơn ngữ dùng trong TTHS phải là khơng nói được thơng thạo tiếng Việt
(loại ngơn ngữ khơng nói được thơng thạo là ngơn ngữ đời thường khơng địi
hỏi phải là ngơn ngữ pháp lí). Nếu là ngôn ngữ bằng văn bản (viết), các tài
liệu tố tụng có thể là bất kỳ và nó liên quan có thể nhiều hoặc ít đến nội dung
vụ án, có giá trị chứng minh vụ án. Do đó, người tham gia tố tụng không sử
dụng được tiếng Việt và cần sự trợ giúp ngôn ngữ của người phiên dịch,

người dịch thuật là trường hợp người đó khơng sử dụng được tiếng Việt ở
mức độ không thông thạo hoặc không nói được tiếng Việt, khơng hiểu rõ
được ngơn ngữ trong các văn bản TTHS của các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành TTHS Việt Nam.
Tiếng nói, chữ viết trong TTHS Việt Nam là tiếng Việt. Trong những
trường hợp người tham gia tố tụng khơng nói hoặc viết được bằng tiếng Việt
hoặc các văn bản, giấy tờ thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng khơng
được thể hiện bằng tiếng Việt cần có sự tham gia của người phiên dịch, người
dịch thuật. Hay nói cách khác, người phiên dịch, người dịch thuật tham gia
hoạt động TTHS chỉ khi có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng
Việt hoặc các tài liệu, chứng cứ thu thập không được thể hiện bằng tiếng Việt.
Căn cứ vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự có thể xác định những
trường hợp cần sự trợ giúp của người phiên dịch, người dịch thuật như sau:
Thứ nhất, trong các vụ án hình sự có sự tham gia tố tụng của người nước
ngồi cần phải có người phiên dịch, người dịch thuật để phiên dịch ngơn ngữ
hoặc dịch thuật các văn bản có liên quan.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cư trú của
người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, người nước ngoài là người mang
giấy tờ xác định quốc tịch nước ngồi và người khơng có quốc tịch nhập
cảnh, xuất cảnh, quá cảnh cư trú tại Việt Nam [26]. Trong thời kỳ hội nhâp

15


kinh tế quốc tế, số lượng người nước ngoài sinh sống, làm việc, du lịch đến
Việt Nam ngày càng tăng. Điều này dẫn đến tình trạng sự tham gia của chủ
thể là người nước ngồi trong các vụ án hình sự càng nhiều. Vậy khi có người
nước ngồi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự làm thế nào để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ?
Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có quy định, trường

hợp người nước ngồi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao, lãnh sự thì
được giải quyết thơng qua điều ước quốc tế hoặc con đường ngoại giao. Nếu
người nước ngồi khơng được hưởng những đặc quyền ngoại giao thì họ phải
tham gia vào các hoạt động TTHS theo pháp luật Việt Nam. Người nước
ngồi có thể đóng vai trò là bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan,... trong q trình giải quyết vụ án hình sự. Trong trường
hợp những người này khơng biết, khơng hiểu tiếng Việt thì để bảo vệ quyền
và lợi ích của họ cần phải có sự trợ giúp của người phiên dịch, người dịch
thuật. Người phiên dịch tham gia trong các buổi lấy lời khai, dịch các văn bản
(hợp đồng kinh tế, các chứng từ quyết tốn,...) cho nên, khơng có người phiên
dịch, người dịch thuật thì khơng giải quyết được vụ án.
Thứ hai, trường hợp người DTTS tham gia TTHS không biết tiếng Việt,
các tài liệu, văn bản viết bằng chữ dân tộc cần phiên dịch, dịch thuật.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Người
Kinh chiếm 85,4% dân số Việt Nam với 78,32 triệu người; 53 DTTS còn lại
chỉ chiếm 14,6% dân số cả nước [30]. Đồng bào DTTS tập trung chủ yếu ở
các khu vực vùng núi, vùng sâu,vùng xa và được phân chia theo hệ ngôn ngữ.
Ngôn ngữ của các dân tộc Việt Nam được chia làm 8 nhóm: Việt – Mường,
Tày – Thái, Mơn – Khmer, Mông – Dao, Ka đai, Nam đào, Hán và
Tạng. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Quyền người DTTS và miền núi

16


năm 2015, tỉ lệ người DTTS biết đọc và viết phổ thông (tiếng Việt) là 79,8%, tuy
nhiên con số này biến thiên từ mức thấp nhất là 34,6% với dân tộc La Hủ, tới cao
nhất là các dân tộc Thổ, Mường, Tày và Sán Dìu đạt 95%. Như vây, trên thực tế
sẽ xẩy ra trường hợp người DTTS không biết đọc, viết tiếng Việt tham gia vào
hoạt động TTHS. Để phù hợp với nguyên tắc mọi hoạt động tố tụng được tiến

hành bằng tiếng Việt và để bảo vệ quyền của người DTTS được dùng tiếng nói,
chữ viết của mình trước Tịa án thì cần có sự tham gia của người phiên dịch,
người dịch thuật. Thông qua phiên dịch, dịch thuật đóng vai trị quan trọng trong
việc truyền tải thơng tin giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng, từ đó giúp nhanh chóng xác định sự thật khách quan và giải
quyết vụ án khách quan, đảm bảo công bằng.
Thứ ba, trường hợp người câm, người điếc, người mù tham gia TTHS cần
có sự trợ giúp của người phiên dịch, người dịch thuật để phiên dịch, dịch
thuật cử chỉ, hành vi, chữ của họ.
Đây là trường hợp những người được pháp luật xác định là người khuyết tật
và khuyết tật này đã ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tiếng Việt của họ. Theo quy
định, nghiên cứu quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 Luật người khuyết tật năm
2010 về quyền của người khuyết tật, người khuyết tật: “Được chăm sóc sức khỏe,
phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận
cơng trình cơng cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn
hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật”.
Về dạng tật và mức độ khuyết tật, tại Điều 3 Luật người khuyết tật quy định
dạng tật bao gồm: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn;
khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mức độ khuyết
tật được chia theo mức độ sau: người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết
tật dẫn đến không thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng
ngày; người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực

17


hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; người khuyết tật
nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định ở 2 điểm trên.
Ngày 02/01/2019, Bộ Lao động Thương binh và xã hội đã ban hành
Thông tư số 01/2019/TT- BLĐTBXH quy định về việc xác định mức độ

khuyết tật do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện. Trong đó,
Thơng tư đã ban hành mẫu số 01, 02, 03 về việc xác nhận lại mức độ khuyết
tật, xác nhận mức độ khuyết tật cho người dưới 6 tuổi và xác nhận mức độ
khuyết tật cho người từ 6 tuổi trở lên. Tại 3 bảng biểu này, quy định rất cụ thể
từng mức độ khuyết tật tương ứng với từng loại khuyết tật. Tuy nhiên lại
khơng có quy định đề cập đến dạng khuyết tật nào, mức độ khuyết tật cụ thể
bao nhiêu được hưởng quyền trợ giúp pháp lý theo quy định của luật. Chính
vì lẽ đó, đã gây ra sự lúng túng cho cơ quan được tiến hành tố tụng. Có thể
thấy rằng, trong trường hợp người tham gia TTHS là người câm, người điếc,
người mù thì người phiên dịch, người dịch thuật không phải là “người biết
được cử chỉ, hành vi của người câm và người điếc, chữ của người mù” (khoản
6 Điều 70 Bộ luật TTHS) mà phải là “người biết rõ ngơn ngữ kí hiệu của
người câm và người điếc và biết rõ chữ của người mù”.
Thực tế, người tham gia tố tụng bị câm, điếc có thể vẫn sử dụng được
ngôn ngữ dùng trong TTHS ở những mức độ và kĩ năng nhất định mặc dù
không thể nghe hoặc nói được tiếng Việt nhưng họ vẫn có thể viết. Do vậy,
người tham gia tố tụng bị câm, điếc có thể trình bày trực tiếp dưới hình thức
văn bản như viết ra giấy (nếu họ có khả năng đó) thì chính xác hơn so với sự
trung gian của phiên dịch. Riêng đối với người mù, họ chỉ bị khuyết tật về khả
năng nhìn (mất hồn tồn) nhưng vẫn có thể nói, có thể nghe bằng tiếng Việt
mà họ không thể viết văn bản bằng tiếng Việt. Do đó, trong trường hợp cần sử
dụng đến chữ viết của họ hoặc dịch những tài liệu từ chữ viết của họ ra tiếng
Việt hoặc ngược lại thì cần người dịch thuật.

18


×