Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài thu hoạch van hoa va phat trien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.9 KB, 13 trang )

1

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Từ những năm cuối của thế kỷ XX, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội,
đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính có quy mơ lớn trên bình diện tồn cầu đã
đặt ra u cầu phát triển bền vững. Một loạt vấn đề được đưa ra là quan hệ giữa
tăng trưởng và phát triển, những thành tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững và
quan hệ biện chứng của các thành tố đó; vai trị của văn hóa, cách thức chỉ đạo
và tổ chức thực tiễn để bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Đó là các vấn đề cần
được giải quyết của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Sự phát triển bền vững của đất nước gồm các trụ cột cơ bản là bền vững
về kinh tế, bền vững về chính trị - xã hội, bền vững về mơi trường và bền vững
về văn hóa. Trong điều kiện vơ cùng phức tạp và rất khó lường của thế giới hiện
nay, khi mà nước ta đang trong tình trạng "phát triển kém bền vững cả về kinh tế,
văn hóa, xã hội và mơi trường" thì văn hóa ngày càng có vị trí và vai trị đặc biệt
hơn. Muốn phát triển bền vững đất nước, chúng ta rất cần một tầm nhìn lâu dài,
tổng thể, bao quát nhiều mặt và tồn diện; rất cần một cách nhìn và cách tiếp cận
hệ thống dân tộc, vừa tiếp thu có chọn lọc những giá trị, cả trong quá khứ lẫn
hiện tại, của các nền văn hóa và khoa học hiện đại khác của thế giới trong quá
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Để làm rõ hơn vấn đề trên, tôi đã lựa
chọn chủ đề: “Quan điểm của Đảng ta về vai trị của văn hóa, con người Việt
Nam đối với sự phát triển bền vững đất nước”.


2

PHẦN II: NỘI DUNG
I. Lý luận chung về văn hóa
1. Khái niệm văn hóa
Theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến nay đã có hàng ngàn định nghĩa văn
hóa trong tài liệu phổ thông, hàn lâm đến môi trường truyền thơng báo chí,


Internet. Và nhân loại vẫn tiếp tục bổ sung, làm rõ nội hàm khái niệm văn hóa.
Chẳng hạn như:
- Văn hóa là "tri quyển" (tức khơng gian trí tuệ của nhân loại vừa hữu hình
lại vừa vơ hình) cùng song trùng tồn tại với không gian sống của đại tự nhiên (là
sinh quyển bao gồm thạch quyển, khí quyển và thủy quyển).
- Văn hóa là cái cịn lại sao khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu
khi người ta đã học tất cả.
- Văn hóa là tồn bộ những gì phi tự nhiên, là sự "nhân hóa" tự nhiên của
con người.
- Văn hóa là thiên nhiên thứ hai do loài người sáng tạo ra.
Tuy văn hóa là khái niệm đã nghĩa nhưng vẫn có những điểm chung được
đa số giới chuyên môn thừa nhận như sau:
- Về phương diện lồi, văn hóa là sản phẩm đặc hữu chỉ có ở lồi người,
nó là cái dùng để phân biệt giữa con người và động vật.
- Về phương diện cá nhân, văn hóa là sức mạnh bản chất của con người,
thể hiện một trong hoạt động sống và phương thức sống của con người, thể hiện
trong bản thân con người và tầm vóc phát triển của con người.
- Về phương diện đời sống, văn hóa là phương thức tồn tại độc đáo của xã
hội người, khác về cơ bản với tổ chức đời sống của quần thể động vật.
- Về phương diện biểu hiện, văn hóa thông qua hệ thống biểu tượng mà
truyền đạt trong xã hội, được con người bắt chước, học tập, chứ không phải di
truyền theo con đường sinh học.


3

Văn hóa là hiện tượng xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của loại
người. Văn hóa là dấu hiệu phân biệt giữa người và động vật. Văn hóa được xem
là tổng thể tồn bộ ý thức xã hội của con người. Đó là trí tuệ, hiểu biết của nhân
loại được sáng tạo và hình thành trong lao động và hoạt động thực tiễn ở một

hoàn cảnh cụ thể (với không gian và thời gian xác định trong dòng chảy lịch sử,
cộng đồng xã hội) nhằm hướng tới mục đích sinh sống, tồn tại và phát triển. Do
đó, con người ở những điều kiện tự nhiên khác nhau sẽ có cách ứng xử riêng
bằng hiểu biết của họ với vùng tự nhiên đó, tạo ra văn hóa vùng miền. Từ trí tuệ,
hiểu biết nảy sinh ra quan niệm về các uy ước cộng đồng lặp đi, lặp lại theo thời
gian, hình thành tập qn, phong tục có tác dụng điều chỉnh hành vi xã hội, thói
quen hàng ngày của con người.
2. Bản chất, cấu trúc, chức năng của văn hóa
Về bản chất, có thể hiểu văn minh là khái niệm dùng để chỉ trạng thái phát
triển của xã hội khi đã đạt đến trình độ nhất định được đánh dấu bằng sự ra đời
của chữ viết, sự hình thành tổ chức nhà nước, có một trình độ kỹ thuật phát triển
cao phục vụ sản xuất và các nhu cầu của đời sống tinh thần theo xu hướng nhân
bản hóa. Văn minh là trình độ của một nền văn hóa, là nấc thang của một nền
văn hóa trong tiến trình phát triển. Thơng thường, khái niệm văn minh cũng được
dùng để chỉ trình độ phát triển của nhân loại đạt tới trong một thời điểm lịch sử
nào đó. Chẳng hạn, người ta hay nói đến văn minh nơng nghiệp, văn minh công
nghiệp, văn minh hậu công nghiệp...
Về cấu trúc của một nền văn hóa, thơng thường, người ta chia thành hai lĩnh
vực: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất là các giá trị văn hóa
hướng tới đáp ứng nhu cầu vật chất của con người (nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại...).
Văn hóa tinh thần là giá trị văn hóa hướng tới đáp ứng nhu cầu tinh thần của con
người (hệ tư tưởng, văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa


4

khoa học, giáo dục lối sống, tín ngưỡng, tơn giáo, nghệ thuật...). Tuy nhiên, việc
chia cơ cấu văn hóa thành hai bộ phận như trên chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì
khơng có hiện tượng văn hóa nào khơng dựa vào các yếu tố vật chất mà có thể tồn
tại và phát triển được. Trong đời sống xã hội, khơng có gì thuần túy chỉ là vật chất

hoặc thuần túy chỉ là tinh thần. Hai bộ phận "văn hóa vật chất" và "văn hóa tinh
thần" ln tác động lẫn nhau, thâm nhập vào nhau và làm tiền đề cho nhau. Do
vậy, để phát triển một nền văn hóa, người ta phải tác động vào cả hai yếu tố, hai
bộ phận của nó. Đây chính là ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu cơ cấu của văn
hóa.
Như vậy, xét về phương diện cấu trúc, văn hóa là hóa là hoạt động tinh
thần của con người hướng tới sáng tạo các giá trị chân, thiện, mỹ. Tổng thể các
hoạt động văn hóa tạo nên "thiên nhiên thứ hai" ni dưỡng con người. Chính
với ý nghĩa đó, văn hóa có những chức năng xã hội đặc biệt. Chức năng của một
sự vật, hiện tượng là mối quan hệ, là sự tác động của sự vật, hiện tượng ấy với
các sự vật, hiện tượng khác trong cùng một hệ thống. Văn hóa là một sự vật, một
hiện tượng trong đời sống xã hội nên nó cũng có quan hệ và tác động đến các sự
vật, hiện tượng khác của đời sống xã hội.
3. Quy luật vận động, phát triển của văn hóa
Cũng như mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, văn hóa ln nằm trong q
trình phát triển và biến đổi không ngừng. Sự phát triển từ thấp đến cao, sự thay
đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác là hiện tượng thường xuyên xảy ra
trong lịch sử. Cắt nghĩa một cách khoa học các hiện tượng đó có nghĩa là chỉ ra
quy luật phát triển của văn hóa. Vậy các quy luật vận động, phát triển của văn
hóa là gì? Trước hết phải thấy rằng, văn hóa là hoạt động tinh thần, thuộc về ý
thức của con người. Vì vậy, sự phát triển của văn hóa chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế, chính trị của một chế độ xã hội nhất định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế và


5

chính trị ấy sẽ khơng thể hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa.
Văn hóa, theo nghĩa đích thực của nó, bao giờ cũng vươn tới chân, thiện,
mỹ. Chính trong q trình đó, văn hóa hướng tới nhân dân, hướng tới các tư
tưởng chính trị tiên tiến của thời đại. Đây chính là quy luật kế thừa của văn hóa.

Vậy thế nào là kế thừa trong phát triển văn hóa? Theo quan điểm duy vật biện
chứng, kế thừa là một trong những mặt bản chất nhất của quy luật phủ định của
phủ định biểu hiện ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy như là mối liên hệ tất yếu
khách quan giữa cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển.
II. Quan điểm của Đảng về vai trị của văn hóa, con người Việt Nam
đối với sự phát triển bền vững đất nước
1. Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln khẳng định vị
trí và vai trị to lớn của văn hóa trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của
từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta chủ trương phát huy đến mức cao nhất vai trị
và tác dụng của văn hóa, của đội ngũ những người hoạt động văn hóa. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh
chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sỹ khác, chiến sỹ nghệ
thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân".
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI (1986) đã mở ra cơng cuộc đổi mới
toàn diện đất nước. Cùng với sự đổi mới về mặt tư duy, nhất là tư duy kinh tế,
trong những năm gần đây, Đảng ta đã có những tìm tịi, đổi mới sâu sắc trong tư
duy về văn hóa, khẳng định sâu sắc hơn nữa về vai trị và tác dụng của văn hóa
trong cơng cuộc xây dựng đất nước thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.


6

Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 28-11-1987 của Bộ Chính trị về "đổi mới và nâng
cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng
sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới" đã
xác định văn hóa là "bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là
động lực mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội".
Kế thừa những quan điểm của Đại hội VI, văn kiện Đại hội VII của Đảng
đã nhấn mạnh cần coi trọng động lực kinh tế và động lực tinh thần của sự phát
triển: "Kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần, thực hiện hài hịa lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy lòng yêu nước và tự hào dân tộc, truyền
thống cách mạng và kháng chiến, ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng đất
nước, tạo ra phong trào quần chúng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (1993) nêu
rõ: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội". Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) tiếp
tục khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội... Xây dựng và phát triển kinh tế
nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng, văn minh, con người phát triển tồn
diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh
tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên
mọi phương tiện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương... biến thành
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển".
Không dừng lại ở việc nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trị to lớn của văn
hóa đối với sự phát triển, Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung


7

ương khóa IX (2004) đã xác lập vị trí của văn hóa là một trong ba bộ phận hợp
thành sự phát triển bền vững, toàn diện của đất nước: "Đảm bảo sự gắn kết giữa
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt
với khơng ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự
phát triển đồng bộ của bao lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo
cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước".

Đại hội lần thứ X, XI và XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh vai trò cực kỳ
quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển đất nước. Như vậy, văn hóa khơng
đứng ngồi phát triển. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; văn hóa là nhân tố nội
sinh, sức mạnh mềm quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững đất nước.
2. Vai trò của văn hóa, con người Việt Nam đối với sự phát triển bền
vững đất nước
Trong các văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta ln khẳng định vai trị
đặc biệt quan trọng của văn hóa, con người đối với sự phát triển như sau:
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Luận điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội được nêu ra từ Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (1993), và sau đó được các văn kiện của các Đại
hội tiếp theo tiếp tục phát triển và khẳng định. Khái niệm "nền tảng" tinh thần
được hiểu là không gian tinh thần của cộng đồng, bầu khơng khí tinh thần, khí
thế của đơng đảo quần chúng nhân dân và của cộng đồng dân tộc, hệ tư tưởng
tình cảm, niềm tin, khát vọng của con người, các quan niệm đạo lý, pháp lý đạt
chuẩn mực chân, thiện, mỹ... Vai trò nền tảng tinh thần của xã hội của văn hóa
chính là sức mạnh của hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam trong hiện tại và trong
quá khứ. Truyền thống của nền văn hóa dân tộc (hữu hình và vơ hình) là một


8

dòng chảy tinh thần được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, có tác dụng chi
phối, điều chỉnh hành vi xã hội của con người.
Trong lịch sử của dân tộc ta, vai trị của văn hóa với tư cách là nền tảng
tinh thần của xã hội (văn hiến) có tác động to lớn đối với cuộc đấu tranh chống
giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước và phát triển kinh tế - xã hội (như hào khí Đơng
A thời đại nhà Trần, tinh thần đánh giặc ngoại xâm của nghĩa quân Lam Sơn với
sự xuất hiện nhà Lê, tinh thần quyết chiến, thần tốc đại phá quân Thanh của

Quang Trung Nguyễn Huệ...).
Thứ hai, văn hóa là mục tiêu của sự phát triển
Bản chất của văn hóa là sáng tạo vươn lên các giá trị chân, thiện, mỹ cao
đẹp, tạo nên tinh thần nhân văn cho con người, đem hạnh phúc đến cho mỗi con
người và toàn nhân loại. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là nhằm giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, đem hạnh
phúc đến cho con người. Cho nên, một nền văn hóa đạt trình độ cao (chân, thiện,
mỹ) chính là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, là điều mà quá trình phát
triển của nhân loại hướng tới.
Trong nhiều thập niên của thế kỷ XX, trên thế giới, khơng ít lý thuyết đã
quan niệm tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất của phát triển. Đó là quan
niệm phiến diện. Cần thay đổi một cách cơ bản quan niệm về mục tiêu phát triển.
Xét đến cùng mục tiêu đó phải là văn hóa, là nâng cao chất lượng cuộc sống của
con người, với bảo đảm sao cho kết hợp hài hòa giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần, giữa mức sống cao và lối sống đẹp, không chỉ cho một số ít người
mà cho đại đa số, không chỉ cho thế hệ hiện nay mà cho thế hệ mai sau. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011) khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà


9

bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc,
sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển". Phát triển con người được nhận
thức "là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển.
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân".
Khi coi văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng có

nghĩa là toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới phát triển con
người, phát triển xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của xã hội theo
tiêu chí phát triển mới HDI (mức sống, tuổi thọ bình quân và trình độ học vấn).
Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển (kết hợp sử dụng nguồn
nhân lực với sử dụng mọi nguồn lực khác...). Là mục tiêu của phát triển, văn hóa
thể hiện "trình độ được vun trồng" ngày càng đầy đủ, ngày càng toàn diện của
con người về thể lực, trí lực và nhân cách để mỗi người (và cộng đồng xã hội)
được hưởng một cuộc sống ngày càng tiến bộ, dân chủ, văn minh hơn. Và như
vậy, mục tiêu của phát triển phải được nhìn nhận như là một tiến trình giải phóng
con người, phát huy nguồn nhân lực con người. Quan niệm về mục tiêu phát
triển như vậy phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại tiến bộ. Đó cũng là lý
tưởng, là mục đích phấn đấu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Mục tiêu phấn
đấu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" là định hướng xã hội
chủ nghĩa, đồng thời cũng chính là mục tiêu của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa
rộng nhất của khái niệm này.
Thứ ba, văn hóa, con người là động lực, là sức mạnh nội sinh đảm bảo sự
phát triển bền vững đất nước


10

Trong những thế kỷ trước, để phát triển kinh tế người ta thường nhấn mạnh
đến việc khai thác các yếu tố lao động và đất đai, và nếu biết kết hợp lao động và
đất đai thì của cải sẽ sinh sôi, nảy nở. Ngày nay, trong điều kiện của các cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0, 5.0
và kỷ nguyên kinh tế số, yếu tố quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ, tri
thức, thơng tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những giá trị vật
chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các cá nhân và cộng
đồng.
Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có khơng chỉ là tài ngun

thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố ngày càng có ý nghĩa quan trọng và quyết
định là nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm lực sáng
tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày
càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các cá nhân và cộng đồng.
Trên thế giới, khơng ít quốc gia có nguồn tài ngun thiên nhiên hạn hẹp
nhưng lại có kinh tế rất phát triển, xã hội văn minh chính là coi trọng việc nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhân tài, thực sự đề cao vai tro động lực văn hóa
trong phát triển. Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, chính là
coi trọng nguồn lực văn hóa, động lực văn hóa của sự phát triển đất nước. Hệ
thống di sản văn hóa, các giá trị văn hóa là nguồn văn hóa to lớn của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Đánh giá vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong phát
triển đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Văn hóa phải soi đường
cho quốc dân đi".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã
nhấn mạnh: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam để "văn hóa thực sự
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan


11

trọng bảo đảm sự phát triển bền vững" của đất nước. Trong văn kiện này, Đảng
ta khẳng định tầm quan trọng ngang nhau của văn hóa, kinh tế, chính trị và xã
hội trong quá trình phát triển đất nước. Nền văn hóa thống nhất trong đa dạng
với các đặc trưng tiêu biểu là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Trong xây
dựng văn hóa phải lấy việc chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống
tốt đẹp làm cốt lõi, trọng tâm với các đặc tính cơ bản là: trung thực, trí tuệ, nhân
văn, tự chủ, sáng tạo. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân
do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, đội ngũ trí thức có vai trị quan trọng. Đây
là sự nghiệp cách mạng lâu dài cần được tiến hành tích cực, sáng tạo, kiên trì và
thận trọng.

Khi mọi giá trị văn hóa (các giá trị chân, thiện, mỹ) thấm sâu vào toàn bộ
đời sống và hoạt động xã hội, thẩm thấu vào tất cả các lĩnh vực và hoạt động
sáng tạo của con người như: văn hóa trong sản xuất và kinh doanh, văn hóa trong
lối sống, văn hóa trong sinh hoạt gia đình, văn hóa trong đời sống cá nhân và
trong đời sống xã hội, văn hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế... thì văn hóa sẽ
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển. Khi hàm lượng trí tuệ, hàm lượng tri thức, hàm
lượng cảm xúc chân chính trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống con người
và xã hội càng tăng cao bao nhiêu thì sự phát triển kinh tế - xã hội càng nhanh
chóng trở thành hiện thực tốt đẹp bấy nhiêu.
Thực tiễn cuộc sống phong phú ở nước ta thời kỳ đổi mới vừa qua đã
minh chứng rõ ràng, văn hóa và con người là sức mạnh nội sinh của phát triển;
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển bền vững với sự tăng trưởng cao về kinh tế, về cơ sở vật chất và công
nghệ gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội hướng tới phát triển văn hóa
và phát triển tồn diện con người.


12

Khi thực hiện mục tiêu tất cả vì sự phát triển tồn diện và bền vững, vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đòi hỏi chúng ta phải đặt biệt quan tâm đến văn hóa và phát triển. Cần
phải nâng cao nhận thức đúng đắn cho cộng đồng về vị trí và vai trị đặc biệt
quan trọng của văn hóa, con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng cho các lĩnh vực văn hóa cần thiết như:
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn học, nghệ thuật, các lĩnh vực
truyền thông đại chúng (đặc biệt là phát thanh, truyền hình, Internet, báo in, báo
điện tử, xuất bản sách), đẩy mạnh hoạt động giao lưu văn hóa trong và ngoài
nước, tiếp tục hoàn thiện các thiết chế văn hóa hướng tới sự phát triển. Phải coi

đầu tư cho văn hóa, con người chính là đầu tư cho sự phát triển, đầu tư cho tương
lai tươi sáng, bền vững của dân tộc.

PHẦN III: KẾT LUẬN


13

Trong thời đại này, trong các sản phẩm kinh tế, tỷ trọng chất
xám ngày càng lớn, giữ vị trí bao trùm đối với chất lượng của sản
phẩm. Điều đó có nghĩa là tỷ trọng các yếu tố văn hóa ngày càng
giữ vai trò quyết định. Trước những nhu cầu ngày càng cao, đa
dạng và mang tính cá thể của người tiêu dùng, đối với nhiều sản
phẩm kinh tế, dịch vụ, có thể nói, nếu thiếu bản sắc văn hóa trong
các sản phẩm đó thì khả năng cạnh tranh của nó sẽ suy giảm rõ
rệt. Vì thế, ngày nay, các lực lượng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật,
như điện ảnh, hội họa, mỹ thuật công nghiệp, kiến trúc, thời trang,
nghệ thuật dân gian, lễ hội... đang tham gia ngày càng trực tiếp và
sâu vào quá trình kinh tế, kết quả kinh tế, làm đậm sâu nhân tố và
giá trị văn hóa trong các sản phẩm đó. Đến nay, ở nhiều nước, gắn
văn hóa với kinh tế, kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế
trở thành chiến lược của sự phát triển bền vững.

Tóm lại, văn hóa giữ vị trí đặc biệt và vai trị quan trọng trong sự điều tiết,
vận động mọi mặt của xã hội; là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển bền
vững kinh tế - xã hội; kích thích sự sáng tạo và đánh thức những năng lực tiềm
ẩn của con người. Nhân tố văn hóa khơng nằm ngồi kinh tế - xã hội hay chính
trị, đồng thời là một bộ phận thiết yếu trong đường lối quân sự của chiến lược
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.




×