Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Ôn tập hk II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.22 KB, 16 trang )

Câu 2: Nét chính về cuộc đời sự nghiệp văn chương của Nguyễn trãi
I. Cuộc đời:
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Là con của
Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Đỗ Thái học sinh năm 1400. Năm 1407
giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại
thành Đông Quang.
- Nguyễn Trãi biệt Đông Quan, trốn vào Lam Sơn dâng "Bình Ngô sách" lên Lê Lợi, trở thành vị quân sư
"viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời".
- Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi thảo "Bình Ngô Đại Cáo" sau đó được cử làm Chánh chủ khảo khoa
thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê và viết chiếu cầu hiền. Chẳng bao lâu sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép,
gièm pha. Nguyễn Trãi xin về Côn Sơn. Năm 1440, ông lại được vua vời ra giúp nước.
- Năm 1442 xẩy ra vụ án Lệ Chi Viên, ông bị kết án "tru di tam tộc". Mãi đến năm 1464, vua Lê
Thánh Tông mới minh oan cho ông và truy tặng ông tước Tán trù bá.
II.Nguyễn Trãi: Sự Nghiệp Văn Học
Ngoài hai công trình nổi tiếng Bình Ngô Sách và Bình Ngô Đại Cáo giúp đưa Nguyễn Trãi lên vị trí hàng
đầu của các danh nhân Việt Nam ở thế kỷ thứ 15, ông còn để lại nhiều tác phẩm văn chương viết bằng
chữ Hán và chữ Nôm nhằm giúp nâng cao nếp sinh hoạt văn hóa của dân tộc ta. Đó chính là những yếu
tố căn bản để Cơ Quan Văn Hóa, Khoa Học, và Giáo Dục của Liên Hiệp Quốc công nhận ông là Danh
Nhân Văn Hóa Thế Giới.
Sau vụ Án Lệ Chi Viên, nhiều sáng tác của ông bị thất tán. Những tác phẩm hiện nay được ghi nhận là :
Quốc Âm Thi Tập, Ức Trai Thi Tập, Quân trung Từ Mệnh Tập, Dư Địa Chí, Lam Sơn Thực Lục, Núi Chí
Linh (phú), Lam Sơn Vĩnh Lăng Thần Đạo Bí, và Ngọc Đương Di Cảo.
Riêng bài “Bán Chiếu Gon”, có giả thuyết cho là không phải của ông vì trong những bài thơ của ông,
không có một bài nào khác có tính bỡn cợt như vậy. Hơn nữa, địa vị và phẩm cách của ông cũng không
cho phép ông làm như vậy. Bài thơ “Bán Chiếu Gon” có thể được thêu dệt cùng với chuyện rắn báo oán
nhằm giảm bớt đi lòng phẫn nộ của dân chúng trước cái chết bi thảm của một vị đại công thần và một
bậc tài hoa: Nguyễn Trãi và Thị Lộ.
Thi phẩm Gia Huấn Ca viết bằng quốc ngữ hồi đó (Nôm) là những bài thơ dạy dỗ con cháu trong nhà.
Theo cuốn Việt Nam Văn Học xuất bản năm 1960, ông Phạm Văn Diêu đã dựa vào những tài liệu của hai
nhà biên khảo Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm viết một bài “Dẫn” ghi đầy đủ về tập Thơ Quốc Âm
của Nguyễn Trãi. Trong bài Dẫn đó có một mục lục cá bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi được chia ra từng


loại như sau:
1. Loại vô đề gồm 192 bài sắp thành 14 mục: Thủ Vĩ Ngâm, Ngôn Chí, Mạn Thuật, Trần Tình,
Thuật Hứng, Tự Thán, Tự Thuật, Tức Sự, Tự Giới, Bảo Kinh Cảnh Giới, Qui Côn Sơn, Trùng Cửu
Cảm Tác, Giới Sắc, và Huấn Nam Tử.
2. Loại Thời Lệnh nói về thời tiết gồm 21 bài chia ra làm 9 mục: Tảo Xuân Đắc Ý, Trừ Tịch, Vãn
Xuân, Xuân Hoa, Tuyệt Cú, Tích Cảnh Tuyệt Cú, Thủy Trung Nguyệt, và Thủy Thiên Nhất Sắc.
3. Loại Hoa Mộc nói về hao và cây gồm 33 bài chia ra làm 23 mục: Mai, Cúc, Hồng Cúc, Tùng,
Trúc, Đào, Mẫu Đơn, Thiên Tuế Thu, Ba Tiêu, Mộc Cận, Gía, Lảo Dung, Mộc Hoa, Mạt Lị, Liên
Hoa, Hòe, Cam, Trường Yên, và Dương.
1
4. Loại cầm thú nói về muông thú, gồm 7 bài chia ra: Lảo Hạc, Nhạn Trận, Điệp Trận, Miêu, Trư,
Thái Cầu, Nghễng, và Trung Ngưu.
Tóm lại thơ của Nguyễn Trãi trải rộng nhiều thể loại chứng tỏ tâm tư tình cảm của ông cảm ứng với vạn
vật. Đây là vài câu trích dẫn:
III. Tư tương rnhân nghĩa
Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích
của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc
lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết
chóc ,đau thương.
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo”
Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây
không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để
cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo
trừ bạo”.
Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc
lập dân tộc:
“ Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
là niềm tự hào dân tộc "…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm
thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”
Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
2
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại.
Bọn giặc Minh xâm lược đã:
“Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm
Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”
Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ
để ngàn năm”
Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông”
Quân ta chiến thắng vì đã:
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại , là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự
độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù
khi chúng đã bị bại vong:
“Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông ,Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh
thần quật khởi của một dân tộc anh hùng.
Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc,
là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp
cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó
biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
3
IV. Tại sao nói đại cáo bình ngô là áng thiên cổ hùng văn
1. Giải thích: thế nào là" thiên cố hùng văn" ?
- Là áng văn hung ftráng cả nghìn đời còn lưu truyền
- Vì sao gọi như thế?
+ Nội dung thể hiện 1 tinh thần yêu nước mãnh liệt, tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, khsi thế hào hùng,
lòng căm thù giặc sôi sục. Bài cáo đã ghi lại một thời kì đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trogn
cuộc k/c chống Minh vôói những chiến thuật chiến lước hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lạinhững
trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiêp sợ, dẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục
nhã. Bài cáo còn viết với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như bão
dông, phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể hiện dc tất cả
cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân LS thắng
trận giòn giã
+ Bài cáo mãi là âm vang hào hùng trên non sông đất Việt vì đã ghi lại dc ý chí, khát vọng chiến thắng,
hoà bình, độc lập của toan fdân , vì đãkhẳng định dc quyền tự chủ và ý chí chiên sđấu đến cùng để giành
lại quyên ftự chủ của dân tộc tr'c mọi kẻ thù. Bài cáo còn nêu cao tư tưởng nhân nghĩa để khẳng định đạo
lí ngàn đời của nhân dân VN. Sự bất hủ của bài cáo còn là do thiên tài nghệ thuật của NT

+ Sự tồn tại vượt time của bài cáo còncó sự góp phần của dịch giả. Bài dich chữ Nôm quả là 1 công trình
dịch thuật xuất sắc
2. Chứng minh
- BNĐCm, một bản hùng ca xuất sắc về nội dung và nghệ thuật:
+ Ca ngợi đất nước và dân tộc với lối văn trong sáng tràn đầy sức mạnh của lòng tin và long ftự hào
+Nỗi niềm trăn trỏ lo âu vận mệnh của đất nước>>tình yêu nước său sắc.
+Cảm xúc dạt dào kh icó cơ hội khởi nghĩa, khi tập hợp lực lượng nhân dân, khi lực lượng nghĩa quân đã
phát triển:
"Nhân dân bốn cõi....phấp phới"
+ Chiến lược chiến thuật tài tình và tchiến thắng vang dội là trọng tâm làm nên cảm xúc vừa mãnh liệt
vừa trữ tình cho áng văn bất hủ này:
" thế trân....chống mạnh.."
" đem đại nghĩa...."
+Kết thúc bài cáo là những lời ca trang trọng và tươi vui nhất là niêm fhạnh phúc dào dạt
3. Nhận xét chung :
Tư tưởng nhân nghĩa là nguồn gốc của giá trị văn chương, đây chính là cái bệ phóng để đưa tác phẩm từ
4
quá khứ vào tương lai. Nghệ thuật cấu trúc văn bản và dùng từ là dôi cánh để nang cao tác phẩm hơn
nữa.
Bài 6: Hồi trống cổ thành
I.Phân tíchHình ảnh Trương Phi(Trương Dực Đức):
* Hành động:
+ Nghe tin Quan Công đến: “… chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu, lên ngựa, dẫn một
nghìn quân, đi tắt ra của bắc…”
+ Khi gặp Quan Công: “… mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại
đâm Quan Công...”
=> Hành động dứt khoát, mạnh mẽ.
* Lời nói:
+ Xưng hô “mày”, “tao”, nói Quan Công bội nghĩa,…
+ Lí lẽ của Trương là: lẽ nào trung thần lại thờ hai chủ

+ Không nghe lời khuyên của bất cứ ai.
=> Ngôn ngữ bộc trực, nóng nảy.
* Ứng xử, thái độ:
+ Kiên quyết dang tay đánh trống thử thách tấm lòng trung nghĩa của Quan Công trong ba hồi trống.
+ Mọi chuyện sáng tỏ, hết nghi ngờ, nhận lỗi, thụp lạy Vân Trường.
* Tiểu kết: Hình tượng Trương Phi tuyệt đẹp: dũng cảm, cương trực, trong sáng vô ngần,….
II. Hình tượng nhân vật Quan Công (Vân Trường hay Quan Vũ):
* Hành động:
+ Một lòng tìm về đoàn tụ anh em;
+ Mừng rỡ sai Tôn Càn vào thành báo tin;
+ Gặp Trương Phi: giao long đao cho Châu Thương cầm;
+ Tránh né và không phản kích.
+ Chấp nhận lời thử thách, nhanh chóng chém tướng Tào là Sái Dương để minh oan cho bản thân.
* Thái độ, ngôn ngữ:
+ Ngạc nhiên trước hành động của Trương Phi;
+ Nhún nhường, thanh minh: “Hiền đệ; ta thế nào là bội nghĩa?; đừng nói vậy oan uổng quá!;...”
* Tiểu kết: Quan Công là người rất mực trung nghĩa. Tấm lòng Vân Trường luôn son sắt thủy chung
nhưng cũng rất bản lĩnh và kiêu hùng.
Tóm lại, tác giả miêu tả Trương Phi rất sống động: cương trực, thẳng thắn, quyết liệt, trong sáng và trung
5
nghĩa.
đó là một võ tướng: tuyệt nghĩa. Vượt qua nguy hiểm để đi tìm anh, quá ngũ quan trảm lục tướng.
II. Nghệ thuật: “Hồi trống Cổ Thành” hấp dẫn bởi tình huống và kịch tính.
Tình huống 1: Trương Phi ngỡ là Quan Công đến lừa bắt mình nộp Tào Tháo. Phi phải giết Quan
Công.
Tình huống 2: Sái Dương mang quân đến hỏi tội Quan Công… Phi ngỡ là âm mưu của Quan Công.
Tình huống 3: Trương Phi đánh ba hồi trồng thì Quan Công phải chém chết Tào. Đầu Sái Dương bị
Quan Công chém lăn dưới đất, Trương Phi vừa đánh xong một hồi trống. Mâu thuẫn được giải quyết, Phi
khóc, thụp lạy Vân Trường.
Nhân vật được miêu tả bằng hành động các tình tiết diễn biến nhanh, đẩy xung đột nên căng thẳng và

hấp dẫn.
IV. Ý nghĩa (âm vang) hồi trống Cổ Thành:
- Hồi trống biểu dương sức mạnh chiến thắng hồi trống thu quân, hồi trống ăn mừng, hồi trống đoàn tụ.
- Hồi trống Cổ Thành: hồi trống giải nghi với Trương Phi, minh oan cho Quan Vũ; biểu dương tinh thần
khí phách, hồi trống hội ngộ giữa các anh hùng
- Hồi trống tạo ra không khí hào hùng, hoành tráng và mạnh mẽ cho “màn kịch” Cổ Thành.
Tóm lại, “Tiếng trống Cổ Thành” vang lên là đầu giặc bị chém rụng xuống đất để người anh hùng
minh oan bằng tài năng. Đó là tiếng trống hội ngộ của tình nghĩa, của lòng trung thực, của khí phách anh
hùng. Cũng là tiếng trống thúc quân, tiếng trống thắng trận tưng bừng giòn giã.
Bài 8:
I- Giới thiệu về tác gia Nguyễn Du:
1 - Cuộc đời:
- Tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên;
- Sinh ngày 23/11/1765 mất 18/9/1820.
- Quê:
+ Gốc làng Canh Hoạch - Sơn Nam;
+ Làng Tiên Điền - Nghi Xuân - Hà Tĩnh
- Xuất thân: trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và nhiều người sáng tác văn chương.
+ Cha và anh: đều giữ chức tước cao trong triều đình Lê-Trịnh.
+ Mẹ: Trần Thị Tần người Kinh Bắc (đây cũng chính là ngọn nguồn của vốn văn học dân gian ăn sâu vào
hồn thơ văn và tài thơ văn của ông)
- Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, xã hội phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, loạn lạc bốn
phương: khởi nghĩa nông dân, kiêu binh làm loạn, Tây Sơn thay đổi sơn hà, diệt Nguyễn, Trịnh, diệt
Xiêm, đuổi Thanh huy hoàng một thuở.
- Biến động của xã hội đưa Nguyễn Du từ chỗ là con em đại gia đình quý tộc phong kiến đến chỗ chấp
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×