Tải bản đầy đủ (.doc) (194 trang)

LUẬN VĂN ĐIỀU ĐỘNG CÁC TÀU SIÊU LỚN (TRÊN 10 vạn tấn) RA vào một số CẢNG CHUYÊN DỤNG của CÔNG TY NIPPON STEEL NHẬT bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.09 MB, 194 trang )

Danh mục các chữ viết tắt
LBP:

Length between perpendicular – Chiều dài giữa hai đường thuỷ
trực mũi lái.

LOA:

Length Over All – Chiều dài lớn nhất.

dm:

Mean draft – Mớn nước trung bình.

df:

Forward draft – Mớn nước mũi.

VLCC:

Very Large Crude Carrier – Tàu chở dầu cỡ lớn.

B:

Breadth – Chiều rộng tàu.

L:

Length – Chiều dài tàu.

T:



Draft – Mớn nước tàu.

Fr:

Fruts – Hệ số Fruts.

ETA:

Estimated Time of Arrival – Dự kiến thời gian tàu đến.

ISM:

International Safety Management Code – Bộ luật quốc tế về quản
lý an toàn.

GRT:

Gross Registered Tonnage – Dung tải đăng ký.

HP:

Horse Power – Đơn vị công suất máy.

NW:

North West – Hướng Tây Bắc.

NE:


North East – Hướng Đông Bắc.

SE:

South East – Hướng Đông Nam.

HW:

High Water – Nước lớn.

LW:

Low Water – Nước ròng.

P<b>:

Port bow – Phía bên trái mũi tàu.

P<Sh>:

Port shoulder – Phía bên trái ngay sau Port bow.

P<c>:

Midship Port side – Bên trái giữa tàu.

P<q>:

Port quarter – Phía bên trái phần lái tàu.



P<St>:

Port stern – Phía bên trái phần lái sau Port quarter.

S<b>:

Starboard bow – Phía bên phải mũi tàu.

S<Sh>:

Starboard shoulder – Phía bên phải ngay sau Starboard bow.

S<c>:

Midship Starboard side – Bên phải giữa tàu.

S<q>:

Starboard quarter – Phía bên phải phần lái tàu.

S<St>:

Starboard stern – Phía bên phải phần lái sau Starboard quarter.

WTO:

World Trade Organization – Tổ chức thương mại thế giới.



MỞ ĐẦU
1. Tính cần thiết của đề tài
Năm 2006 đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO. Từ đây nền kinh tế Việt Nam sẽ thực sự hoà nhập với nền
kinh tế thế giới. Trước đó, năm 1996, bằng đường lối “đi tắt, đón đầu”, trường
đại học Hàng Hải đã liên doanh với công ty vận tải thép Nhật Bản tiến hành
đào tạo sĩ quan, thuyền viên cung cấp cho các tàu siêu lớn của cơng ty. Mới
đầu, phía Việt Nam chỉ đảm nhận được các chức danh từ phó 2, máy 2 trở
xuống. Trải qua hơn 10 năm, các sĩ quan, thuyền viên của trường đại học
Hàng Hải đã tạo được sự tin tưởng của phía Nhật Bản, việc đảm nhận chức
danh trên các tàu siêu lớn của công ty đã tăng dần từ phó 2 lên Đại phó (năm
2001) và thuyền trưởng (năm 2005). Điều đó đánh dấu sự trưởng thành của
trường đại học Hàng Hải nói riêng và ngành hàng hải Việt Nam nói chung.
Đây là một thị trường đầy tiềm năng của trường đại học Hàng Hải nói riêng và
ngành hàng hải Việt Nam nói chung. Phía Nhật Bản rất mong muốn tăng số
lượng tàu siêu lớn được vận hành bởi toàn bộ thuyền viên Việt Nam song cho
đến nay chúng ta mới chỉ có một tàu siêu lớn được vận hành bởi toàn bộ
thuyền viên Việt Nam. Lý do là chúng ta thiếu nguồn nhân lực. Để góp phần
đào tạo nguồn nhân lực cho công ty VINIC, đáp ứng yêu cầu của phía Nhật
Bản nhằm tăng số lượng tàu siêu lớn được vận hành bởi toàn bộ thuyền viên
Việt Nam thì ngồi các yếu tố như lựa chọn con người, chính sách khuyến
khích đối với thuyền viên, … thì việc nghiên cứu phương án điều động các tàu
siêu lớn (trên 10 vạn tấn) ra vào các cảng chuyên dụng của Nhật Bản là một
việc mang tính cấp bách và cần thiết nhằm trang bị kiến thức, kinh nghiệm


cho các thuyền trưởng và sĩ quan của trường đại học Hàng hải và cơng ty
VINIC.
2. Mục đích của đề tài
Dựa trên các tính năng điều động tàu siêu lớn, các yếu tố, đặc điểm

thời tiết, khí hậu, dịng chảy ở vùng biển Nhật Bản nói chung và các cảng
thuộc tập đồn thép Nhật Bản nói riêng cũng như đặc điểm địa lý riêng của
từng cảng, đề tài tập trung nghiên cứu xây dựng phương án điều động, dẫn tàu
vào khu cảng của từng cảng của tập đoàn thép Nhật Bản, phương pháp dẫn tàu
từ khu neo đậu đến khu vực cầu bến và phương pháp điều động tàu rời, cập
cầu ở các cảng nói trên cũng như các hướng dẫn cụ thể nhằm nâng cao an
toàn, đáp ứng được yêu cầu về an toàn của tập đoàn Nippon Steel
Corporation.
3. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi vào phân tích, nghiên cứu các tính năng, đặc điểm điều động
của các tàu siêu lớn, các đặc điểm về thời tiết, khí hậu, dịng chảy, ở khu vực
biển Nhật Bản nói chung và các cảng của tập đồn thép Nhật Bản nói riêng,
các đặc điểm địa lý của các cảng trên. Đồng thời bằng cách tham khảo các tài
liệu hướng dẫn của công ty, kinh nghiệm của các hoa tiêu có kinh nghiệm ở
các cảng của tập đồn thép Nhật Bản, của các thuyền trưởng lâu năm của công
ty … Từ kết quả thu được, tổng kết và xây dựng phương pháp điều động tàu
siêu lớn ra vào một số cảng trong phạm vi hạn chế của tập đoàn thép Nhật
Bản.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài hồn thành và được thơng qua, nó sẽ là tài liệu dùng để tham
khảo và huấn luyện riêng cho các thuyền trưởng và sĩ quan ngành boong của


cơng ty VINIC nói riêng và trường đại học Hàng Hải Việt Nam nói chung.
Ngồi ra đề tài cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các thuyền
trưởng, sĩ quan ngành boong làm việc trên các tàu hoạt động ở vùng biển Nhật
Bản. Đề tài cũng có thể là cơ sở để đưa ra các tình huống điều động thực tế
trên mô phỏng dùng để huấn luyện cho sĩ quan, thuyền trưởng trong các khố
học trên mơ phỏng trước khi làm việc trên các tàu siêu trường, siêu trọng.



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Đánh giá các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay tại các nước có ngành hàng hải phát triển, đều có trang bị
các hệ thống mơ phỏng hàng hải tại các trung tâm huấn luyện riêng của mình.
Tuy nhiên mỗi trung tâm lại có một chương trình huấn luyện riêng của mình.
Trên thế giới từ lâu đã thành lập diễn đàn mô phỏng hàng hải quốc tế IMSF
(International Maritime Simulation Forum) với sự tham gia của các giáo sư,
tiến, sĩ, chuyên gia đầu ngành. Cứ 3 năm một lần IMSF lại tổ chức hội thảo
quốc tế về khả năng điều động của tàu với các báo cáo khoa học của các
chuyên gia trong lĩnh vực này.
Thông thường các trung tâm huấn luyện của các công ty vận tải biển
lớn thường xây dựng hệ thống mô phỏng để huấn luyện cho thuyền viên của
họ về loại tàu và khu vực mà tàu hoạt động (chẳng hạn như công ty NYK –
Nhật Bản). Song với các cảng cụ thể của công ty vận tải thép Nhật Bản thì
chưa có một cơng trình cụ thể nghiên cứu để đưa ra phương pháp điều động
tàu vào khu neo cũng như rời, cập cầu các cảng chuyên dụng của công ty.
Công ty cũng chỉ đưa ra một tài liệu hướng dẫn cho việc rời cập cầu tại các
cảng của cơng ty nhưng chưa phân tích các yếu tố điều động, điều kiện khí
tượng thuỷ văn … tại các cảng nói trên.
1.2 Giới hạn đề tài và những vấn đề cần giải quyết
Để xây dựng được phương án điều động các tàu siêu lớn ra vào các
cảng chuyên dụng của công ty vận tải thép Nhật Bản cần thiết phải làm các
việc sau:


- Nghiên cứu tìm hiểu đầy đủ các tính năng điều động của tàu nói chung
và tàu siêu lớn nói riêng, các đặc điểm địa lý, các yếu tố khí tượng,
dòng chảy trong năm, đặc điểm cầu bến, luồng vào cảng và đội tàu của
công ty.

- Xây dựng phương án dẫn tàu vào khu cảng (khu neo), điều động tàu từ
khu neo đến khu vực cầu bến, điều động tàu rời, cập cầu ở tất cả các
cảng trong phạm vi của công ty thép Nhật Bản.
- Sau khi đưa ra phương án rời cập cầu phải rút ra các nhận xét và hướng
dẫn nâng cao an tồn.
1.3 Nội dung chính của luận văn
Luận văn sẽ bao gồm phần mở đầu và ba chương, phần kết luận và đề
xuất ý kiến, cuối cùng là phần phụ lục và tài liệu tham khảo, cụ thể như sau:
- Phần mở đầu.
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích của đề tài
3. Phương pháp nghiên cứu và phạm vị nghiên cứu
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Chương 1. Tổng quan
1.1 Đánh giá các cơng trình liên quan đến đề tài
1.2 Giới hạn đề tài và những vấn đề cần giải quyết
1.3 Nội dung chính của luận văn
- Chương 2. Phân tích đặc điểm khi điều động các tàu siêu lớn và đặc
điểm các cảng chuyên dụng của công ty Nippon Steel – Nhật Bản


Phần này nêu lý thuyết điều động tàu nói chung và các tàu siêu
lớn nói riêng; các đặc điểm địa lý, các yếu tố thời tiết, khí tượng, dịng
chảy trong năm, đặc điểm cầu bến, đội tàu của công ty.
- Chương 3. Phương pháp điều động các tàu siêu lớn ra vào một số cảng
chuyên dụng của công ty Nippon Steel Shipping – Nhật Bản
Đây là phần cốt lõi của đề tài. Nó bao gồm dẫn tàu vào khu cảng,
điều động tàu rời, cập cầu ở tất cả các cảng; một số hình ảnh minh hoạ cụ thể
trường hợp ra, vào cầu. Sau đó rút ra nhận xét trong các lần điều động và đưa
ra hướng dẫn nâng cao an toàn.

- Phần kết luận và đề xuất ý kiến.
- Phần phụ lục.
- Tài liệu tham khảo.


Chương 2: Phân tích đặc điểm khi điều động các tàu siêu lớn và
đặc điểm các cảng chuyên dụng của công ty
NIPPON STEEL – JPN
2.1. Khái niệm về điều động tàu
Điều động tàu là việc thay đổi hướng đi hay tốc độ dưới tác dụng của
bánh lái, chân vịt và các thiết bị khác nhằm tránh va an toàn, tiếp cận mục
tiêu, thả neo, cập cầu, trong nhiều hoàn cảnh và các tình huống khác nhau, đặc
biệt là khu vực chật hẹp, nơng cạn, khi tầm nhìn xa bị hạn chế. Nguyên lý cơ
bản của kỹ thuật điều động các tàu là như nhau, nhưng đối với từng con tàu
khác nhau và loại tàu khác nhau thì có các đặc điểm riêng, khơng thể áp dụng
một cách máy móc kỹ thuật điều động một con tàu nhỏ với một con tàu lớn
hoặc một tàu khách với một tàu hàng. Ngoải ra cịn phải tính đến các yếu tố
thời tiết, khí tượng thuỷ văn.
2.2 Các yếu tố trong điều động tàu
2.2.1 Tốc độ tàu
Tốc độ tàu là một đại lượng đặc trưng cho sự chuyển động của con
tàu, về mặt toán học thì:
v = lim
∆t →0
Trong đó:

∆S dS
=
∆t dt


v: tốc độ tàu (m/s)
S: quãng đường tàu di chuyển được (m)
T: thời gian (s)

(2.1)


Tốc đọ tàu là một trong những đặc trưng cơ bản quan trọng trong các
yếu tố điều động. Kết quả hoàn thành một điều động phụ thuộc rất nhiều vào
độ chuẩn xác tính tốn tốc độ tàu (tức là việc ước lượng tốc độ).
Tốc độ tàu là hình chiếu của véc tơ tốc độ chuyển động của tàu lên
hướng song song với mặt phẳng trục dọc của tàu.
Con tàu muốn chuyển động được phải nhờ lực đẩy cần thiết của hệ
động lực sinh ra và duy trì để thắng sức cản và chuyển động được với vận tốc
v. Công suất này của máy gọi là công suất hiệu dụng (N hd) và được tính bằng
biểu thức:
Nhd = v. Rth
Trong đó:

(2.2)

v: tốc độ tàu
Rth: lực cản chuyển động tổng hợp

Do có sự tổn hao năng lượng qua các khâu truyền động tới chân vịt
nên công suất thực tế của máy phải lớn hơn công suất hiệu dụng. Tỉ số giữa
công suất thực tế và công suất hiệu dụng là hệ số hữu ích η, ta có:
η=

N hd

N
v.R
⇒ N = hd =
N
η
η

Hệ số này phụ thuộc vào kiểu động cơ và chân vịt, trạng thái kỹ thuật
và chế độ làm việc của chúng. Các tàu hiện nay có η= 0,65÷0,8 (loại 1 chân
vịt) và 0,6÷0,7 (loại 2 chân vịt).
Lực cản chuyển động tổng hợp phụ thuộc kích thước, hình dạng, mớn
nước, diện tích thượng tầng kiến trúc, tỉ lệ giữa các kích thước, vận tốc tàu và
sức cản của môi trường bên ngồi như sóng gió, ma sát của nước. Lực cản
chuyển động toàn phần khi tàu chuyển động ổn định được xác định bằng công
thức:


R th = R masat + R song + R hinhdang + R nhora + R gio

(2.3)

Trong đó lực cản của nước là Rn:
ρV 2
Rn = Rmasát + Rsóng + Rhình dáng + Rnhơra = ξ

2

(2.4)

Trong đó:

- ξ là hệ số thuỷ động của lực cản tồn phần, nó là hàm của các hệ số Frut
(Fr) và hệ số Renon (Re) với
V
;
Fr =
gL

gL3
V×L
Re =
⇒ Re = Fr .
γ
γ

Trong đó γ: hệ số nhớt động học của nước (m2/s)
- ρ: tỉ trọng của nước (T/m3)
- v: vận tốc của tàu (m/s)
- Ω: diện tích bề mặt ngâm nước của tàu (m2)
- L: chiều dài tàu (m)
Chỉ số Frut được coi như đặc trưng của tốc độ tương đối để xác định
được mức độ cao tốc của tàu, chỉ số này được xác định như sau:
+ Fr ≤ 0,25: cho các tàu chạy chậm
+ Fr = 0,25÷0,4: cho các tàu chạy trung bình
+ Fr ≥ 0,4: cho các tàu có tốc độ cao
VD: tàu NSS ENDEAVOR chiều dài 290 m, tốc độ 15,5 kts thì chỉ số Frut là:
15.5 × 1852.25
= 0.15
3600 × 9.81 × 290
Như vậy tàu NSS ENDEAVOR được coi là tàu chạy chậm, nhưng lưu ý là
trên thực tế tốc độ nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào loại tàu. Đối với loại

tàu bulk carrier, NSS ENDEAVOR được coi là tàu chạy trung bình.


2.2.2 Các khái niệm về tốc độ
Tốc độ tàu tương ứng với các chế độ hoạt động xác định của máy
Chế độ máy
Khẩn cấp

Tốc độ kỹ thuật của tàu theo tốc độ định mức (vđm)
110 ÷ 120 %

Hết máy

100 %

Trung bình máy

70 ÷ 75 %

Chậm

40 ÷ 45 %

Thật chậm

20 ÷ 30 %

Đối với động cơ diezel, tốc độ chạy trong trường hợp khẩn cấp
(Emergency) chỉ áp dụng trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng thời gian
không được phép để lâu vì sẽ ảnh hưởng đến tình trạng hoạt động của máy

chính.
Khi chuyển động, con tàu sẽ đạt tốc độ lớn nhất theo yêu cầu sau một
khoảng thời gian nhất định tuỳ thuộc vào loại máy. Bảng sau sẽ cho ta biết
thời gian tối thiểu để chuyển đổi các nấc tốc độ trong điều động:
Loại tàu
Máy tuabin hơi
Máy diezel

Thời gian chuyển đổi các nấc tốc độ (s)
Stop đến
Tới hết
Tới hết Lùi hết đến Lùi hết đến
tới hết
20 ÷ 30
≥3

đến Stop
30 ÷ 60
≥2

đến lùi hết
60 ÷ 100
10 ÷ 15

Stop
30 ÷ 60
≥2

tới hết
60 ÷ 100

10 ÷ 15

Bảng trên đây chỉ ra thời gian lý thuyết để chuyển đổi tốc độ máy,
thực tế để có thể đổi chiều quay một cách đột ngột từ chế độ máy đang Full
ahead sang chế độ Full astern ta bắt buộc phải đưa máy về chế độ Stop rồi mới
có thể chuyển sang chế độ lùi. Đặc biệt lưu ý khi tàu đang chạy với tốc độ
cao, nếu lùi đột ngột có thể gây nên xung lực lớn làm gãy trục chân vịt hoặc


làm hỏng máy chính. Kinh nghiệm cho thấy chỉ nên chuyển sang chế độ lùi
khi tốc độ tới của tàu nhỏ hơn một nửa tốc độ tới hết bình thường của tàu đó.
Lưu ý: Khi bắt đầu tiến hành điều động không nên cưỡng ép máy đạt đến tốc
độ cao ngay mà cần tăng từ từ, từng nấc một. Các máy hiện đại ngày nay đều
có chế độ bảo vệ được điều khiển bằng hệ thống computer, do vậy người điều
khiển dù muốn đạt ngay được tốc độ cao cũng không được (trừ tàu quân sự)
và trong trường hợp tăng tốc cưỡng bức máy sẽ báo động “IMPERFECT
BRIDGE CONTROL”. Lúc đó muốn tăng tốc độ cưỡng bức (để tránh một
nguy cơ nào đó) phải ấn phím “PROGRAM BY-PASS” trên bảng điều khiển
gần tay chuông truyền lệnh. Đặc biệt khi điều động các tàu siêu lớn và các tàu
chở đầy hàng. Kinh nghiệm thực tế sau đây cho thấy việc tăng tốc độ của một
tàu Cape Size (NSS ENDEAVOR cỡ 180,000 tấn):
- Từ chế độ tới thật chậm sang chế độ tới chậm cần từ 5÷7 phút
- Từ chế độ tới thật chậm sang chế độ nửa máy cần từ 12÷14 phút
- Từ chế độ tới nửa máy sang chế độ tới hết máy cần ít nhất 10 phút hoặc
phải chờ cho tốc độ tàu đã đạt được hơn một nửa tốc độ tới hết bình
thường, ví dụ ở trường hợp này là khoảng 8 kts.
- Từ chế độ tới hết máy sang chế độ “Navigation full” cần ít nhất 1 tiếng
thì vịng tua mới đạt được tốc độ định mức.
Hiệu suất lùi và tới khác nhau, khi lùi thường kém hơn một nấc máy.
Tốc độ xuất xưởng là tốc độ chạy tới trên trường thử nhằm bàn giao

tàu sau khi đóng.
Tốc độ kỹ thuật là tốc độ của tàu được xác định vào từng chu kỳ khai
thác tàu, dựa trên tình trạng vỏ tàu và tình trạng kỹ thuật của máy chính.


Khái niệm về tốc độ khai thác: Tốc độ khai thác bình thường của một
con tàu theo yêu cầu được ghi rõ trong các hợp đồng thuê tàu, theo đó chủ tàu
thoả thuận với người thuê tàu sẽ cho phép họ khai thác với tốc độ cao nhất mà
con tàu có thể đạt được. Tốc độ này được chia thành 2 loại: khi không hàng
(ballast) và khi đầy hàng (laden), áp dụng khi gió khơng q cấp 4 hay cịn gọi
là điều kiện “Calm sea speed”.
Tốc độ kinh tế là tốc độ mà lượng tiêu hao nhiên liệu chạy trên một
hướng nào đó là nhỏ nhất, dựa trên tác động thuận lợi của các điều kiện ngoại
cảnh như các dòng hải lưu, gió …
Tốc độ nhỏ nhất là tốc độ khi vịng quay chân vịt ở mức thấp nhất có
thể mà tại đó khơng mất khả năng điều khiển bằng bánh lái, được gọi là tốc độ
cực tiểu cho phép vmin = (0,1÷0,2)vđm.
Cần chú ý tốc độ cực tiểu này cịn phụ thuộc điều kiện ngoại cảnh tác
động như sóng, gió, dịng chảy và tình trạng kỹ thuật của máy.
Khi tăng tốc độ bên ngoài thân vỏ tàu sẽ xuất hiện các sóng ngang và
sóng dọc lan truyền phức tạp, ở mũi sẽ xuất hiện sóng ngang, ở lái sóng sẽ
xuất hiện phân tán. Để giảm sức cản của sóng, các tàu ngày nay thường có cấu
trúc mũi quả lê cho phép tăng tốc độ khoảng 3÷5 %.
2.2.3 Các phương pháp xác định tốc độ tàu
Để xác định tốc độ tàu người ta thường sử dụng trường thử. Để tăng
độ chính xác, trường thử phải:
- Gió khơng q cấp 3 (< 5,2 m/s)
- Sóng khơng q cấp 2 (< 0,75 m)



- Không ảnh hưởng của nông cạn, nghĩa là độ sâu của trường thử phải
thoả mãn :
H > 4 B × d (áp dụng cho tàu cỡ lớn) và H > 0,35 v 2 (áp dụng cho
tàu cỡ vừa và nhỏ)
Trong đó

H: độ sâu khu vực thử (m)
B: chiều rộng tàu (m)
d: mớn nước của tàu (m)
v: tốc độ của tàu (kt)

Tốc độ tàu được xác định theo các mức cơng suất của động cơ máy
chính như sau:
50% cơng suất máy chính
74% cơng suất máy chính
85% cơng suất máy chính
100% cơng suất máy chính
Tốc độ tàu có thể xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau như:
- Sử dụng chiều dài thân tàu (ném phao xuống biển để đo)
- Các mục tiêu nhìn thấy theo phương pháp ngắm (ngắm theo chập tự
nhiên hoặc thiên nhiên)
- Bằng Radar
- Bằng các hệ thống định vị như GPS, LORAN-C …
Các lần thử xác định tốc độ đều được xác định ít nhất là 2 lần (chạy
trên một hướng thuận tiện nào đó, sau đó lại chạy theo hướng ngược lại).
Ngồi ra cịn phải xác định tốc độ tàu tại các điều kiện tàu đầy hàng và khi tàu
khơng hàng. Khi thử tàu đóng mới, người ta còn xác định tốc độ tại một số


nấc cơng suất máy chính (ví dụ tốc độ tại 40%, 50%, 70%, 85% cơng suất

máy chính).
2.2.4 Chuyển động của tàu trên mặt nước
2.2.4.1 Tính chuyển động
Là khả năng con tàu thắng được sức cản của nước, gió và chuyển
động trên mặt nước với một tốc độ đã định do hệ thống động lực tạo ra.
Xét con tàu chuyển động tịnh tiến trên mặt nước dưới tác dụng của lực
phát động do máy - chân vịt tạo ra được thể hiện qua biểu thức:
Pe = M ⋅

dv
+ R th
dt

(2.5)

Trong đó: M là khối lượng của con tàu được tính theo cơng thức:
M = (1+K).D

(2.6)

Trong đó:
- Pe là lực phát động của máy (N)
- M là khối lượng của tàu (Kg)
- Rth là lực cản tổng hợp lên con tàu (N)
- D là lượng giãn nước của tàu (Kg)
- K là hệ số lượng giãn nước của tàu; k = 0 khi tàu đứng yên trên mặt
nước, k có giá trị khi tàu chuyển động và giá trị đó được tính bằng thực
nghiệm
-


dv
là gia tốc dài theo hướng trục dọc của tàu (m/s2)
dt
Do đó phương trình chuyển động của tàu có thể biểu thị dưới dạng

sau:


Pe − R th = M

dv
dt

(2.7)

Khi tàu đã chuyển động ổn định thẳng đều thì thành phần qn tính
của lực cản bị triệt tiêu M

dv
= 0 . Khi đó lực phát động của máy (P e) sẽ cân
dt

bằng với lực cản tổng hợp.
2.2.4.2 Tính điều khiển được
Là tính năng hàng hải của con tàu, cho phép nó chuyển động với một
quỹ đạo đã định. Những tính năng cơ bản của tính điều khiển là:
- Tính ổn định trên hướng đi
- Tính năng quay trở
Hai tính năng này có xu hướng đối lập nhau. Tuỳ theo yêu cầu của
từng loại tàu mà người ta có thể cho ra đời các con tàu có tính ổn định hướng

đi tốt (các tàu chạy biển) hoặc tính năng quay trở tốt (các tàu chạy trong sơng,
các tàu lai …)
2.2.4.3 Tính ổn định trên hướng đi
Là khả năng con tàu giữ nguyên hướng chuyển động thẳng đã cho khi
khơng có sự tham gia của người lái hoặc khi chỉ thơng qua một góc lái rất nhỏ.
Nguyên lý này là bắt buộc đối với con tàu khi chuyển động trong mọi điều
kiện thời tiết như khi biển động hoặc biển êm, cũng như trong mọi vùng nước
nơng hoặc sâu.
Tính ổn định hướng ảnh hưởng đến các đặc tính lái tàu, tuỳ theo mức
độ mà con tàu có thể được chặn mũi lại khi đang quay và sự thay đổi tốc độ
quay của nó khi đang chạy tới nếu để bánh lái ở số 0. Quan sát thuỷ động học
về tính ổn định hướng đi theo cách khác, thử mức độ ổn định hướng mà con


tàu đạt được bằng cách để cho tàu qua một loạt điều động dích dắc (kiểu chữ
z).
Một con tàu có thể có tính ổn định dương hoặc âm hoặc trung tính.
Khi bánh lái để số 0 mà tàu vẫn duy trì thẳng thế thì con tàu đó có tính ổn định
hướng dương. Khi bánh lái để số 0 mà con tàu quay với tốc độ quay trở tăng
lên thì nó có tính ổn định âm. Một con tàu có tính ổn định hướng trung tính
khi nó tiếp tục quay với vận tốc quay hiện tại hoặc tiếp tục nằm trên hướng
hiện thời cho đến khi có các ngoại lực tác dụng vào. Nó khơng có khuynh
hướng hoặc là tăng, hoặc là giảm tốc độ quay khi bánh lái ở số 0.
Sự thay đổi tính ổn định hướng đáng chú ý khi mớn nước và độ chúi
thay đổi. Do các tàu béo, có hệ số béo thể tích thường bị dìm mũi nên nó có sự
thay đổi lớn, điều này đặc biệt quan trọng vì những khả năng này thay đổi nên
phải tính tốn cẩn thận khi thay đổi độ chúi cho tàu lúc đến cảng.
Tính ổn định thể hiện:
1. Tăng lên khi mớn nước dưới ki tàu tăng
2. Trở nên dương nhiều hơn khi chiều dài tăng

3. Trở nên dương nhiều hơn khi lực cản tăng
4. Giảm xuống khi hệ số béo thể tích tăng
5. Giảm xuống khi chiều rộng của tàu tăng lên so với chiều dài (tỉ số L/B
giảm)
6. Giảm xuống khi diện tích các mặt cắt phía trước tăng lên tương đối so
với diện tích các mặt cắt phía sau (khi tâm quay của tàu chuyển về phía
trước)
Tính ổn định hướng đi được thể hiện qua tính chất cơ bản của nó là
tính ổn định phương hướng và được đánh giá qua chỉ số ổn định phương


hướng của tàu. Đây là mối quan hệ giữa độ dài của đường đi hình sin và chiều
dài tàu:
E=
Trong đó:

Sm
L

(2.8)

E: chỉ số ổn định hướng đi
Sm: độ dài đường đi hình sin (m)
L: chiều dài tàu (m)

Sm được xác định bằng thực nghiệm trên trường thử và nó được tính
theo cơng thức:
Sm = Tm.vt

(2.9)


Trong đó Tm: chu kỳ dao động (s) được đo bằng đồng hồ bấm giây trên trường
thử.
2.2.4.4 Tính năng quay trở
Tính năng quay trở là phản ứng nhanh chóng của tàu với góc bẻ lái
hay khả năng thay đổi hướng chuyển động và di chuyển của nó theo quỹ đạo
cong khi bánh lái lệch khỏi vị trí số 0. Các thông số chuyển động trên quỹ đạo
này phụ thuộc vào những điều kiện ngoại cảnh ban đầu như gió, nước, tốc độ
và trạng thái của tàu …
Khi chạy trên hướng đi đã định, thường con tàu không thể tự động giữ
hướng mà lái luôn đảo quanh hướng đi, đây chính là hiện tượng đảo lái, cường
độ đảo lái phụ thuộc vào tác động của các ngoại lực như sóng, gió …
2.3 Tính năng của bánh lái
2.3.1 Lực của bánh lái


Bánh lái là thiết bị không thể thiếu trong điều động tàu. Bánh lái giữ
cho tàu chuyển động trên hướng đi đã định hoặc thay đổi hướng của tàu theo ý
muốn của người điều khiển. Bánh lái được đặt phía sau chân vịt và nằm trong
mặt phẳng trục dọc của tàu.
Khi tàu chạy tới hoặc lùi thì dịng nước chảy từ mũi về lái hoặc từ lái
về mũi sẽ tác dụng vào mặt trước hoặc mặt sau của bánh lái một áp lực P. Áp
lực đó được tính dựa trên công thức thực nghiệm sau:
P=

K 1 sin α
0,195 + 0,305.sin α

× S × V2


(2.10)

Trong đó:
- α: Góc bẻ lái (độ)
- v: vận tốc của tàu (m/s)
- S: diện tích mặt bánh lái
- k1: Hệ số của bánh lái phụ thuộc vào số chân vịt và được lấy như sau:
k1 = 38÷42 (Kg/m2) đối với tàu 1 chân vịt
k1 = 20÷22,5 (Kg/m2) đối với tàu 2 chân vịt
Lực cản phụ thuộc vào phần chìm của tàu, muốn có tác dụng tốt thì
bánh lái phải có tỉ lệ thích đáng với phần chìm của tàu, do đó diện tích mặt
bánh lái phải được chọn theo tỉ lệ phù hợp với con tàu. Người ta có thể tính
diện tích mặt bánh lái dựa trên cơng thức:
S=
Trong đó:
- L: Chiều dài của tàu (m)
- T: Mớn nước của tàu (m)

L×T
K2

(2.11)


- k2: phụ thuộc loại tàu, thường k2 = 50÷70
2.3.2 Tác dụng của bánh lái khi tàu chạy tới
Khi tàu chuyển động thăng đều thì nó chịu sự tác động của lực đẩy và
lực cản. Khi bẻ bánh lái đi một góc α nào đó, giả sử như hình vẽ 2.1 (bẻ sang
phải), lúc này do tác dụng của dòng chảy bao và dòng do chân vịt tạo ra trên
mặt của bánh lái làm nảy sinh sự phân bố lại áp lực, mặt bánh lái hướng tới

dịng chảy bao thì áp lực tăng, mặt kia giảm. Điểm đặt của tổng áp lực P này
gần phía sống lái và vng góc với mặt bánh lái.

Dòng nước chảy từ mũi về
lái
P'1

P

v

Py
α

Px
P'2

Dòng nước chảy từ mũi về
lái

ωqt
O1

Hình 2.1. Lực xuất hiện do bẻ lái và tác dụng của nó khi tàu chạy
tới


P = Px + Py

(2.12)


Để hiểu rõ ảnh hưởng của lực sinh ra khi bẻ lái đi một góc, giả sử tại
'
'
trọng tâm tàu được đặt một cặp lực P1' và P2' , về độ lớn thì P1 = P2 = Py , cịn
'
về tác dụng thì P1 ' ↑↓ P2 ' . Rõ ràng cặp ngẫu lực Py, P2 làm cho mũi tàu quay
'
về phía bẻ lái, lực P1 làm tàu dạt ra phía ngồi vịng quay trở cịn P x làm giảm

chuyển động tới của tàu.
Thường thì điểm đặt của áp lực P và các lực thuỷ động không nằm
trên cùng một mặt phẳng nằm ngang, nên khi tàu quay trở ngồi việc dịch
chuyển ngang, cịn bị nghiêng và chúi.
Tóm lại, quỹ đạo chuyển động của tàu do bẻ lái là một đường cong do
trọng tâm tàu gây ra.
2.3.3 Tác dụng của bánh lái khi tàu chạy lùi
Giả sử khi tàu chạy lùi đã có trớn lùi, ta bẻ lái đi một góc α nào đó
(hình 2.2 bẻ lái sang phải). Lúc này do tác dụng của dòng chảy bao và dòng
do chân vịt tạo ra, trên mặt của bánh lái nảy sinh sự phân bố lại áp lực, mặt
bánh lái hướng tới dịng chảy bao thì áp lực tăng, mặt kia giảm. Điểm đặt của
tổng các lực P này gần về phía sống lái và vng góc với mặt bánh lái.
P = Px + Py

(2.13)

Để hiểu rõ ảnh hưởng của lực sinh ra khi bẻ lái đi một góc α, tương tự
như khi chạy tới, tại trọng tâm G ta đặt một cặp lực P1' và P2' , về độ lớn thì
P1' = P2' = Py . Cịn về chiều tác dụng thì P1 ' ↑↓ P2 ' . Rõ ràng cặp ngẫu lực P y, P1'



'
làm cho mũi tàu quay ngược về phía bẻ lái, lực P2 làm tàu dạt ra ngồi vịng

quay trở cịn Px làm giảm chuyển động lùi của tàu.
Dòng nước chảy từ mũi về
lái
P'1

P

v

Py
α

Px
P'2

Dịng nước chảy từ mũi về
lái

ωqt
O1

Hình 2.2. Lực xuất hiện do bẻ lái và tác dụng của nó khi tàu chạy
tới
Do điểm đặt của áp lực P và các lực thuỷ động không cùng nằm trên
một mặt phẳng nằm ngang nên khi quay trở, con tàu ngoài việc dịch ngang
còn bị nghiêng và chúi. Quỹ đạo chuyển động của tàu khi chạy lùi và bẻ lái là

một đường cong do trọng tâm tàu vạch ra.
2.4 Chuyển động quay trở của tàu
2.4.1 Định nghĩa và quá trình quay trở của tàu
Khi tàu đang chuyển động, nếu bẻ lái về một bên mạn một góc nào đó
so với vị trí số 0, con tàu sẽ chuyển động và vẽ lên một quỹ đạo cong, đó


chính là vịng quay trở với bán kính xác định. Giá trị bán kính này phụ thuộc
vào tốc độ tàu và góc bẻ lái.
Định nghĩa: vịng quay trở của tàu là quỹ đạo chuyển động của trọng
tâm G của tàu khi ta bẻ lái sang một bên mạn với một góc lái δ nhất định nào
đó.
Sx

δ=10o
δ=17o5
δ=35o

Sy

Hình 2.3. Các góc lái khác nhau và quĩ đạo quay trở tương
ứng
Khi chân vịt quay trong nước sinh ra một lực đẩy làm tàu chuyển
động. Nếu bẻ lái cho tàu quay trở thì lực này vẫn tồn tại và giá trị của nó được
xác định theo cơng thức:
U dcv =
Trong đó:

N
9V


Uđcv: Lực đẩy chân vịt
N: Công suất hiệu dụng của máy
V: Tốc độ tàu

(2.14)


Khi bẻ lái sang một bên thì dịng nước chảy bao xung quanh vỏ tàu và
dòng nước do chân vịt tạo ra sẽ tác dụng vào mặt bánh lái, gây nên áp lực P
làm tàu quay trở và giảm chuyển động thẳng của tàu. Mỗi góc lái khác nhau
thì trọng tâm tàu vạch lên những quỹ đạo khác nhau. Góc lái δ càng lớn thì
quỹ đạo vạch ra càng hẹp. Vận tốc nhỏ thì đường kính vịng quay trở nhỏ
nhưng thời gian quay trở tăng lên (hình 2.3).
2.4.2 Các yếu tố của vịng quay trở
2.4.2.1 Đường kính vịng quay trở và đường kính lớn nhất của vịng quay
trở
- Đường kính vịng quay trở:
Đường kính vịng quay trở là đường kính của vòng tròn do trọng tâm
tàu vạch ra khi tàu quay trở với một góc bẻ lái nhất định, thường là góc lái tối
đa (gọi là đường kính vịng quay trở ổn định), bằng thực nghiệm thì:
L2 × T
Dn =
10S

(2.15)

Trong đó
L: Chiều dài tàu (m)
T: Mớn nước của tàu (m)

S: Diện tích bánh lái (m2)
Có thể xác định đường kính vòng quay trở theo chiều dài tàu, hoặc
dựa vào hệ số kinh nghiệm cho từng loại tàu và thực tế. Nó biểu thị tính năng
quay trở của tàu.
- Đường kính lớn nhất của vòng quay trở (ký hiệu Dmax):


×