Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

TIÊU CHUẨN TRỌNG TÀI VIÊN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.23 KB, 58 trang )

BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MINH TRANG
MSSV: 392924

TIÊU CHUẨN TRỌNG TÀI VIÊN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM: THỰC TRẠNG, KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ
KHUYẾN NGHỊ HỒN THIỆN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội - 2018


BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MINH TRANG
MSSV: 392924

TIÊU CHUẨN TRỌNG TÀI VIÊN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM: THỰC
TRẠNG, KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN


Chuyên ngành: Luật thương mại Quốc tế

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN BÁ BÌNH

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết luận, số
liệu trong khóa luận tốt nghiệp là trung thực, đảm bảo độ tin cậy./
Xác nhận của
giảng viên hướng dẫn

Tác giả khóa luận tốt nghiệp


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.........................................................................................................................1
1.Lý do lựa chọn đề tài:......................................................................................................1
2.Phạm vi nghiên cứu:........................................................................................................2
3.Phương pháp nghiên cứu:..............................................................................................2
4.Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:....................................................................................3
5.Kết cấu khóa luận:...........................................................................................................3
NỘI DUNG..............................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ TIÊU
CHUẨN TRỌNG TÀI VIÊN....................................................................................................4
1.1: Những vấn đề lý luận chung về trọng tài thương mại:...............................................4

1.2: Những vấn đề lí luận chung về Trọng tài viên:.........................................................14
1.3: Tiêu chuẩn về trọng tài viên theo pháp luật Việt Nam:.............................................21
1.4: Tiêu chuẩn về trọng tài viên theo quy tắc của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam
(VIAC)...............................................................................................................................30
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM CỦA QUỐC TẾ VỀ TIÊU CHUẨN TRỌNG TÀI VIÊN.........35
2.1: Tiêu chuẩn chung về năng lực hành vi và năng lực pháp luật:................................35
2.2: Tiêu chuẩn về quốc tịch:............................................................................................35
2.3: Tiêu chuẩn về học vấn, chuyên môn, kinh nghiệm:.................................................37
2.4: Tiêu chuẩn về kĩ năng:..............................................................................................38
2.5: Tiêu chuẩn về sự sẵn sàng:......................................................................................39
CHƯƠNG 3: HIỆN TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN..................................41
3.1: Đánh giá về pháp luật:..............................................................................................41
KẾT LUẬN............................................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................53


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Từ hơn một thập kỉ trước, Thomas Friendman - một biên tập viên chuyên mục
ngoại giao và kinh tế của tạp chí New York Times đã từng khẳng định trong
tác phẩm Thế giới phẳng: “Tồn cầu hóa 3.0 thực chất đang ở vào giai đoạn
tăng tốc, nó làm cho thế giới chuyển từ cỡ nhỏ xuống cỡ siêu nhỏ và đồng
thời san phẳng thế giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng!”.Cho
tới thời điểm hiện nay thì xu hướng ấy đã phổ biến và phát triển tới ngưỡng
4.0 nhờ sự đi lên của khoa học cơng nghệ. Có thể thấy tồn cầu hóa đang diễn
ra vơ cùng mạnh mẽ, nó là nền tảng thúc đẩy mọi hoạt động trên thế giới đặc
biệt là kinh tế có sự liên kết và mở rộng không ngừng.Nếu như trước đây
thường chỉ các hoạt động kinh doanh như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu
tư,…chỉ diễn ra trong phạm vi chính các quốc gia thì trong những năm qua đã
các đã khơng ngừng mở rộng giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau,

gần như không một quốc gia nào tách biệt khỏi xu thế hội nhập chung này.
Trong q trình tồn cầu hóa và hội nhập diễn ra mạnh và chưa hề có dấu hiệu
chậm lại đặt ra nhiều bài tốn cho các doanh nghiệp cũng như các nhà sản
xuất về việc nâng cao chất lượng sản phẩm, ổn định giá cả,… và đặc biệt
trong quá trình liên doanh, liên kết, trao đổi và mua bán rộng rãi thì tranh
chấp phát sinh là điều không thể nào tránh khỏi. Để giải quyết vấn đề này,
phương thức trọng tài ra đời như một nhu cầu tất yếu, góp phần đa dạng hóa
các hình thức giải quyết tranh chấp, tạo thêm cơ hội lựa chọn cho các doanh
nghiệp bên cạnh các phương thức truyền thống.
Để đánh giá về phương thức này, Tổng thư kí Tòa án Trọng tài Quốc tế
(International Court of Arbitration – ICA) Jason Fry cho rằng: “Trọng tài là
phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn có nhiều ưu thế, trong đó nổi bật
là tính nhanh gọn, bí mật và phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm”.
Đồng thời, ông khuyến nghị: “đây là con đường mà các doanh nghiệp nước
ngoài tin tưởng và các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tin tưởng và lựa
1


chọn”1. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay khi mà Việt Nam đã tham gia vào
sân chơi kinh tế chung là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì việc lựa
chọn một phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và được nhiều quốc gia
đồng thuận áp dụng là điều vô cùng cần thiết, trọng tài là một phương thức
như vậy.
Song để đem lại một kết quả công bằng, hợp lý và giải quyết thích đáng
được tranh chấp thì khơng thể khơng nhắc tới vai trị cầm cân nảy mực của
các trọng tài viên. Trong đó hiện nay theo pháp luật Việt Nam các tiêu chuẩn
về trọng tài viên đã được đưa ra tuy nhiên vẫn còn bên cạnh các mặt mặt tích
cực vẫn cịn nhiều hạn chế. Để làm rõ hơn về vấn đề này em lựa chọn đề tài
khóa luận của mình là: “Tiêu chuẩn trọng tài viên giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam: thực trạng,

kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị hồn thiện”. Thơng qua khóa
luận này, em muốncung cấp cái nhìn cụ thể hơn về tiêu chuẩn trọng tài viên
theo pháp luật Việt Nam, tạo nên cơ sở đưa ra kiến nghị góp phần hồn thiện
chế định này trong bối cảnh hiện nay.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên hai phương diện lý luận và thực tiễn
về các tiêu chuẩn trọng tài viên trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại. Trong đó nhấn mạnh vào các quy định về tiêu chuẩn
trọng tài viên theo pháp luật Việt Nam đồng thời có sự so sánh,đối chiếu với
các quy địnhcủa pháp luật các quốc gia khác trên thế giới. Thơng qua những
góc nhìn khác nhau, khóa luận “phác họa” nên một bức tranh sơ lược về vấn
đề tiêu chuẩn trọng tài viên, tạo tiền đề cho việc đưa ra kiến nghị nâng cao và
hoàn thiện các quy định này để phù hợp với tình hình trong nước và xu thế
phát triển của thế giới.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp lý luận theo chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
1

/>Luat_Trong_tai.doc

2


sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin là những phương pháp chính được sử dụng
trong đề tài này. Ngồi ra,đề tài có sử dụng linh hoạt các phương pháp khác
như: phân tích, tổng hợp, so sánh,… để nghiên cứu sâu sắc hơn các khía cạnh
của vấn đề nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài nhằm mục đích đi sâu vào việc tìm hiểu các quy đinh của pháp luật
về các tiêu chuẩn trọng tài viên – một trong những nhân tố quan trọng trong

phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế. Qua đó có nhận
thức chi tiết và đầy đủ về các quy định của pháp luật, hiểu được sự tương
đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới
cũng như chính trong pháp luật Việt Nam qua từng thời kì. Dựa trên đó, khóa
luận sẽ đưa ra các kiến nghị bổ sung, hoàn thiện vào các quy định liên quan
đến tiêu chuẩn trọng tài viên.
Để thực hiện được những mục đích đã nêu trên, đề tài có một số nhiệm vụ
chính:
- Đưa ra cơ sở lý luận chung về trọng tài thương mại và trọng tài viên;
- Phân tích những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về tiêu chuẩn
trọng tài viên, cụ thể là làm rõ các mặt tích cực và hạn chế trong hoạt động
thực tiễn áp dụng;
- Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về đặt ra
tiêu chuẩn trọng tài viên.
5. Kết cấu khóa luận:
Bên cạnh lời nói đầu, lời kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
bao gồm 03 chương với nội dung chính như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lí luận về trọng tài thương mại và tiêu chuẩn
trọng tài viên
- Chương 2: Kinh nghiệm quốc tế về tiêu chuẩn trọng tài viên
- Chương 3: Hiện trạng và phương hướng hoàn thiện

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI VÀ TIÊU CHUẨN TRỌNG TÀI VIÊN
1.1: Những vấn đề lý luận chung về trọng tài thương mại:


1.1.1: Khái niệm trọng tài thương mại:
Có thể thấy trọng tài thương mại đã và đang dần trở thành cách thức hữu hiệu
giúp cho các thương nhân có thể giải quyết các vụ tranh chấp một cách nhanh
chóng, hiệu quả và đảm bảo tính bí mật. Vậy trọng tài thương mại là gì và vì
sao phương thức này lại được các thương nhân tin tưởng và sử dụng nhiều
như vậy?
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau để định nghĩa về “trọng tài
thương mại”:
Theo cuốn “Đại từ điển kinh tế thị trường”. Trọng tài thương mại là một
phương thức giải quyết một cách hịa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên
đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho
bên thứ ba có tư cách cơng bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người
này đưa ra có hiệu lực ràng buộc đối với cả hai bên”2.
Trong cuốn “Đạo đức và kỹ năng hành nghề luật sư trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do PGS.TS Lê Hồng Hạnh làm chủ biên
thì: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp theo đó hai hay nhiều bên
đưa vụ tranh chấp của họ ra bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải
quyết theo những thủ tục đặc trưng của q trình đó”.
Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA) nhận định: “Trọng tài là cách giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách
quan xem xét giải quyết và họsẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt
buộc các bên phải thực hiện”3.
Theo pháp luật Việt Nam, trong Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh về Trọng tài
thương mại 2003 quy định: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
2

Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, (1998), Đại từ điển kinh tế thị Trường, NXB. Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
3
/>

4


pháp sinh trong hoạt động thương mại, được các bên thỏa thuận và được tiến
hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp này quy định”
Khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ra đời, tại Khoản 1 Điều 3khái
niệm trọng tài được định nghĩa như sau: “Trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo các quy định của
Luật này”.
Mỗi tài liệu có một cách định nghĩa khác nhau về trọng tài thương mại, tuy
nhiên từ những khái niệm đã được ra, có thể thấy khái niệm trọng tài thương
mại được nhìn nhận trên hai tư cách sau:
Thứ nhất, trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài thương mại là một cơ quan giải quyết tranh chấp.

1.1.2: Đặc điềm của trọng tài thương mại:
∗ Trọng tài thương mại trên tư cách là một phương thức giải quyết
tranh chấp:
Hệ thống pháp luật của các quốc gia đều cho phép các thương nhân, cá
nhân, tổ chức được quyền lựa chọn cách thức, phương pháp giải quyết tranh
chấp khác nhau tùy theo nhu cầu của các bên. Chính điều này là cơ sở hình
thành nên các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn (Alternative
Dispute Resolution) nhằm bổ sung, hỗ trợ và tạo ra nhiều phương thức giúp
đỡ các thương nhân bên cạnh phương thức giải quyết tại tòa án theo cách
truyền thống. Trọng tài thương mại chính là một trong những phương thức ấy,
ngồi ra còn các phương thức như thương lượng, hòa giải,...
Trọng tài thương mại từ lâu đã trở thành phương thức giải quyết tranh
chấp phổ biến và được sừ dụng với tần suất lớn bởi các thương nhân và cá
nhân, tổ chức tại các quốc gia phát triển. Tới nay, đây cũng đang dần trở thành
phương thức được áp dụng phổ biến và thường xuyên hơn tại các quốc gia

đang phát triển.
Từ góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động
thương mại, trọng tài có những đặc điểm nổi bật sau:
5


Thứ nhất, Trọng tài là phương thức có sự tham gia của bên thứ ba làtrọng
tài viên với vai trò nghiên cứu vụ việc và đưa ra các quyết định nhằm giải
quyết hợp lý, hiệu quả vụ việc. Họ hoạt động một cách độc lập, khônghành
động như luật sư cho bên nào cả
Thứ hai, thủ tục giải quyết tại trọng tài được tiến hành chặt chẽ tuy nhiên
vẫn đảm bảo tính linh hoạt cho các bên trong việc lựa chọn thời gian, địa
điểm và các trọng tài viên. Khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các bên
có thể tự thỏa thuận về quy tắc tố tụng hoặc sử dụng quy tắc tố tụng của
Trung tâm trọng tài mà các bên đã lựa chọn với điều kiện thỏa thuận này
không trái pháp luật.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, cụ thể là Luật trọng tài
thương mại 2010 quy định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết
tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này” (Khoản 1 Điều 3). Như vậy, các bên có tự thỏa thuận về việc lựa chọn
trọng tài, quy tắc tố tụng nhưng vẫn cần tuân theo một số quy định khung
trong luật như: Chương II - Thỏa thuận trọng tài, Chương V – Khởi kiện,
Chương VI – Hội đồng trọng tài, Chương VIII – Phiên họp giải quyết tranh
chấp,…
Thứ ba, phán quyết tại Trọng tài mang tính chung thẩm (Theo Khoản 5
Điều 60 Luật trọng tài thương mại 2010: “Phán quyết trọng tài là chung thẩm
và có hiệu lực kể từ ngày ban hành”) - điều này có nghĩa các bên khơng tiến
hành kháng cáo, kháng nghị về nội dung củaphán quyết trọng tài. Phán quyết
cuối cùng được đưa ra dựa trên cả yếu tố thỏa thuận, thương lượng giữa hai
bên vừa có yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc đối với các bên).

Thứ tư, khi giải quyết tranh chấp tại Trọng tài, ngun tắc đảm bảo bí mật
thơng tin ln được đặt ra, mọi thông tin liên quan đến tranh chấp như các
bên tranh chấp, nội dung tranh chấp được giữ bí mật hồn tồn, đảm bảo uy
tín cho các doanh nghiệp, cá nhân và tổ chức.
Thứ năm, Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chun
6


môn cao. Khi mang một vụ tranh chấp ra xét xử tại tòa án, đặc biệt là các
tranh chấp thuộc các lĩnh vực kinh doanh thương mại có tính đặc thù, địi hỏi
chun mơn cao như dầu khí, bảo hiểm, xây dựng, tài chính, đầu tư địi hỏi
thẩm phán được chỉ định xét xử phải có sự am hiểu sâu sắc về lĩnh vực tranh
chấp, đặc biệt là trong những vụ án có yếu tố nước ngồi thì thẩm phán còn
phải am hiểu cả về thương mại quốc tế cũng như các tập quán có liên quan
đến đối tượng tranh chấp.Đây có thể xem là một thách thức lớn được đặt ra
cho các thẩm phán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay, đặc biệt là các
thẩm phán cấp thành phố/huyện trực thuộc tỉnh khi quy định về mở rộng thẩm
quyền xét xử cho các tòa án cấp thành phố/huyện trực thuộc tỉnh có hiệu lực.
Mặt khác, tồn án cũng khơng cho phép các bên có quyền lựa chọn thẩm phán
mà thẩm phán chủ tọa sẽ do Chánh án của Tịa án có thẩm quyền chỉ định.
Trong khi đó, các trọng tài viên đều là những chuyên gia hoặc luật sư có trình
độ cao về lĩnh vực họ đảm nhiệm. Các trọng tài viên tham gia vào việc giải
quyết tranh chấp có thể là những chuyên gia, cố vấn, luật sư có hiểu biết và
kinh nghiệm chuyên sâu liên quan đến tới lĩnh vực đang có tranh chấp như
xây dựng, đầu tư, hàng hải,… góp phần nâng cao hiệu quả, cơng bằng, chính
xác trong việc đưa ra phán quyết (Theo thống kê tính đến thời điểm
20/10/2014 tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC thì tỉ lệ trọng tài
viên của từng nhóm ngành như sau: 33% Luật sư, 23% Chuyên gia ngoại
thương, 9% Chuyên gia kĩ thuật và xây dựng, 8% Chuyên gia tài chính ngân
hàng, 6% Luật gia, 5% Chuyên gia hàng hải, 4% Chuyên gia bảo hiểm, 9%

thuộc các lĩnh vực khác4)
∗ Trọng tài với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp:
Trọng tài là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyền tranh chấp
trong các hoạt động thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ hoặc đầu tư,…
được pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam cơng nhận và
quy định. Do đó, Trọng tài thương mại có những đặc điểm cơ bản từ góc độ là
một cơ quan giải quyết tranh chấp như sau:
4

/>
7


Thứ nhất, Trọng tài là một tổ chức xã hội nghề nghiệp do các Trọng tài viên
thành lập ra độc lập với Nhà nước, nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại. Vì lẽ đó, khi tiến hành xét xử, trọng tài
khơng nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết.
Thứ hai, thẩm quyền của trọng tài không phát sinh một cách đương nhiên
mà chỉ xuất phát khi có thỏa thuận của các bên, thảo thuận này được các bên
quy định ngay trong hợp đồng khi bắt đầu kí kết hợp đồng hoặc thỏa thuận
khi có tranh chấp xảy ra. Chính các chủ thể tranh chấp trao quyền xét xử cho
trọng tài.
Thứ ba, phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, có giá trị bắt buộc đối
với các bên. Tuy nhiên khơng có tính cưỡng chế thi hành bởi quyền lực Nhà
nước như với phán quyết của Tịa án.

1.1.3: Các hình thức trọng tài thương mại:
Dựa theo bản chất của tranh chấp và ý chí của các bên tranh chấp, vụ việc
có thể được giải quyết theo hai hình thức: thứ nhất, các bên tự lựa chọn và
thành lập hội đồng trọng tài, được gọi là: Trọng tài vụ việc (Trọng tài Adhoc); thứ hai, các bên lựa chọn hội đồng trọng tài của một tổ chức trọng tài

thường trực, được gọi là: Trọng tài thường trực. Mỗi hình thức trọng tài có
những ưu điểm và khuyết điểm riêng. Các bên tranh chấp sẽ tự mình thỏa
thuận và lựa chọn về một hình thức mà các bên cho là phù hợp.
Thỏa thuận về trọng tài sẽ được quy định trong hợp đồng hoặc ghi nhận
trong một thỏa thuận riêng giữa các bên, một thỏa thuận trọng tài khơng rõ
ràng có thể sẽ bị vô hiệu. Cụ thể, theo điều Theo Điều 18 Luật Trọng tài
thương mại năm 2010, thoả thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau:
a) Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền
của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
b) Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
c) Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân
8


sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
d) Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định
tại Điều 16 của Luật này.
đ) Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình
xác lập thoả thuận trọng tài và có u cầu tun bố thoả thuận trọng
tài đó là vơ hiệu.
e) Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật
∗ Trọng tài thường trực:
Trọng tài thường trực (còn gọi là Trọng tài thiết chế) là một hình thức
trọng tài được quản lí bởi một tổ chức trọng tài nhất định và tuân theo những
quy tắc của tổ chức trọng tài đó. Khi lựa chọn hình thức trọng tài thường trực
có nghĩa là các chấp thuận với các quy tắc tố tụng, tiêu chuẩn về trọng tài viên
của tổ chức ấy.
Trọng tài thường trực có các đặc điểm sau:
- Tổ chức trọng tài thường trực là tổ chức phi Chính phủ, có bộ quy tắc

tố tụng trọng tài riêng giúp cho các bên tranh chấp dễ dàng áp dụng nhanh
chóng mà không cần phải xây dựng lại các thủ tục tố tụng. Mỗi trung tâm
trọng tài có tư cách pháp nhân riêng, tồn tại độc lập với nhau.
- Hoạt động tố tụng của Trọng tài được tiến hành bởi các Trọng tài viên
của Trung tâm, đồng thời trung tâm có đội ngũ nhân viên hành chính chuyên
nghiệp được đào tạo về giám sát và quản lí q trình tố tụng tại trọng tài
thương mại. Đội ngũ này có thể giúp các bên trong các công tác: lựa chọn
trọng tài viên phù hợp, kiểm soát thời gian của các phiên giải quyết tranh chấp
tại trọng tài, ấn định chi phí phù hợp theo quy định của tổ chức trọng tài,...
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều trung tâm trọng tài lớn và uy tín như:
Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA), Tòa án Trọng tài quốc tế London (LCIA),
Trung tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID), Ủy ban Trọng tài
thương mại Liên Hoa Kì,… Tại Việt Nam có thể kể đến một số trung tâm
trọng tài lớn như: Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), VLCAC,
PIAC, ACIAC, …
9


∗ Trọng tài vụ việc:
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được hoạt động và quản lí theo
những quy tắc do chính các bên tham gia xây dựng nên. Theo đó, các bên
được tự do thỏa thuận về các quy tắc tố tụng mà không bắt buộc phải tuân
theo bất kì một bộ quy tắc tố tụng trọng tài nào. Các bên có quyền thỏa thuận
về cách thức bổ nhiệm trọng tài viên, luật điều chỉnh, quy tắc tố tụng, ngôn
ngữ trọng tài,…
Trọng tài vụ việc một số đặc điểm sau:
- Là hình thức trọng tài do các bên tự thỏa thuận để thành lập nhằm giải
quyết tranh chấp dựa trên: nội dung tranh chấp, thời gian và địa điểm giải
quyết tranh chấp, khả năng tài chính của mỗi bên, khối lượng tài liệu cần xử
lý, số lượng nhân chứng được mời tham gia,..

- Hoạt động khơng có trụ sở, khơng có danh sách trọng tài viên và đội
ngũ hành chính nhân sự, khơng có quy tắc tố tụng riêng.
- Sau khi giải quyết xong tranh chấp hội đồng trọng tài sẽ tự động giải
tán
So với Trọng tài thường trực, trọng tài vụ việc có một số ưu thế cũng như
hạn chế sau:
- Giải quyết một cách nhanh chóng và tiết kiệm chi phí bởi xét cho cùng
Trọng tài vẫn là phương thức giải quyết phụ thuộc phần lớn vào ý chí của các
bên.
- Khơng bị giới hạn quyền lựa chọn trọng tài viên và quy tắc tố tụng
trọng tài bởi danh sách trọng tài và quy tắc có sẵn. Ngược lại, các bên có thể
lựa chọn bất kì trọng tài viên ở tổ chức trọng tài nào và bất kì quy tắc tố tụng
ở trung tâm nào hoặc tự thỏa thuận đưa ra quy tắc.
Tuy nhiên, việc hình thành trọng tài vụ việc và các quy tắc tố tụng phụ
thuộc phần lớn vào sự thiện chí trong quá trình thỏa thuận để đưa ra lựa chọn
của các bên, trong trường hợp các bên không thống nhất được ý chí sẽ gây
mất thời gian hơn rất nhiều cho việc giải quyết tranh chấp.
Theo Luật trọng tài thương mại 2010 thì tại Việt Nam khuyến khích cả hai
10


hình thức trọng tài, các có thể sử dụng bất kì hình thức nào song phải tuân
theo các quy định được ghi nhận cho tiết trong Luật Trọng tài thương mại
2010 và Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng
Thẩm phán Toàn án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của
Luật Trọng tài thương mại5

1.1.4: Khái quát pháp luật giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại và lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật về trọng tài
thương mại:

∗ Pháp luật về trọng tài thương mại
Tương tự như các quan hệ xã hội khác, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài cũng được pháp luật
quy định và điều chỉnh. Pháp luật chính là cơng cụ hữu hiệu để Nhà nước
quản lý và kiếm soát hoạt động của Trọng tài thương mại trong thực tiễn.
Theo đó, pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là tổng thể các quy
phạm do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại. Đó là những quan hệ phát sinh giữa các bên tranh chấp, giữa những
người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp;
quan hệ giữa trung tâm trọng tài (bên giải quyết tranh chấp) với các bên tranh
chấp; quan hệ trong việc hỗ trợ của cơ quan nhà nước với hoạt đọng của các
trung tâm trọng tài thương mại… Trong đó, một số nội dung điển hình như:
-

Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Tiêu chuẩn lựa chọn, bổ nhiệm trọng tài viên, hội đồng trọng tài
Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Sự hỗ trợ của các cơ quan tư pháp đối với hoạt động giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại (sự hỗ trợ của Tòa án, Viện kiểm sát,
Cơ quan Thi hành án)

Trải qua các giai đoạn khác nhau theo từng bối cảnh kinh tế - xã hội, pháp
luật về Trọng tài thương mại ngày càng được hoàn thiện, thúc đẩy tốt cho sự
5

Giáo trình Luật thương mại 2

11



phát triển của hình thức trọng tài. Nhờ có các quy định của pháp luật, đã tạo
ra hành lang pháp lí vững chắc cho hoạt động của trọng tài thương mại, đảm
bảo sự hỗ trợ thiết thực mang tính quyền lực nhà nước của các cơ quan tư
pháp nhằm tăng hiệu quả hoạt động cho Trọng tài thương mại, để đây thực sự
trở thành phương thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu, thuận lợi mà các
thương nhân, doanh nghiệp ưu tiên áp dụng.
∗ Lịch sử hình thành và phát triển của trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp đã hình thành
và tồn tại trên thế giới từ những thế kỉ trước. Tuy nhiên, ở Việt Nam, do đặc
thù của nền kinh tế, chính trị, xã hội nên hình thức này phát triển muộn hơn.
Tiến trình phát triển của pháp luật về trọng tài thương mại được diễn ra theo
một số giai đoạn sau:
- Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1994:
Trong giai đoạn này, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
thuần nhất giữa sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể. Các tranh chấp chủ yếu
thường là tranh chấp về Hội đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh với
nhau hoặc giữa các xí nghiệp quốc doanh với hợp tác xã. Vì vậy, mơ hình giải
quyết tranh chấp kinh doanh nước ta và trọng tài có thẩm quyền giải quyết là
Trọng tài kinh tế Nhà nước – một cơ quan quản lý về chế độ Hội đồng kinh tế.
Hoạt động của Trọng tài kinh tế Nhà nước được điều chỉnh bằng các văn bản
sau: Nghị định số 20/TTg ngày 14/01/1960 của Thủ tướng Chính phủ quy
định về việc tổ chức ngành Trọng tài Kinh tế, Nghị định số 75/CP ngày
14/04/1975 của Chính phủ quy định về Điều lệ về tổ chức và hoạt động của
Hội đồng Trọng tài kinh tế; Pháp lệnh trọng tài kinh tế được Hội đồng Nhà
nước ban hành năm 1990.
Chức năng của trọng tài kinh tế lúc bấy giờ là quản lý chế độ Hội đồng
kinh tế, thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thực hiện Hội đồng kinh tế xét xử các tổ
chức kinh tế, xử lý, kết luận và tuyên Hội đồng kinh tế vô hiệu. Như vậy,

Trọng tài kinh tế là sản phầm đặc thù của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
12


vì nó được thiết kế sao cho phù hợp với chức năng, quyền hạn cũng như
nguyên tắc hoạt động phù hợp với yêu cầu, đặc điểm của cơ chế đó.
Trong thời kì này, mặc dù đã có Trọng tài kinh tế Nhà nước nhưng thực
tiễn các hoạt động kinh tế của nước ta từ đầu những năm 1960 đòi hỏi phải
thành lập các tổ chức trọng tài phi chính phủ để giải quyết các tranh chấp kinh
tế phát sinh từ quan hệ kinh tế Quốc tế. Xuất phát từ những yêu cầu này, Hội
đồng Trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải được thành lập
theo Nghị định số 59/CP ngày 30/04/1963 và Nghị định số 153/CP ngày
05/10/1964 của Hội đồng Chính phủ. Các tổ chức trọng tài này nhằm giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thanh
tốn quốc tế, …Sau nhiều năm hoạt động thì hai trung tâm này được sáp nhập
thành Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam theo Quyết định số 204/TTg
ngày 28/04/1993 của Thủ tướng Chính phủ.
- Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2003:
Thời gian này là giai đoạn Việt Nam bắt đầu bước vào những tiến trình
hội nhập, diện mạo pháp luật nước ta cũng có nhiều sự thay đổi. Lúc này tồn
tại song song hai hệ thống cùng có chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế là
Trung tâm trọng tài kinh tế và Tịa án kinh tế. Ngày 05/09/1994 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 116/CP về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm
trọng tài, từ đó Trung tâm trọng tài - một tổ chức Phi chính phủ và là một tổ
chức xã hội nghề nghiệp đã được hình thành với đúng bản chất của nó. Theo
nghị định này, Hội đồng Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tương tự như Tịa
kinh tế. Trong thời kì này, trên cả nước bắt đầu sự phát triển của việc thành
lập các trung tâm trọng tài tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Giai đoạn 2003 đến nay:

Nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật thời kỳ trước, sau sáu năm
chuẩn bị, ngày 25/02/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh Trọng tài thương mại gồm 8 chương và 37 điều, thể hiện nỗ lực của Việt
13


Nam trong việc hòa chung với xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập. Pháp
lệnh trọng tài thương mại đã có nhiều yếu tố phù hợp hơn với pháp luật các
nước và thông lệ quốc tế điều chỉnh về trọng tài. Đồng thời, Pháp lệnh là một
cơ sở pháp lý duy nhất, nền tảng pháp luật để thúc đẩy các hoạt động trọng tài
thương mại tại Việt Nam nói riêng và hoạt động tố tụng nói chung. Tuy nhiên,
bên cạnh đó trải qua hơn sáu năm thực hiện, Pháp lệnh cũng bộc lộ những
điểm thiếu sót và hạn chế ở một số điểm như: phạm vi thẩm quyền của Trọng
tài, thỏa thuận trọng tài, vấn đề thời hiệu khởi kiện, … khiến cho hoạt động
trọng tài ở nước ta bị giới hạn khá nhiều, chưa có điều kiện để thực hiện đầy
đủ chức năng của một cơ quan tài phán độc lập, chính vì vậy mà hoạt động
các trung tâm Trọng tài ở Việt Nam vẫn chưa thực sự đạt được kết quả cao và
có vị trí như mong muốn.
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp nhằm xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Trọng tài thương mại 2010 được ban
hành với mục tiêu ghi nhận chủ trương mở rộng các hình thức giải quyết tranh
chấp trong hoạt động thương mại và một số quan hệ dân sự khác, đáp ứng nhu
cầu và khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng phương thức trọng tài để giải
quyết tranh chấp, giảm tải cho hoạt động xét xử của hệ thống tòa án. Luật
Trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 và chính
thức có hiệu lực ngày 01/01/2011 gồm 13 chương và 82 điều, thể hiện sự đột
phá của pháp luật về trọng tài tại Việt Nam6.
1.2: Những vấn đề lí luận chung về Trọng tài viên:

1.2.1: Khái niệm Trọng tài viên:

Từ những tìm hiểu về khái niệm trọng tài thương mại, có thể hiểu về
trọng tài viên trước nhất là người tham gia vào quá trình giải quyết tranh
chấp, xét xử tại trọng tài. Tuy nhiên khái niệm cụ thể của trọng tài viên là gì?
Đại từ điển Việt Nam chỉ đưa ra định nghĩa về trọng tài, theo đó: “Trọng

6

Nguyễn Mạnh Linh (2005), Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài – Thực tiễn hoạt động của các

trung tâm trọng tài thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.

14


tài là người được cử ra để phân xử, giải quyết các tranh chấp”7
Từ điển Luật học định nghĩa: “Trọng tài viên trong lĩnh vực pháp luật
kinh tế, là người do nhà nước cử hoặc do các bên tranh chấp thỏa thuận cùng
nhau lựa chọn để giải quyết các vụ tranh chấp về hợp đồng kinh tế, về mua
bán, vận chuyển hàng hóa hoặc về lao động. Trọng tài viên do Nhà nước cử
gọi là Trọng tài công, nếu do các bên tự lựa chọn gọi là trọng tài phi chính
phủ”8
Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 tại Khoản 5 Điều 2 quy định:
“Trọng tài viên là người có đủ các điều kiện quy định tại Điều 12 của Pháp
lệnh này, được các bên chọn hoặc Trung tâm Trọng tài hoặc Tịa án có thẩm
quyền chỉ định để giải quyết vụ tranh chấp”. (Trong đó, Điều 12 của Pháp
lệnh quy định về Tiêu chuẩn trọng tài viên)
Theo quy định của văn bản pháp luật còn hiệu lực ở thời điểm hiện nay
là Luật trọng tài thương mại 2010, tại Khoản 5 Điều 3 giải thích: “Trọng tài
viên là người được các bên lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc Tòa
án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này”.

Từ những khái niệm ở các văn bản đưa ra, có thể tổng quát lại: Trọng tài
viên là những người được công nhận theo những tiêu chuẩn được đặt trong
các quy định của pháp luật vàcủa trung tâm trọng tài mà họ làm việc, có
nhiệm vụ giải quyết cáctranh chấp và đưa ra phán quyết xét xử. Trọng tài viên
giải quyết một tranh chấp bất kì có thể do Trung tâm trọng tài hoặc Tịa án
hoặc các bên tự thỏa thuận lựa chọn.

1.2.2: Tầm quan trọng của Trọng tài viên
Có thể khẳng định rằng trọng tài viên có vai trị vơ cùng quan trọng trong
q trình giải quyết tranh chấp, vai trị của trọng tài viên được thể hiện trên
hai góc độ: q trình tiến hành tố tụng và trình độ chun mơn.
Thứ nhất, về việc tiến hành q trình tố tụng. Việc phân tích vấn đề, lắng
nghe phần tranh luận của các bên và phán quyết cuối cùng của trọng tài viên
7

Nguyễn Như Ý (chủ biên), (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB. Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội. (tr.1714)
Từ điển Luật học, (1999), NXB. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

8

15


đóng vai trị quan trọng khơng chỉ với các bên nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp cho mình trong một tranh chấp cụ thể, quyết định ấy còn ảnh hưởng
với danh tiếng, sự nghiệp và các lợi ích của trọng tài viên cũng như của trung
tâm trọng tài mà họ làm việc.Sau khi một bên quyết định bắt đầu q trình tố
tụng trọng tài và một thơng báo hay đơn khởi kiện đã phù hợp về hình thức
được gửi đi, bước kế tiếp là thành lập hội đồng trọng tài gồm các trọng tài
viên. Một khi có quyết định đưa tranh chấp ra trọng tài, việc lựa chọn trọng

tài viên thích hợp rất quan trọng đối với sự thành cơng của q trình tố tụng
trọng tài. Trên tất cả, chính chất lượng của hội đồng trọng tài mà cụ thể là
những trọng tài viên sẽ quyết định sự thành cơng hay thất bại của q trình tố
tụng trọng tài, và đây là một trong những yếu tố khác biệt đặc trưng của quá
trình tố tụng trọng tài so với các phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ
quan tài phán của quốc gia như tòa án.
Trong khi tòa án quốc gia là cơ quan thường trực, hầu như có thể được sử
dụng vào bất kỳ thời điểm nào và tuân theo quy tắc tố tụng Luật định thì hội
đồng trọng tài và các trọng tài viên cần phải được lựa chọn kĩ càng thì mới có
thể được hình thành, có thể thực hiện thẩm quyền đối với các bên và đối với
tranh chấp. Nếu như tranh chấp đó được đưa ra tòa án, nguyên đơn chỉ cần
thực hiện đúng theo cách thức mà bộ luật tố tụng quy định là có thể tiến hành
đưa tranh chấp ra xét xử tại Tồ án theo chu trình được định sẵn. Các bên sẽ
khơng có vai trị gì trong việc thành lập nên Hội đồng xét xử của Tịấn đó.
Câu chuyện sẽ khác đi nếu như tranh chấp được đưa tới trọng tài: khơng có cơ
quan thường trực nào gồm các trọng tài viên và khơng có quyết định nào được
đưa ra hay biện pháp nào được áp dụng cho đến khi hội đồng trọng tài được
thành lập. Điều này tạo nên sự linh hoạt và thuận lợi cho các bên trong việc
lựa chọn thời gian, địa điểm và quy tắc tố tụng.
Thứ hai, về việc lựa chọn có năng lực và trình độ chun mơn. Như đã
nói ở trên, các tranh chấp được giải quyết tại trọng tài vô cùng đa dạng về lĩnh
vực, nếu trọng tài không thực sự là người có hiểu biết và chun mơn sẽ dẫn
16


đến tình trạng xét xử và đưa ra các quyết định thiếu đúng đắn, không đảm bảo
công bằng. Bên cạnh việc lựa chọn trọng tài viên có chun mơn phù hợp với
lĩnh vực pháp luật, chuyên môn tương ứng với nội dung tranh chấp, việc các
bên thấy được tầm quan trọng của kinh nghiệm về trọng tài, nhất là đối với
trọng tài viên duy nhất hoặc chủ tịch hội đồng trọng tài – những nhân vật nắm

kiểm sốt q trình tố tụng, là đặc biệt quan trọng. Quyền lợi của các bên, cụ
thể là quyền được xét xử công bằng phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Trọng
tài viên nếu đóng vai trò là trọng tài viên duy nhất hay chủ tịch hội đồng trọng
tài có thể thực hiện chức năng này trước bối cảnh xung đột về văn hoá và
pháp lý của đại diện của các bên. Cùng lúc đó, quá trình tố tụng vẫn phải
được duy trì theo định hướng của nó. Vấn đề về ngơn ngữ cũng là một khía
cạnh có thể xảy ra, liên quan đến việc liên lạc giữa các thành viên của hội
đồng trọng tài và khi thu thập chứng cứ. Một thời gian biểu phải được thiết
lập cho các bước khác nhau trong quá trình tố tụng trọng tài (cung cấp các tài
liệu, trao đổi bản tuyên bố của các người làm chứng, v.v…) cũng như để giải
quyết việc sắp xếp chỗ nghỉ và đi lại và các vấn đề hành chính khác. Đây là
tất cả những nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với trọng tài viên khi tiến hành
giải quyết tranh chấp.

1.2.4: Khái quát về các quy phạm điều chỉnh vấn đề tiêu chuẩn Trọng
tài viên tại Việt Nam
Theo quá trình hình thành và phát triển của các quy định về trọng tài
thương mại, các quy định liên quan đến tiêu chuẩn về trọng tài viên cũng có
sự thay đổi, bổ sung hoàn thiện qua từng văn bản pháp luật khác nhau.
Quy định đầu tiên có liên quan đến tiêu chuẩn trọng tài viên được nêu ra
tại Pháp lệnh trọng tài kinh tế được Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1990,
tại văn bản này, tiêu chuẩn trọng tài không phải là một điều khoản riêng, mà
được quy định chung liên quan đến phẩm chất, năng lực tại Điều 10: “Trọng
tài viên phải là người có phẩm chất chính trị, liêm khiết cơng minh, có kiến
thức pháp lý và quản lý kinh tế cần thiết”.
17


Tiếp theo, tại Quyết định số 204/TTg ngày 28/04/1993 của Thủ tướng
Chính phủ, trong văn bản ban hành kèm theo là Điều lệ tổ chức Trung tâm

trọng tài quốc tế tại Việt nam, tiêu chuẩn về trọng tài viên không được quy
định hay có vị trí riêng trong một điều khoản mà chỉ được nêu ra một cách
chung nhất tại Điều 4: “Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam gồm các trọng
tài viên là những người có kiến thức và kinh nghiệm trong các lĩnh vực pháp
luật, ngoại thương, đầu tư, tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm v.v... do
ban thường trực Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam chọn.Các
chun gia nước ngồi có thể được mời làm trọng tài viên của Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam”.
Quy định này được nêu ra trong hai văn bản trên là những quy định hết sức
đơn giản. Chủ yếu muốn nhấn mạnh vào yếu tố trọng tài viên cần là những
người có đạo đức và chun mơn. Tuy nhiên để xác định hai định yếu tố này
thì chưa có một quy chuẩn nào cụ thể về bằng cấp hay số năm kinh nghiệm.
Cho đến năm 1994 khi Nghị định 116/CP Về tổ chức trọng tài kinh tế ra
đời, tiêu chuẩn về bằng cấp và kinh nghiệm chuyên môn của trọng tài viên
mới được quy định chi tiết hơn tại Điều 8:
1- Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam có đủ các điều kiện sau
đây thì có thể được cơng nhận là Trọng tài viên:
a) Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan;
b) Có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật và kinh tế.
2- Người mất trí, người bị kết án tù mà chưa được xoá án, người
đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì khơng được làm Trọng tài
viên.
3- Thẩm phán, kiểm sát viên không được đồng thời là Trọng tài
viên.
4- Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định thành lập Hội đồng xét chọn
Trọng tài viên và quy định thủ tục xét chọn Trọng tài viên và cấp
thẻ Trọng tài viên theo đề nghị của Hội đồng xét chọn Trọng tài
18



viên
Ngồi ra, theo thơng tư của bộ tư pháp số 02/PL-DSKT ngày 3 tháng 1
năm 1995 hướng dẫn thi hành một số điểm của nghị định số 116/CP ngày 5-91994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế, quy định
chi tiết hơn về Điều 8 như sau: Người được coi là có kiến thức và kinh
nghiệm trong lĩnh vực pháp luật và kinh tế nói tại điểm b khoản 1 Điều 8 của
Nghị định là người có trình độ đại học luật hoặc tương đương đại học luật và
có ít nhất 8 năm liên tục làm công tác pháp luật và kinh tế.
Tuy nhiên, những quy định về bằng cấp và số năm kinh nghiệm theo
Nghị định 116/CP được xem là tạo ra nhiều khó khăn trong việc trở thành
trọng tài viên, việc lựa chọn trọng tài viên có đủ tiêu chuẩn ln vẫn là vấn đề
tồn tại nhiều vướng mắc trong thời kì ấy. Để tháo gỡ phần nào các hạn chế tồn
tại ấy, tại Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã lần đầu tiên đưa ra một điều
khoản riêng biệt quy định về tiêu chuẩn trọng tại viên tại Điều 12:
1. Cơng dân Việt Nam có đủ các điều kiện sau đây có thể làm Trọng
tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực vơ tư, khách quan;
c) Có bằng đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ
năm năm trở lên.
2. Người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xóa án tích khơng
được làm Trọng tài viên.
3. Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công
chức đang công tác tại Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân,
cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án không được làm Trọng tài
viên.
Sau 6 năm đi vào thực tiễn áp dụng, Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003 cũng bộc lộ nhiều thiếu sót, do vậy, năm 2010 Luật Trọng tài thương
19



mại được thơng qua trong đó quy định về tiêu chuẩn trọng tài viên như sau:
Điều 20. Tiêu chuẩn Trọng tài viên
1. Những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài
viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân
sự;
b) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học
từ 5 năm trở lên;
c) Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chun mơn
cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu
cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài
viên.
2. Những người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây không được làm
Trọng tài viên:
a) Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp
hành viên, cơng chức thuộc Tồ án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án;
b) Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự
hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích.
3. Trung tâm trọng tài có thể quy định thêm các tiêu chuẩn cao hơn
tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này đối với Trọng tài viên của
tổ chức mình.
Như vậy, tới nay đã có khơng ít các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt
động của trọng tài thương mại nói chung và tiêu chuẩn trọng tài viên nói
riêng. Tùy thuộc vào từng hồn cảnh ra đời mà các văn bản có nội dung và
quy định khác biệt, tuy nhiên nhìn một cách tổng qt thì các văn bản đều thể
hiện sự hồn thiện hơn qua từng thời kì.


20


1.3: Tiêu chuẩn về trọng tài viên theo pháp luật Việt Nam:
Như đã nói trên, phiên giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại sẽ
diễn như thế nào, hiểu quả của phiên giải quyết có đạt được hay khơng phụ
thuộc phần lớn và đội ngũ trọng tài viên. Do vậy, việc đặt ra các quy định
pháp luật nền tảng về tiêu chuẩn trọng tài viên là vô cùng quan trọng. Hầu hết
các quốc gia trên thế giới cũng như các bộ quy tắc về trọng tài đều có đề cập
tới tiêu chuẩn trọng tài. Việt Nam cũng không ngoại lệ, ngay từ những văn
bản pháp luật ban đầu quy định về Trọng tài thương mại Việt Nam đã đưa ra
một số tiêu chuẩn cơ bản về trọng tài viên.

1.3.1: Tiêu chuẩn chung về năng lực pháp luật và năng lực hành vi:
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định về tiêu chuẩn chung đối với
trọng tài thương mại tại điểm a, Khoản 1 Điều 20 Luật trọng tại thương mại
2010:“1. Những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự;”
Ngoài ra, theo Khoản 2 Điều 20 quy định bổ sung về các trường hợp có
đủ năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi nhưng có năng lực pháp
luật cũng khơng được phép làm trọng tài viên bao gồm: người đang là thẩm
phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, công chức thuộc tòa án
nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án;
người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp
hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích:
2. Những người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây không được làm
Trọng tài viên:
a) Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp
hành viên, cơng chức thuộc Tồ án nhân dân, Viện kiểm sát nhân

dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án;
b) Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự
hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích.
21


×