Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Các hình thức sở hữu và vai trò của chúng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 170 trang )

1

..

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
____________________

..

NGUYỄN THỊ HUYỀN

CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU VÀ VAI TRÕ CỦA
CHÖNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 80 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học1: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà
Người hướng dẫn khoa học 2: TS. Nguyễn Văn Thức

Hà Nội - 2013


2

LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, bảo đảm tính khách
quan, khoa học, dựa trên kết quả khảo sát thực tế và các tài liệu đã
công bố.

Hà Nội ngày 15 tháng 8 năm 2013
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Huyền


3

MỤC LỤC
Trang
MỞĐẦU

5

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Lý luận về sở hữu và hình thức sở hữu

9

1.2. Vai trị của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa

21


1.3. Những giải pháp cho vấn đề sở hữu

35

Chương 2: SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Sở hữu và hình thức sở hữu

40

2.2. Sự vận động biến đổi của các hình thức sở hữu trong lịch sử

46

2.3. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về sở hữu và việc vận
dụng quan điểm đó ở Việt Nam

50

2.4. Mối liên hệ và sự phối hợp giữa các hình thức sở hữu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

69

Chương 3: VAI TRÕ CỦA CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng vai trị của các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay


81

3.2. Những vấn đề đặt ra đối với vai trị của các hình thức sở hữu ở Việt
Nam hiện nay

109

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÕ
CỦA CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm

124


4

4.2. Những giải pháp nhằm phát huy vai trò của các hình thức sở hữu ở
Việt Nam hiện nay

128

KẾT LUẬN

144

DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ


148

TÀI LIỆU THAM KHẢO

149


5

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
diễn ra khi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đã trải qua 25 năm và đạt
được những thành tựu rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng. “Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên
nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng.
Chính trị - xã hội ổn định; quốc phịng, an ninh được giữ vững. Cơng tác
đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần
tạo mơi trường hịa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất
nước. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta
vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân” [51, tr.92].
Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong đó có đóng góp quan
trọng của việc đổi mới nhận thức và áp dụng một cách sáng tạo vấn đề sở
hữu của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây sự biến động của nền kinh tế thế
giới, nhất là sự khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế tồn cầu, đã tác

động khơng nhỏ đến Việt Nam; đã làm lộ ra những khó khăn, những bất
cập trong cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý của chúng ta. Hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách về vấn đề sở hữu chưa đồng bộ và thống nhất.
Những bất cập trong quản lý, phân phối chưa được giải quyết tốt. Cịn có
sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Các loại thị trường hình
thành và phát triển cịn chậm, vận hành chưa thơng suốt. Sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các chủ sở hữu, tình trạng trốn lậu thuế, gian lận


6

thương mại cịn nhiều. Cải cách hành chính cịn chậm. Tham nhũng, lãng
phí cịn nghiêm trọng. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa. Hệ thống an
sinh xã hội chưa phát triển. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững; chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn chậm.
Một trong những ngun nhân dẫn đến những yếu kém trên là do vai
trị của các hình thức sở hữu chưa được phát huy đầy đủ. Để tạo điều kiện
cho lực lượng sản xuất ở nước ta tiếp tục phát triển thì cần phải tiếp tục
hồn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng
muốn vậy thì chúng ta phải hiểu rõ vai trị của từng hình thức sở hữu, đồng
thời phải giải quyết tốt vấn đề sở hữu. Chính vì lý do đó mà tơi chọn
nghiên cứu đề tài “Các hình thức sở hữu và vai trò của chúng trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích: Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về các hình thức sở hữu, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm phát
huy vai trị của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận án giải quyết những

nhiệm vụ chính sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về sở hữu trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phân tích thực trạng của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay; những vấn đề
đặt ra đối với vai trò của các hình thức sở hữu đó.


7

- Đưa ra quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trị của các hình
thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trị của các hình thức sở
hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của luận án: Giai đoạn phát triển kinh tế của
Việt Nam trong khoảng 15 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận là những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề sở hữu.
4.2. Cơ sở thực tiễn:
Luận án được thực hiện dựa trên sự kế thừa những thành tựu của các
nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn đề sở hữu và thực tiễn quá trình xây
dựng chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là: phân

tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, logic-lịch sử, khái quát hóa, trừu tượng
hóa, và các phương pháp chung của khoa học xã hội.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Góp phần hệ thống hóa lý luận về sở hữu, sở hữu tư liệu sản xuất
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Làm rõ thêm thực trạng của các hình thức sở hữu cơ bản trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.


8

- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trị của các hình thức sở
hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án cung cấp thêm tri thức về vấn đề sở hữu và vai trị của các
hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
- Nội dung nghiên cứu và những kết quả đạt được của luận án có thể
làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu vấn đề sở hữu ở
Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được trình bày thành 4 chương và 10 tiết.


9

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Lý luận về sở hữu và hình thức sở hữu

Sở hữu là một vấn đề phức tạp, có tính chất liên ngành; vì vậy, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu ở những góc độ khác nhau.
1.1.1. Khái niệm sở hữu
Các cơng trình nghiên cứu khi bàn đến khái niệm sở hữu thường tập
trung vào việc làm rõ một số vấn đề cơ bản như: Trước đây khái niệm sở
hữu có được sử dụng hay khơng? Nếu có thì nó được sử dụng với nghĩa
như thế nào và có thống nhất hay khơng? Sở hữu là phạm trù lịch sử hay
phạm trù vĩnh viễn? Khái niệm sở hữu theo quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen như thế nào?
Theo tác giả Trần Ngọc Linh, khái niệm sở hữu đã trải qua một quá
trình lịch sử phát triển lâu đời. Trong suốt nhiều thế kỷ trước, khái niệm
“sở hữu” hoặc là tuyệt nhiên không được sử dụng, hoặc đã được dùng với
những nghĩa khác xa nghĩa ngày nay. Chẳng hạn, khi nói về tài sản, của
cải, Aristốt có nói tới chiếm giữ chúng, chứ không phải sở hữu. Khái niệm
sở hữu đã xuất hiện vào thế kỷ XVII. Trong thời kỳ mà tư tưởng quyền tự
nhiên được phổ biến rộng rãi. Xung quanh quan niệm về sở hữu đã có hai
khuynh hướng tư tưởng; đó là khuynh hướng tư tưởng của các nhà triết học
Locke, Smith và khuynh hướng tư tưởng của các nhà luật học Savigny,
Rútxô. C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiếp thu một cách có chọn lọc những quan
điểm nêu trên về sở hữu và đưa ra những quan điểm khoa học về sở hữu
dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy vật. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sở
hữu là một quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể; vì thế, để nghiên cứu
khái niệm sở hữu thì cần phân tích nền sản xuất xã hội. Cơ sở của sở hữu là
mối quan hệ qua lại của con người đối với tư liệu sản xuất. Sở hữu là quan
hệ đối với những điều kiện của sản xuất. Sở hữu ln có hai nội dung kinh


10

tế và pháp lý. Nội dung kinh tế của sở hữu trước hết thể hiện ở chỗ, nó là

cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Nói đến sở hữu là nói đến những điều kiện
của sản xuất. Mặt khác, nội dung kinh tế của sở hữu còn thể hiện ở mặt lợi
ích kinh tế, mặt quyền lợi vật chất (sở hữu đã đem lại lợi ích kinh tế như
thế nào cho chủ sở hữu). Đây là nội dung cơ bản nhất, có tính chất quyết
định. Nội dung pháp lý của sở hữu thể hiện ở chỗ, pháp luật quy định bảo
vệ đối với chủ thể sở hữu như thế nào. Hai nội dung trên của sở hữu có
quan hệ biện chứng với nhau [109].
Khi đề cập đến khái niệm sở hữu, nhìn chung các tác giả đều thống
nhất cho rằng, sở hữu là mối quan hệ giữa người với người trong chiếm
hữu của cải vật chất, là biểu hiện về mặt xã hội của chiếm hữu; sở hữu
thường gắn với chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu và quyền sở hữu. Quyền
sở hữu là một phạm trù tích tụ trong nó nhiều quyền, nhưng tựu trung lại có
ba quyền cơ bản là chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Trong đề tài Luận án
tiến sỹ triết học “Xu hướng và đặc điểm của q trình đa dạng hóa các
hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” tác giả Vũ
Hồng Sơn cho rằng, sở hữu theo nghĩa chung nhất là mối quan hệ giữa
người với người trong chiếm hữu của cải vật chất. Sở hữu là biểu hiện về
mặt xã hội của chiếm hữu. Nó là phạm trù lịch sử, là quan hệ xã hội nhất
định. Quan hệ này thay đổi tùy theo sự thay đổi của những điều kiện kinh
tế - xã hội trong đời sống xã hội. Chủ thể sở hữu (người sở hữu) có khả
năng và quyền chiếm hữu đối tượng sở hữu. Đối tượng sở hữu là phía thụ
động của quan hệ sở hữu. Đó có thể là những đồ vật, năng lượng, thơng tin,
của cải, trí tuệ. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của xã hội hóa
sản xuất, của kinh tế hàng hóa, quyền sử dụng có thể tách khỏi quyền sở
hữu [167].
Nhiều tác giả cho rằng, muốn giải quyết những vấn đề cụ thể trong
thực tiễn đời sống xã hội thì khơng thể không giải quyết những vấn đề lý


11


luận – phương pháp luận về sở hữu, bắt đầu từ việc định nghĩa khái niệm
sở hữu. Trong một vài năm gần đây, nhiều người đã tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận về sở hữu; luận giải về sự đa dạng hóa các hình thức
sở hữu xã hội chủ nghĩa, tính chất đan xen và tác động qua lại lẫn nhau của
chúng. Trong cuốn Về vấn đề sở hữu do Nguyễn Thị Luyến chủ biên, tác
giả chỉ ra rằng, vấn đề sở hữu rất phức tạp và đang cịn nhiều ý kiến rất
khác nhau. Trong cơng cuộc cải cách kinh tế ở Liên Xô, Trung Quốc và các
nước Đông Âu, người ta bàn rất nhiều về vấn đề sở hữu. Thực tiễn của các
nước nói trên đã chỉ ra rằng, nếu không nghiên cứu, giải quyết một cách
đúng đắn, triệt để vấn đề sở hữu thì khó có thể đưa nền kinh tế vượt qua
tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Đã có khơng ít lời phê phán nhận thức cũ,
những quan niệm cũ đem quy giản các quan hệ sở hữu trong chủ nghĩa xã
hội chỉ về hai hình thức sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể, trong đó các chủ
thể sở hữu hết sức trừu tượng, chung chung.
Cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu thừa nhận sự tồn tại đa dạng
các hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, khi đi vào giải
quyết những vấn đề cụ thể, người ta thấy không thể tiến bước được nếu
không giải quyết những vấn đề lý luận – phương pháp luận về sở hữu. Đó
thật sự là những vấn đề phức tạp đang nổi lên trong quá trình chuyển sang
kinh tế thị trường [129]. Trong bài “Những quan điểm khoa học cốt lõi của
chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu và việc vận dụng vào quá trình xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” tác giả Đỗ Thế Tùng cho rằng, sở hữu là
quan hệ xã hội nên ít nhất phải có hai người trở lên có liên quan tới một đối
tượng nhất định mới đặt ra vấn đề sở hữu; nếu đơn độc như Robinsơn trên
hoang đảo thì chỉ có chiếm hữu và sử dụng, chứ khơng cần nói tới sở hữu;
sở hữu xác định một vật là của ai, do ai chi phối.
Quan hệ sở hữu khi được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật
thì được gọi là chế độ sở hữu. Khi chủ sở hữu tư liệu sản xuất là một cộng



12

đồng thì sở hữu được gọi là sở hữu cơng cộng (công hữu); khi chủ sở hữu
tư liệu sản xuất là một người hay một vài người thì đó là sở hữu tư nhân (tư
hữu); khi chủ sở hữu đan xen, gồm cả cơng hữu và tư hữu thì đó là sở hữu
hỗn hợp. Còn sở hữu tư liệu tiêu dùng là sở hữu cá nhân. Thông thường ở
mỗi nước cùng tồn tại cả ba loại hình: cơng hữu, tư hữu và sở hữu hỗn hợp.
Nếu sở hữu tư nhân chiếm vị trí thống trị thì đó là chế độ tư hữu, nếu sở
hữu công cộng giữ địa vị thống trị thì đó là chế độ cơng hữu [194].
Có tác giả cho rằng, chế độ sở hữu là vấn đề căn bản nhất của chế độ
kinh tế - xã hội, bởi vì chỉ trên cơ sở giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu
mới có căn cứ để giải quyết các vấn đề động lực, lợi ích kinh tế, chính trị,
pháp quyền và xã hội. Ví dụ, trong bài “Một số nhận thức cơ bản về sở hữu
và nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam” tác giả Phạm Quang Phan
cho rằng, sở hữu là một phạm trù xuất phát và cơ bản của kinh tế học; sở
hữu phản ánh quan hệ giữa con người với con người trong việc chiếm hữu
tư liệu sản xuất và của cải được tạo ra nhờ tư liệu sản xuất ấy. Các nhà lý
luận tư sản coi sở hữu tư liệu sản xuất chỉ là quan hệ giữa người với vật
(của ai ?). Ngược lại, quan điểm mác-xít lại coi sở hữu về tư liệu sản xuất
là quan hệ giữa người với người, giữa các giai cấp với nhau (ai với ai?);
quan hệ này thay đổi theo sự thay đổi của những điều kiện kinh tế - xã hội.
Sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trị chủ yếu trong việc chiếm hữu của
cải vật chất, nó quyết định tính chất của chế độ xã hội. Phạm trù sở hữu khi
được luật hóa thì trở thành quyền sở hữu và khi được thực hiện qua một cơ
chế nhất định thì gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là vấn đề căn bản
nhất của chế độ kinh tế - xã hội [100].
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy, khi nghiên
cứu các vấn đề cụ thể thì cần bắt đầu từ việc giải quyết những vấn đề lý
luận xung quanh khái niệm sở hữu.



13

1.1.2. Vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất
Khi nói về vai trị của sở hữu tư liệu sản xuất, các tác giả đều coi sở
hữu là một trong ba bộ phận hợp thành quan hệ sản xuất, là yếu tố quan
trọng nhất quyết định các yếu tố còn lại. Trong cuốn sách “Nhìn lại quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005”, tác giả Nguyễn Đình
Kháng chỉ ra rằng, trong ba mặt của quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm) thì
quan hệ sở hữu là mặt chủ yếu nhất. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
nắm giữ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp đó nắm
quyền thống trị xã hội về mặt kinh tế và do đó, thống trị về chính trị, tư
tưởng. Quan hệ sản xuất là bộ phận hạ tầng cơ sở trên đó có các quan hệ
thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội. Trong toàn bộ hệ thống quan hệ xã hội
nói chung thì quan hệ sản xuất (mà hạt nhân của nó là quan hệ sở hữu) có
tính quyết định đối với thượng tầng kiến trúc. Tuy nhiên, đây là quan hệ
biện chứng; bởi vì, hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc (nhà
nước, chính trị, tư tưởng, văn hóa…); mặt khác, thượng tầng kiến trúc
khơng hồn tồn thụ động mà có tác động tích cực hoặc tiêu cực trở lại với
cơ sở hạ tầng. Quan hệ sở hữu quyết định tính chất của các quy luật kinh tế,
quyết định tính chất vận động của phương thức sản xuất và do đó, cũng
quyết định tính chất của chế độ xã hội. Khi sở hữu phù hợp với sự phát
triển lực lượng sản xuất thì khơng lực lượng xã hội nào cản trở được nó;
ngược lại, khi nó khơng phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất
thì cũng khơng có một lực lượng xã hội nào kìm giữ mãi sự lụi tàn của sở
hữu đã lỗi thời. Sở hữu giữ vị trí trung tâm trong hệ thống kinh tế của bất
cứ giai đoạn phát triển lịch sử nào. Sở hữu quyết định phương thức phân
phối sản phẩm. Qua phương thức phân phối mà hình thành các lợi ích kinh

tế của những con người, những giai cấp, chủ sở hữu tham gia guồng máy


14

sản xuất xã hội. Như vậy, sở hữu về mặt kinh tế cuối cùng cũng được thực
hiện thông qua lợi ích [159].
Theo tác giả Hồ Tấn Phong, quan hệ sở hữu trong xã hội như thế nào
thì kết cấu giai cấp, bản chất chính trị của xã hội sẽ như vậy. Sở hữu là một
vấn đề kinh tế chính trị, phải có quan điểm chính trị khi bàn về vấn đề sở
hữu chứ không chỉ thuần túy kinh tế khi xem xét vấn đề này. Bàn đến vấn
đề sở hữu là bàn đến vấn đề cốt lõi của một chế độ kinh tế - xã hội [148].
Trong đề tài “Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn
đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm đó đối
với q trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta thời kỳ đổ
mới” các tác giả cho rằng, trong sự vận động và phát triển của xã hội loài
người, sở hữu có vị trí và vai trị vơ cùng quan trọng, nó chi phối cơ bản
các yếu tố khác của đời sống xã hội, nhưng đồng thời cũng luôn luôn vận
động, biến đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất cả về trình độ, tính
chất và quy mơ. Chế độ sở hữu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các yếu
tố khác trong cấu trúc xã hội, cuối cùng nó sẽ làm thay đổi hình thái kinh tế
- xã hội hiện tồn bằng hình thái kinh tế - xã hội mới phù hợp với chế độ sở
hữu mới. Tuy tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau trong một hình thái
kinh tế - xã hội nhưng trong đó bao giờ cũng có một hình thức sở hữu đặc
trưng [109].
Theo tác giả Trương Gia Long, sở hữu và các thành phần kinh tế có
vị trí đặc biệt trong kết cấu kinh tế của mọi nền kinh tế. Tùy thuộc vào cơ
cấu sở hữu phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất
mà vai trò của sở hữu phát huy tác dụng hay không. Ở Việt Nam, trước
năm 1986, sở hữu đặc trưng là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trên cơ

sở của chế độ sở hữu này, cơ chế kinh tế của nước ta là cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, cơ chế đó đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Tuy nhiên, ưu điểm của ngày hôm qua, kéo dài mãi sang tận hôm


15

nay, bất chấp thực tế đã trở thành khuyết điểm; vì vậy, cần giải phóng
mạnh mẽ lực lượng sản xuất thơng qua việc duy trì và thừa nhận sự tồn tại
khách quan của nhiều loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là một tất
yếu.
Khi bàn đến vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất, hầu hết các tác giả
đều cho rằng, sở hữu có vai trị rất quan trọng, giai cấp nào nắm quyền sở
hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì sẽ nắm quyền thống trị xã hội về
mặt kinh tế và do đó, thống trị về chính trị, tư tưởng. Khi sở hữu phù hợp
với sự phát triển lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại, khi không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất
thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở hữu giữ vị trí
trung tâm trong hệ thống lý luận kinh tế của bất cứ giai đoạn phát triển lịch
sử nào; nó chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội. Chế độ sở hữu
thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các yếu tố khác trong cấu trúc xã hội,
cuối cùng sẽ làm thay đổi hình thái kinh tến- xã hội hiện tồn bằng hình thái
kinh tế - xã hội mới phù hợp với chế độ sở hữu mới với đặc trưng của nó
[111].
1.1.3. Quyền sở hữu
Hầu hết các tác giả đều cho rằng, quan hệ sở hữu một khi được luật
pháp hóa thì trở thành quyền sở hữu, bao gồm rất nhiều quyền. Cần phân
biệt sở hữu và quyền sở hữu, sở hữu trên danh nghĩa và sở hữu thực tế.
Chẳng hạn, trong cuốn sách “Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam”,
tác giả Nguyễn Văn Thức cho rằng, quan hệ sở hữu một khi được pháp luật

hóa, tức là được pháp luật quy định, giới hạn, thừa nhận tính hợp pháp
chính đáng của nó thì trở thành quyền sở hữu. Trên thực tế, quyền sở hữu
đối với một đối tượng sở hữu cụ thể nào đó được biểu hiện ở các quyền
sau: Quyền sử dụng; quyền hưởng thụ; quyền chuyển nhượng (cho thuê
hoặc bán); quyền thế chấp; quyền cho thừa kế; quyền thay đổi, mở mang


16

hay thu hẹp đối tượng sở hữu; quyền hiến tặng; quyền phá hủy, thủ tiêu đối
tượng sở hữu theo luật định. Theo quan niệm truyền thống, mọi chủ thể
được thừa nhận là chủ sở hữu, có quyền sở hữu đối với một đối tượng sở
hữu cụ thể nào đó, khi chủ thể có đầy đủ các quyền trên. Sở hữu trong xã
hội hiện đại đang vận động theo hướng ngày càng tích tụ nhiều quyền trong
một tổ hợp quyền sở hữu. Như vậy, về mặt pháp lý cũng như về kinh tế, tổ
hợp ấy có thể được chia tách ra thành từng bộ phận. Đây là một đặc điểm
rất đáng lưu ý của sở hữu. Chính từ đây xuất hiện một quan niệm mới về
đồng sở hữu [180]. Trong cuốn sách “Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng 1986-2005”, tác giả Nguyễn Đình Kháng chỉ ra rằng, trong
hệ thống các tập hợp của chế độ sở hữu có hai nhóm quyền: Quyền sở hữu
và quyền quản lý - kinh doanh (quyền sử dụng). Cần hiểu đúng thực chất
quyền sở hữu. Khoa học tư sản coi sở hữu và quyền sở hữu là một, chúng
đều là quan hệ ý chí của người đối với vật; sở hữu là quan hệ ý chí của một
người đối với vật cịn quyền sở hữu là quan hệ ý chí của những con người
trong xã hội đối với vật. Đó là quan điểm xã hội học chủ quan duy tâm, coi
quan hệ kinh tế giữa người và người như là quan hệ pháp quyền, tức quan
hệ ý chí, mà quan hệ ý chí là đẻ ra từ quan hệ kinh tế. Chủ nghĩa Mác quan
niệm sở hữu là quan hệ kinh tế, là cơ sở của các quan hệ sản xuất xã hội,
còn quyền sở hữu là sự phản ánh những quan hệ đó trong pháp luật; quan
hệ pháp luật này điều tiết quan hệ ý chí của những con người xã hội; quy

định mẫu mực cư xử của họ trong quan hệ tài sản, trong chiếm hữu của cải
vật chất. Như vậy, quyền, đến lượt nó, được quy thành pháp luật. Sự lẫn
lộn giữa khái niệm sở hữu và quyền sở hữu dẫn đến ảo tưởng quy quyền lợi
thực tế thành ý chí thuần túy, một người nào đó có quyền sở hữu trên danh
nghĩa, nhưng không sở hữu thực tế. Trong xã hội tư bản, về mặt pháp luật,
mọi người đều có quyền sở hữu ngang nhau; pháp luật tư sản coi quyền tư
hữu là thiêng liêng, tôn trọng quyền tư hữu của nhà tư bản giàu nhất cũng


17

như quyền tư hữu của người công nhân thất nghiệp. Trên thực tế, chỉ nhà tư
bản mới có quyền sở hữu và sở hữu, cịn người cơng nhân tuy có quyền sở
hữu nhưng lại khơng có sở hữu thực tế. Cho nên, sở hữu và quyền sở hữu là
khác nhau. Quyền sở hữu trong mỗi thời đại phù hợp với hình thái sở hữu
chiếm vị trí thống trị, nhưng nó biểu hiện quan hệ ý chí chứ khơng phải
biểu hiện quan hệ kinh tế.
Phân biệt rõ khái niệm sở hữu và quyền sở hữu, sở hữu trên danh
nghĩa và sở hữu thực tế giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của vấn đề, tránh
được sự mập mờ không rõ ràng của các nhà tư bản nhằm đánh tráo khái
niệm để xoa dịu mâu thuẫn giai cấp trong xã hội [159].
1.1.4. Chủ thể sở hữu và đối tượng sở hữu
Khi nghiên cứu những vấn đề lý luận xung quanh khái niệm sở hữu,
các tác giả thường tìm hiểu các khái niệm kèm theo, như chủ thể sở hữu,
đối tượng sở hữu. Theo tác giả Nguyễn Văn Thức trình bày trong cuốn “Sở
hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam”, chủ thể sở hữu là người sở hữu, là
phía tích cực, chủ động của các quan hệ sở hữu; chủ thể sở hữu bao giờ
cũng biểu hiện thành những con người cụ thể; cịn đối tượng sở hữu là phía
thụ động của các quan hệ sở hữu, dưới dạng những vật tự nhiên, đồ vật,
thông tin [180].

Trong bài Nhận thức về sở hữu và thực hiện xã hội hóa sở hữu tư
liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tác giả
Trần Văn Ngọc cho rằng, khi chuyển sang cơ chế mới, đối tượng sở hữu
được quan tâm là các hàng hóa (hữu hình, vơ hình), các dịch vụ. Các hàng
hóa thơng thường là tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng do lao động tạo ra
và nhiều loại hàng hóa đặc biệt khác như đất đai, tài nguyên tự nhiên, tiền
tệ, sức lao động. Hàng hóa được coi trọng cả hình thái giá trị sử dụng và
hình thái giá trị. Đối tượng sở hữu dưới hình thái giá trị có hai loại. Một
loại là giá trị thực gắn liền với các vật, như tiền, giá trị tư liệu sản xuất, giá


18

trị sức lao động, giá trị hàng hóa. Một loại là giá trị ảo – giá trị được ghi
chép lại phản ánh giá trị thực. Đó là loại giá trị được ghi trên cổ phiếu, trái
phiếu và các giấy tờ có giá trị khác, có tên gọi chung là chứng khốn.
Chứng khốn là một đối tượng sở hữu, vì nó là giấy chứng nhận quyền sở
hữu và quyền được nhận thu nhập từ giá trị thực của tài sản đưa vào kinh
doanh [100].
Theo tác giả Lương Minh Cừ, đối tượng sở hữu là thụ động; việc nó
thuộc về ai là do mối quan hệ giữa con người với con người quy định.
C.Mác cho rằng, dựa vào quyền uy riêng của mình, con người biến sở hữu
về danh nghĩa của họ thành quyền tư hữu; khi vấp phải sự chống đối của
những người dân thường trong thị tộc thì họ quyết định dùng bạo lực công
khai đuổi người ấy ra khỏi đất đai của họ [30].
Như vậy, theo quan điểm của các tác giả đã nêu ở trên thì chủ sở hữu
là người, là phía tích cực chủ động, cịn đối tượng sở hữu là phía bị động
thường được biểu hiện dưới dạng những vật tự nhiên. Cùng với sự phát
triển của kinh tế - xã hội, đối tượng sở hữu cũng thay đổi rất nhiều so với
trước kia. Chủ sở hữu có thể sử dụng uy quyền riêng để thực hiện bảo vệ

những lợi ích của bản thân họ.
1.1.5. Hình thức sở hữu
Cho đến nay, việc phân biệt giữa hình thức sở hữu với quan hệ sở
hữu; giữa hình thức sở hữu với chế độ sở hữu vẫn là vấn đề được nhiều học
giả quan tâm và đưa ra các quan điểm khác nhau. Theo tác giả Phạm Văn
Sinh, hình thức sở hữu là khái niệm cụ thể hơn so với quan hệ sở hữu, nó
ám chỉ rõ ràng hơn mối quan hệ giữa chủ thể sở hữu và đối tượng sở hữu.
Ví dụ, đó là hình thức sở hữu bộ lạc, hình thức sở hữu tư nhân cá thể. Sự
phân biệt giữa quan hệ sở hữu với hình thức sở hữu rất nhỏ, nên nhiều khi
có sự đồng nhất hai khái niệm này [165]. Tác giả Nguyễn Thành Trì (trong
bài “Chế độ sở hữu, hình thức sở hữu, quyền chiếm hữu, sử dụng, định


19

đoạt và chế độ sử dụng, phân phối nguồn lợi tài sản quốc gia trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”) cho rằng, hiện
nay chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ chế độ sở hữu và
hình thức sở hữu. Hiểu thật đúng nội hàm các quyền của chủ sở hữu là cơ
sở để giải quyết những vấn đề lớn đang đặt ra hiện nay, như quản lý tài sản,
sử dụng, phân phối nguồn lợi từ tài sản, chính sách phúc lợi xã hội như thế
nào cho công bằng và hợp lý. Tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị rằng:
cần xác định thống nhất chế độ sở hữu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là chế độ cơng hữu và tư hữu với hình thức sở hữu nhà
nước và sở hữu tư nhân, trong đó hình thức sở hữu nhà nước là nền tảng;
cần tăng cường vai trò, năng lực quản lý của Nhà nước; cần phải bổ sung,
điều chỉnh đồng bộ nhằm lấp khe hở, chống thất thoát tài sản quốc gia; cần
tăng cường vai trị giám sát kiểm sốt, kiểm tra của hệ thống các cơ quan
lập pháp [188]. Trong cuốn “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do Nguyễn Kế Tuấn chủ biên,

các tác giả cho rằng, chế độ sở hữu và hình thức sở hữu đều là những khái
niệm luật pháp. Chế độ sở hữu là khái niệm mang tính tổng qt, nó chỉ sở
hữu ở khía cạnh bản chất nhất. Cịn hình thức sở hữu là khái niệm chỉ sở
hữu ở khía cạnh cụ thể, là những biểu hiện cụ thể của sở hữu trong đời
sống hàng ngày. Một chế độ sở hữu có thể có nhiều hình thức sở hữu. Nếu
chế độ sở hữu được coi như một phạm trù ổn định tương đối thì hình thức
sở hữu lại được coi là một phạm trù lịch sử, có tính biến đổi theo điều kiện
lịch sử cụ thể. Ở chế độ xã hội nào, trong giai đoạn phát triển nào cũng có
những chế độ sở hữu nhất định, nhưng những hình thức biểu hiện cụ thể
của mỗi chế độ sở hữu lại có thể có sự thay đổi và chuyển hóa.
Trong q trình thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình, nhà
nước khơng phải chỉ xác định rõ ràng các chế độ sở hữu và các hình thức
biểu hiện của các chế độ sở hữu ấy, các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu,


20

mà cịn phải xác định đặc trưng, vị trí của mỗi hình thức sở hữu, mối quan
hệ tương hỗ giữa các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức kinh tế để chủ
sở hữu thực thi quyền và trách nhiệm của mình, từ đó có các chính sách
thích hợp huy động được các nguồn lực cho phát triển toàn bộ xã hội [192].
Một số tác giả cho rằng, mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một hình
thức sở hữu đặc trưng bên cạnh một số hình thức sở hữu khác, từ đó họ
khẳng định rằng, việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong điều kiện
Việt Nam hiện nay là hoàn toàn đúng đắn. Chẳng hạn, theo tác giả Vũ
Hồng Sơn, sở hữu có tính ổn định đương đối, nhưng nó ln ln biến đổi
một cách khách quan theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trình độ
của lực lượng sản xuất là thước đo trình độ văn minh của nhân loại. Xét
đến cùng, những biến đổi của lực lượng sản xuất làm cho loài người lần
lượt trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Trong hình thái kinh tế - xã hội

cộng sản nguyên thủy, hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc, tiếp theo
là sở hữu công xã về ruộng đất, sau đó đến sở hữu cá thể, gia đình. Hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nơ lệ có sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước
bên cạnh sở hữu cơng xã. Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến ngồi sở
hữu cơng xã cịn có sở hữu nhỏ của người nơng dân; sở hữu ruộng đất ở
nông thôn, sở hữu phường hội. Trong xã hội tư bản, sở hữu công xã ruộng
đất tiếp tục tồn tại, bên cạnh có sở hữu cổ phần, sở hữu tư bản nhà nước, sở
hữu hợp tác xã, nhưng đặc trưng cơ bản vẫn là sở hữu tư nhân. Qua nghiên
cứu sự biến đổi của các hình thức sở hữu trong lịch sử lồi người, tác giả có
nhận xét rằng, sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu là xu hướng
chung của tất cả các hình thái kinh tế - xã hội phù hợp với sự phát triển của
phân công lao động xã hội. Đây là một cơ sở thực tiễn khách quan góp
phần khẳng định tính đúng đắn của q trình đa dạng hóa các hình thức sở
hữu ở nước ta hiện nay [167].


21

1.2. Vai trị của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Tính tất yếu của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong
thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Trong bài “Sự tồn tại đan xen các hình thức sở hữu – một tất yếu lịch
sử, một yêu cầu bức thiết trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” đăng trong cuốn “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở
Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI” tác giả Đặng
Hữu Toàn cho rằng, tính chất hỗn hợp, đan xen giữa các hình thức và quan
hệ sở hữu là tất yếu. Các lý do tác giả đưa ra là: thứ nhất, chúng ta phải trải
qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội có tính chất q độ. Thứ hai, trong điều kiện lực lượng sản

xuất chưa có sự phát triển đồng bộ thì phải đa dạng hóa hình thức sở hữu
để tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thứ ba, việc sử dụng
nhiều trình độ, nhiều hình thức kinh tế với nhiều cấp độ khác nhau là cần
thiết nhằm khai thác triệt để mọi năng lực sản xuất cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước [73].
Cũng bàn về vấn đề này, tác giả Trương Gia Long cho rằng, việc đa
dạng hóa sở hữu và các thành phần kinh tế góp phần vào việc phát triển sản
xuất; giải quyết các vấn đề xã hội, làm lành mạnh hóa xã hội; giúp sử dụng
và khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, bảo đảm tăng
trưởng kinh tế. Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế cùng tồn tại,
phát triển tạo ra mơi trường cạnh tranh mạnh mẽ góp phần nâng cao năng
suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Muốn phát huy được
những vai trị đó thì cần phải thường xun đổi mới cơ chế, chính sách và
pháp luật; khuyến khích mở rộng, thu hút đầu tư nước ngồi; khuyến khích
phát triển kinh tế tư nhân; hội nhập cùng dòng chảy chung của nền văn


22

minh nhân loại [111]. Cịn theo tác giả Đồn Quang Thọ, quan hệ sở hữu
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải kết
hợp chặt chẽ giữa hai mặt: Một mặt, phải đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, đó là một trong những điều kiện tất yếu của kinh tế thị trường; mặt
khác, phải khơng ngừng củng cố và hồn thiện sở hữu tồn dân và sở hữu
tập thể. Đó là yếu tố quyết định đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa về
mặt kinh tế. Việc kết hợp hai mặt đó là nét đặc thù của quan hệ sở hữu
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có
tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta [100].
Như vậy, sự tất yếu phải đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm khai thác có hiệu quả mọi nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế được các tác giả chứng minh theo những cách
khác nhau.
Tác giả Lưu Văn Sùng cho rằng, để xác định một mơ hình xã hội thì
vấn đề cơ bản cần phải xác định là chế độ kinh tế và chế độ chính trị. Trong
chế độ kinh tế thì quan trọng nhất là chế độ sở hữu, còn trong chế độ chính
trị thì quan trọng nhất là thể chế nhà nước. Hai mặt này có quan hệ mật
thiết với nhau. Có ba căn cứ để xác định đặc trưng quan hệ sở hữu trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ nhất, cần nghiên
cứu những di sản lý luận để có căn cứ xem xét vấn đề sở hữu, song phải đặt
nó trên cơ sở thực tiễn của xã hội đương đại. Xã hội hóa sản xuất tất yếu
dẫn đến sự ra đời sở hữu cơng cộng, hay tất yếu dẫn đến đa dạng hóa sở
hữu? Sự khôi phục sở hữu cá nhân dưới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản được C.Mác nêu ra trong bộ Tư bản, cần hiểu như thế nào?
Những xí nghiệp mà cơng nhân có sở hữu và tham gia quản lý là lỗ thủng
của chủ nghĩa tư bản; luận điểm đó của C.Mác cần được thể hiện như thế


23

nào trong điều kiện ngày nay? Trong điều kiện hiện nay sở hữu giữ vai trò
quyết định hay quản lý giữ vai trò quyết định? Sở hữu trong nền kinh tế tri
thức là gì? Đó là những vấn đề cần phải làm rõ. Thứ hai, cũng cần nghiên
cứu xu hướng đa dạng hóa sở hữu của thế giới hiện nay. Song, ở mỗi nước
hoặc một số nước lại có cơ cấu sở hữu và kết hợp các loại hình sở hữu khác
nhau. Cần nghiên cứu phân tích một số loại hình tiêu biểu để thấy rõ vị trí
các loại hình sở hữu và kết hợp tối ưu các loại hình sở hữu trong nền kinh
tế thị trýờng. Thứ ba, cần nghiên cứu những kinh nghiệm giải quyết vấn đề
sở hữu trong hơn hai mươi năm cải cách, mở cửa của Trung Quốc. Công
cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam

rất giống nhau. Từ thực tiễn của Trung Quốc chúng ta có thể rút ra được
những bài học kinh nghiệm cho mình. Thứ tư, cần phân tích sự thay đổi sở
hữu ở nước ta trong quá trình đổi mới [100].
Tác giả Phạm Văn Đức (trong bài “Đổi mới về sở hữu ở Việt Nam:
Một số cơ sở lý luận” đã điểm qua một số đổi mới quan trọng trong lĩnh
vực sở hữu từ Đại hội III đến Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo tác giả, thứ nhất, cơ sở lý luận để dẫn tới sự thay đổi quan niệm về sở
hữu là sự đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội và quan niệm về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, cơ sở của sự đổi mới quan niệm về sở
hữu là sự thay đổi từ quan niệm coi sở hữu chủ yếu là mục đích sang quan
niệm coi sở hữu vừa là mục đích vừa là phương tiện. Tác giả khẳng định
rằng, việc thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần với các loại hình sở
hữu khác nhau là chiến lược lâu dài và tối ưu để làm cho nền kinh tế trở
nên năng động, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân
dân lao động đó là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu
quả của việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa
[73].


24

Trong cuốn “Sở hữu và cây đời”, tác giả Trần Đức đã trình bày
những nghiên cứu về sở hữu ở Liên Xơ, cải cách ở Trung Quốc; cổ phần
hóa tồn dân ở Triều Tiên; sở hữu tập thể ở Mỹ. Theo tác giả, trong lịch sử,
sở hữu luôn thay đổi, quyền sở hữu cũng luôn tiến triển. Chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất được thiết lập, được coi như là mục tiêu tự thân. Người
ta tin tưởng một cách tuyệt đối rằng chủ nghĩa xã hội phát triển tỉ lệ thuận
với chế độ công hữu, diện công hữu hóa càng rộng thì chủ nghĩa xã hội
càng nhiều. Chúng ta cứ nghĩ rằng sở hữu là nội dung; thực ra nó là hình
thức của hoạt động kinh tế, tuy đó là cốt lõi để phân biệt quốc doanh và các

thành phần kinh tế khác. Sở hữu tự nó khơng đạt tới mục tiêu được theo
đuổi trong khn khổ đó. Mỗi hình thức sở hữu có một tác dụng nhất định
trong một thời điểm nhất định, không thể tuyệt đối hóa một loại sở hữu
nào, một thành phần kinh tế nào. Các thành phần kinh tế được tự do phát
triển, không ưu tiên cho thành phần này để gây tổn hại cho thành phần
khác. Trong điều kiện nước ta, kinh tế quốc doanh cần giữ vai trị chủ đạo.
Có nghĩa là kinh tế quốc doanh chỉ nắm lấy những ngành then chốt có lợi
cho quốc kế dân sinh tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển.
Song, cần sớm loại bỏ những đặc quyền đặc lợi mà trước đây chúng ta đã
dành cho quốc doanh (từ thuế má, giá cả tín dụng, trợ cấp, địa vị của người
quản lý…), bắt buộc các cơ sở quốc doanh phải ra sức phấn đấu nhằm hạ
giá thành, tăng năng suất [62].
Tác giả Nguyễn Ngọc Hồi trong cuốn “Chế độ công hữu – mục tiêu
hay chỉ là phương tiện” đã đề cập đến hai quan quan điểm trái ngược nhau
về vấn đề sở hữu. Nếu như trước đây người ta cổ vũ cho những mong
muốn chủ quan xóa nhanh chế độ tư hữu, lập nhanh chế độ cơng hữu để
sớm có chủ nghĩa xã hội, coi đó là mục tiêu duy nhất của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, thì ngày nay lại đang có xu hướng ngược lại: coi
nhẹ việc xây dựng và phát triển chế độ công hữu, xem đó chỉ là phương


25

tiện chứ không phải là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới;
đồng thời tuyệt đối hóa ưu thế của sở hữu tư nhân, coi đó là động lực duy
nhất trong phát triển kinh tế không thể thay bằng động lực khác. Theo tác
giả, cả hai xu hướng trên đều cực đoan và khơng đúng vì đã vi phạm các
nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội,
về sự thích ứng của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Trên phương diện xem xét cơ sở nền tảng của chế độ xã hội chủ

nghĩa thì sở hữu cơng cộng là mục tiêu cần đạt tới. Việc đa dạng hóa các
quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá độ ở nước ta là bước đi phù hợp với điều
kiện thực tiễn của một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ. Ở
đây, khơng có sự từ bỏ mục tiêu cơng hữu mà là tiến tới mục tiêu đó một
cách đúng quy luật, là hành động với nhận thức đúng đắn về vấn đề sở hữu,
coi sở hữu công cộng vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội [84].
Như vậy, việc phân tích xem sở hữu là mục tiêu hay là phương tiện
đã được nhiều tác giả hiện nay quan tâm và đưa ra những quan điểm khác
nhau. Nếu như trước đây các tác giả thường tuyệt đối hóa vai trị của sở
hữu tồn dân và sở hữu tập thể thì từ sau đổi mới các tác giả đều nhận thấy
mỗi hình thức sở hữu có một tác dụng nhất định; chính vì vậy, việc đa dạng
hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan.
1.2.2. Vai trị của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Vai trò của sở hữu nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều
hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Nhưng trong đó sở hữu cơng
cộng về tư liệu sản xuất phải là chủ chốt, có như vậy mới đảm bảo cho nền
kinh tế thị trường phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Sở
hữu nhà nước có thời kỳ đã phát huy rất tốt vai trò chủ đạo của mình,


×