Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Chất liệu dân gian trong ca từ nhạc trịnh công sơn khảo sát những ca khúc thân phận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 97 trang )

1
..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

MAI THANH TÙNG

CHẤT LIỆU DÂN GIAN TRONG CA TỪ NHẠC
TRỊNH CÔNG SƠN
(KHẢO SÁT NHỮNG CA KHÚC THÂN PHẬN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

THÁI NGUYÊN - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học dân gian là suối nguồn vô tận cho biết bao thi sĩ muôn đời nay.
Ngỡ tƣởng rằng thi ca hiện đại sẽ ngày càng xa nguồn để hƣớng tới cảm quan
hậu hiện đại nhƣng trên hành trình ấy vẫn có những nhà thơ tìm về với truyền
thống, với văn học dân gian để khơi nguồn thơ của mình. Những nhà thơ nhƣ
Nguyễn Bính, Hồng Cầm, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Tố Hữu, Nguyễn Duy …
đã chứng minh cho ta thấy ảnh hƣởng to lớn của văn học dân gian tới thi ca.
cũng nhƣ vậy các nhạc sĩ đã mƣợn “đôi cánh” của văn học dân gian để chắp
vào cho âm nhạc của mình. Sự hịa phối ấy đã tạo nên những hiện tƣợng âm


nhạc độc đáo, những vần thơ nốt nhạc sẽ còn lƣu lại mãi với thời gian.
Mọi ngƣời vẫn gọi Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ chứ chƣa mấy ai biết rằng
ông cũng là một nhà thơ, dù ông cũng đã in một số tập thơ. Cũng có ngƣời gọi
ông là "người thơ ca" hay "người hát thơ"[57], nghĩa là ông là ngƣời kết nối
cho thơ và nhạc trở nên hài hịa trở nên du dƣơng, hồn hảo nhất.
Sáng tác ca khúc, Trịnh Cơng Sơn có thể viết lời và nhạc cùng một lúc,
hoặc có bài lời thơ viết sau khi đã có nhạc, hay trƣớc khi "phổ nhạc" thì mỗi
lời ca của ơng đều là những bài thơ hồn chỉnh kể cả về ý, tứ, cấu trúc, ngơn
từ và cảm xúc. Trịnh Công Sơn là nhà thơ rất độc đáo ôm chứa tƣ tƣởng nhân
sinh và thời cuộc với một phong cách rất riêng biệt trong thơ ca Việt Nam.
Các ca khúc của Trịnh Công Sơn sáng tác rất nhuần nhuyễn trong các
thể thơ truyền thống nhƣ lục bát, đồng dao, ca dao. Ngay từ lần nghe đầu tiên
ca khúc Ở trọ, tôi đã phát hiện ra đấy là một bài thơ lục bát rất tài hoa. Từ cái
chuyện ở trọ bình thƣờng trong đời, ơng đã đẩy liên tƣởng tới cái "cõi tạm"
chốn trần gian trong triết lý của Đạo Phật với một cách nói thoải mái, thơng
minh và hóm hỉnh. Ơng nhìn thấy con chim ở trọ trên cành cây, con cá ở trọ
dƣới nƣớc, cơn gió ở trọ giữa đất trời, rồi đẩy tới một khái quát bất ngờ:
Trăm năm ở đậu ngàn năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

3
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn

(Ở trọ)

Trong ca khúc Để gió cuốn đi, Trịnh Cơng Sơn diễn tả thắm thiết tình
cảm với cuộc đời:

Sống trong đời sống cần có một tấm lịng
Để làm gì em biết khơng
Để gió cuốn…đi
Để gió cuốn…đi.
Gió cuốn đi cho mây qua dịng sơng
Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mơng
Ơi trái tim đang bay theo thời gian.

(Để gió cuốn đi)

Thân phận con ngƣời là một trong ba chủ để lớn (thân phận - tình u q hƣơng) kết cấu nên dịng nhạc Trịnh. Có thể nói thân phận con “Ngƣời”
là chủ thể của mọi mục đích sáng tạo. Con ngƣời hiện sinh, con ngƣời tƣợng
trƣng, con ngƣời mặc định, con ngƣời trở đi trở lại nhƣ một nỗi ám ảnh trong
hầu hết các sáng tác của Trịnh Công Sơn. Thân phận con ngƣời có khi đứng
tách riêng ra thành một chủ đề độc lập, có khi ẩn hiện trong các chủ đề khác
tạo nên một sợi dây xuyên suốt, một chất keo kết dính tạo nên tính thống nhất
mà đa dạng trong âm nhạc Trịnh Cơng Sơn. Ơng khai thác con ngƣời ở hầu
hết các trạng thái khác nhau, khi thì “gần gũi”, có lúc thật “xa xơi”, nhƣng tựu
chung đều bắt nguồn từ một cái nơi văn hố dân gian của tâm hồn tác giả, đó
là: “chất liệu dân gian”, nguồn cảm hứng đã xuyên suốt mọi chủ đề và hình
tƣợng trong ca từ nhạc của ông. Chất liệu dân gian hiện lên trọn vẹn nhất
trong những bài hát về thân phận, về kiếp ln hồi và giải thốt bản ngã. Ơng
giúp ngƣời nghe lắng nghe những âm vọng nhân sinh để chiêm nghiệm hết sự
tàn phai của cõi đời, để rồi trăn trở với những suy tƣ, với những quan niệm về
sự sống và cái chết.
Ca từ âm nhạc Trịnh Công Sơn rất xứng đáng đƣợc nghiên cứu. Có thể
nhận định rằng Trịnh Công Sơn là một nhà thơ lớn. Nhạc và thơ của ơng hịa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


/>

4
quyện vào nhau, nƣơng tựa vào nhau tạo nên những nhạc phẩm đã, đang và sẽ
làm say mê hàng triệu triệu trái tim qua bao thế hệ. Trong đó phải nói phần ca
từ đóng một vai trị hết sức quan trọng để tạo nên phong cách Trịnh Cơng
Sơn. Đã có rất nhiều bài nghiên cứu về nhạc Trịnh Công Sơn. Trƣớc thực tế
đó, trong luận văn này chúng tơi chỉ tìm hiểu những đặc điểm nổi bật về chất
liệu dân gian của ông qua thi pháp thể loại văn học dân gian, qua những biểu
tƣợng (mơ típ dân gian), cách sử dụng ngôn từ ghép từ, nhịp điệu, gieo vần và
biện pháp so sánh trong phạm vi những ca khúc viết về thân phận của nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn.
Chọn đề tài “Chất liệu dân gian trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn những
ca khúc về thân phận” ngƣời nghiên cứu muốn khẳng định vai trò to lớn của
văn học dân gian trong sự ảnh hƣởng tới văn học viết đồng thời chỉ ra một
hƣớng tiếp cận mới với ca từ âm nhạc Trịnh Công Sơn một trong những hiện
thực độc đáo trong làng âm nhạc Việt Nam hiện đại. Đề tài đồng thời cũng là
sự hiện thực hóa cho những câu hỏi? “Một thi sĩ hiện đại đã trở về với cội
nguồn dân gian như thế nào? Văn hóa dân gian đi qua màng lọc tư duy nghệ
thuật hiện đại sẽ biến đổi ra sao? Sự dung hợp giữa hiện đại và truyền thống
sẽ tạo ra thành quả gì cho văn chương, thi ca, âm nhạc?”.
2. Lịch sử của vấn đề
Đã có rất nhiều cơng trình, bào báo bài nghiên cứu về thơ về nhạc của
cố nhạc sĩ. Có thể khẳng định ngay từ khi Trịnh Công Sơn công diễn tác
phẩm đầu tiên “Ướt mi” cho đến nay đã làm tốn không biết bao nhiêu là giấy
mực của nhà nghiên cứu phê bình. Nhiều năm trở lại đây, với sự phát triển
của âm nhạc và sự yêu mến những sáng tác của ông, liên tiếp những show
biểu diễn về nhạc “TRỊNH” ngày càng thu hút đƣợc sự quan tâm chú ý của
rất nhiều khán giả u thích nhạc Trịnh Cơng Sơn và những học giả, nhà
nghiên cứu tìm hiểu về ông.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

5
Hầu hết đều là giới thiệu những bài viết ngắn, từ 2 cho đến khoảng 15
trang, cho ta những cái nhìn nghiêng, những “bán diện” của Trịnh Cơng Sơn,
qua mắt nhìn của những ngƣời viết. Ðặc biệt, về nội dung và cách trình bày,
nổi bật lên cuốn sách của Trịnh Cung và Nguyễn Quốc Thái (Trịnh Công Sơn
(1939 - 2001) cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội hoạ và suy tưởng) và tuyển tập Một
cõi Trịnh Công Sơn của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Ðoàn Tử
Huyến [45]. Trong hai tuyển tập này, ngoài bài viết của những tác giả trong
nƣớc, có nhiều bài viết của những tác giả khơng sống ở Việt Nam. Ở nƣớc
ngồi, có những tuyển tập đặc biệt về Trịnh Công Sơn, gồm những bài viết
trong nƣớc, của các tạp chí sáng tác, nhận định văn nghệ, tạp chí Văn học, …
Trong những năm trở lại đây, về đề tài Trịnh Công Sơn, trong nƣớc nổi
bật lên cuốn sách Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của Hoàng tử bé (nhà xuất
bản Trẻ, 2004) của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng [72], một ngƣời bạn của ngƣời
nhạc sĩ. Cuốn sách là một tập hợp nhiều bài viết mang tính đoản văn, tuỳ bút,
pha với phần nào tính chất ký và tự truyện, cho ngƣời đọc thấy đƣợc chân dung
đời thƣờng của ngƣời nhạc sĩ, đƣợc nhìn ngắm từ những góc độ đời thƣờng pha
lẫn một chút triết lý của tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng là một ngƣời có đƣợc
những nét tài hoa trong tạp bút và ký, lại là bạn thân của Trịnh Công Sơn, nên
cuốn sách của ơng có những nét đặc biệt riêng, chiếu rọi đƣợc những “cận
cảnh” đời thƣờng của Trịnh Công Sơn. Ở hải ngoại, có cuốn Trịnh Cơng Sơn:
Ngơn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (nhà xuất bản Văn Mới, 2005) của Bùi
Vĩnh Phúc [50]. Ðây là chuyên luận của một nhà lý luận phê bình hiện sống tại
Mỹ. Cùng với các nhà phê bình lý luận nhƣ Nguyễn Hƣng Quốc, Ðặng Tiến và
một vài ngƣời khác nữa, đƣợc nhiều độc giả văn học quan tâm theo dõi và đánh

giá cao, trƣớc chuyên luận về Trịnh Công Sơn này, Bùi Vĩnh Phúc đã cho ra
mắt nhiều tác phẩm mà cuốn sách tƣơng đối gần đây của ông đƣợc nhiều ngƣời
chú ý là cuốn Lý luận và phê bình Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước
(1975 - 1995) [49]. Gần đây, trên báo Văn học (số 232, tháng 7 & 8.2006), một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

6
tạp chí sáng tác và nhận định văn nghệ xuất bản tại Mỹ, ngƣời ta thấy có đăng
bài Thân phận con người và tình u trong ca từ Trịnh Cơng Sơn của Nguyễn
Thị Thanh Thuý [56].
Cũng nhƣ những nghệ sĩ, những nhà văn, nhà thơ và những nhà văn hoá
lỗi lạc khác của Việt Nam, Trịnh Cơng Sơn đã có những đóng góp của mình
vào việc làm phong phú và đẹp đẽ hơn nữa gia tài văn hoá Việt. Ðặc biệt đối
với Trịnh Cơng Sơn, đóng góp của ơng nổi bật lên trong lĩnh vực ngơn ngữ.
Ơng đã làm mới lạ cách diễn tả tình ý của con ngƣời Việt Nam, đặc biệt trong
khía cạnh tình u và thân phận con ngƣời trong cuộc chiến cũng nhƣ trong
chuyến đi lữ thứ của nó về cõi vĩnh hằng. Ngơn ngữ của Trịnh Công Sơn để
diễn tả cuộc chiến tàn khốc của lịch sử Việt Nam hậu bán thế kỷ XX, cái nhìn
của ơng về phận ngƣời giữa cõi vơ thƣờng là cuộc đời này, tiếng nói ngọt
ngào yêu thƣơng và thiết tha nhân ái trong trái tim ơng khi nói về tình u
nam nữ nói riêng, hoặc tình u giữa ngƣời và ngƣời nói chung, đã là những
dấu ấn khó phai trong tâm thức con ngƣời Việt Nam hiện đại.
Tóm lại đã có rất nhiều tác giả đi nghiên cứu về Trịnh Công Sơn trên
mọi phƣơng diện âm nhạc và ca từ nhƣng chƣa có một cơng trình nghiên cứu
chun biệt nào về chất dân gian, chất văn học của tâm hồn và tƣ duy âm
nhạc của ơng. Có thể khẳng định văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa
mẹ nuôi dƣỡng tâm hồn Trịnh Công Sơn giúp ông sáng tạo nên những tác

phẩm bất hủ cùng năm tháng.
Nhƣ vậy, với lịch sử khám phá về ca từ nhạc Trịnh Công Sơn với những
giai điệu đáng tự hào ta có thể làm rõ sự ảnh hƣởng sâu sắc từ cội nguồn văn
hoá - văn học dân gian đã tác động nhƣ thế nào, để từ đó tạo lên những vần
thơ độc đáo vừa sâu lắng hồn quê vừa nồng nàn tinh thần hiện đại của tƣợng
trƣng - siêu thực trong âm nhạc của Trịnh Cơng Sơn.
3. Mục đích nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

7
3.1. Luận văn sẽ làm rõ - chính văn hóa dân gian, văn học dân gian là cơ
sở, nền tảng góp phần tạo lập nên vẻ đẹp độ sâu trong nội dung ca từ nhạc
Trịnh Công Sơn. Thành tựu bền vững của nhạc Trịnh là giai điệu lắng sâu, mê
đắm và ca từ đẹp của nhạc phẩm. Vì vậy, việc tìm hiểu ca từ là tìm hiểu và
xác định giá trị đích thực của nhạc Trịnh Cơng Sơn.
3.2. Việc sử dụng chất liệu dân gian - những thành tố cấu trúc trong văn
hóa dân gian, văn học dân gian - để tạo lập nên lời trong các ca khúc nhạc
Trịnh Công Sơn.
3.3. Xác định đƣợc những thủ pháp mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã sử
dụng để tạo nên ca từ của ơng. Ơng đã sử dụng ngun bản những yếu tố dân
gian và biến đổi sáng tạo những chất liệu dân gian nhƣ thế nào cho phù hợp
với thời đại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là: Những biểu tượng của văn hóa
dân gian, văn học dân gian đã đƣợc sử dụng làm chất liệu để tạo nên Lời, tức
là tạo nên ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn ?

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tơi chỉ đi tìm hiểu riêng phần ca từ trong di sản nhạc Trịnh Công
Sơn. Đối tƣợng nghiên cứu trong luận văn của chúng tôi là chất liệu dân gian
trong ca từ những bài hát của nhạc sĩ Trịnh Cơng Sơn trong đó chúng tôi sẽ
làm sáng tỏ ảnh hƣởng sâu sắc của văn hóa - văn học dân gian tới sáng tác
nhạc Trịnh Công Sơn nhƣ thế nào.
Trong số những ca khúc mà Trịnh Công Sơn sáng tác chúng tôi chỉ đi
sâu nghiên cứu ca từ những bài hát chủ đề thân phận con ngƣời, trên phƣơng
diện chất liệu dân gian tạo nên hình tƣợng con ngƣời xã hội và con ngƣời
bản thể.
5. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

8
Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu của luận văn chúng tôi đã lựa chọn
những tài liệu liên quan đến ca khúc của Trịnh Công Sơn đã đƣợc công bố rõ
ràng gồm:
- Trịnh Công Sơn tuyển tập những bài ca đi cùng năm tháng – Nhà xuất
bản Âm nhạc - 1998.
- Một cõi đi về - Nhà xuất bản âm Nhạc TP HCM - 1989.
- Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn tập 1.2.3.4.5.6 – Nhà xuất Văn nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh - 1999.
- Những bài hát về thân phận của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đƣợc sƣu tầm
từ nhiều nguồn tài liệu.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Dựa trên những khái niệm về văn
hóa, văn học, ngơn ngữ. Từ đó làm cơ sở để phân tích, tổng hợp những quan

điểm này thơng qua các ca từ trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, để
giải quyết những vấn đề mà đề tài đề cập đến.
- Phương pháp định lượng qua thống kê phân loại, phân tích: Để cho
việc nghiên cứu đánh giá có căn cứ xác thực chúng tôi tiến hành khảo sát,
thống kê những ca từ, những bài hát của Trịnh Công Sơn. Thơng qua đó phân
loại nội dung phản ảnh theo từng chủ đề, từ đó phân tích nội dung phản ánh
để rút ra giá trị của những chất liệu dân gian mà Trịnh Công Sơn đã sử dụng
trong ca khúc của mình.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Ngƣời viết đề tài đã phân loại các bài
hát theo đúng chủ đề thuộc phạm vi đề tài và có số liệu thống kê chính xác
khoa học nhất cho những luận điểm của vấn đề đã đƣợc nêu ra trong ca từ nhạc
âm nhạc Trịnh Cơng Sơn. Đó là q trình tổng hợp các bài nghiên cứu, các bài
thống kê nhận diện về chất liệu dân gian, cũng nhƣ qua đó thể hiện quan điểm cá
nhân của tôi về Chất liệu dân gian trong ca từ nhạc Trịnh Cơng Sơn một cách
có hệ thống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

9
- Phương pháp so sánh: Phƣơng pháp so sánh nhằm mục đích để soi
rọi, thấy đƣợc những điểm giống và khác nhau trong cách lựa chọn chất liệu
dân gian của các nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ với Trịnh Công Sơn. Từ đó tìm ra
cái khác biệt, cái mới, sự sáng tạo của nhạc sĩ Trịnh Cơng Sơn.
7. Đóng góp của luận văn
Đề tài “Chất liệu dân gian trong ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
những ca khúc về thân phận” nhằm có một cái nhìn khái qt và hệ thống
hoá về tài năng nghệ thuật của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua những sáng tạo ca
từ của ông. Từ đó chứng minh rằng Trịnh Cơng Sơn khơng chỉ là một nhạc sĩ

tài hoa mà còn là một nhà thơ có tâm có tầm trong nghệ thuật, một nhà thơ
với phong cách từ cội nguồn văn hoá dân gian Việt Nam.
Nghiên cứu về chất dân gian trong ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
trong ca từ những bài hát thân phận giúp ngƣời đọc, ngƣời nghe thêm yêu
mến âm nhạc Trịnh Công Sơn hơn nữa và thấy rõ dấu ấn của chất liệu dân
gian dân gian từ tâm lí sáng tạo, cách nhìn thế giới, dạng thức biểu hiện cái tơi
trữ tình đến cách sử dụng các mơ típ dân gian, nhằm bảo lƣu văn hố diễn
xƣớng dân gian. Với lối tƣ duy và diễn đạt đậm chất dân gian qua màng lọc
của nghệ thuật âm nhạc hiện đại đã tạo nên giá trị riêng cho các ca khúc của
Trịnh Công Sơn trong nền văn học đƣơng đại.
8. Cấu trúc của luận văn
Phần một: Mở đầu
Phần hai: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về chất liệu dân gian của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn trong ca từ những ca khúc viết về thân phận
Chương 2: Biểu hiện chất liệu dân gian của nhạc sĩ Trịnh Công
Sơntrong ca từ những ca khúc viết về thân phận
Chương 3: Hiệu quả của chất liệu dân gian trong ca khúc nhạc sĩ Trịnh
Cơng Sơn
Phần ba: Kết luận
CHƢƠNG 1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

10
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LIỆU DÂN GIAN CỦA NHẠC SĨ
TRỊNH CÔNG SƠN
TRONG CA TỪ NHỮNG CA KHÚC VIẾT VỀ THÂN PHẬN

1.1. Những vấn đề chung về cuộc đời và sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn quê làng Minh Hƣơng, tổng Vĩnh Tri, huyện Hƣơng
Trà, tỉnh Thừa Thiên. Ơng sinh vào giờ Thìn, ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ
Mão tức ngày 28 tháng 2 năm 1939, tại Daklak. Ông mất vào 12:45 trƣa ngày
1 tháng 4 năm 2001, tại Sài Gịn. Ơng an nghỉ tại nghĩa trang Gị Dƣa chùa
Quảng Bình, tỉnh Bình Dƣơng bên cạnh mộ của thân mẫu.
Năm 1943 từ Dak Lak ơng theo gia đình chuyển về Huế. Ơng học trƣờng
tiểu học Nam Giao (nay là Trƣờng An), vào trƣờng Pellerin, theo học trƣờng
Thiên Hựu (Providence). Ông tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup
Laubat, Sài Gòn. Học trƣờng Sƣ Phạm Quy Nhơn khố I (1962-1964). Sau
khi tốt nghiệp ơng lên dạy học và làm hiệu trƣởng một trƣờng Tiểu học ở Bảo
Lộc (Lâm Đồng). Sau 1965, ông bỏ hẳn nghề dạy học, về sống và sáng tác tại
Sài Gòn. Sau 1975 ông sống ở Huế một thời gian dài và sau đó vào ở hẳn tại
Sài Gịn (Thành phố Hồ Chí Minh) [45].
Ngồi Âm nhạc, tác phẩm của ơng cịn gồm nhiều thể loại thuộc các lãnh
vực nhƣ: Thơ, Văn và Hội Họa.
Ông tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ƣớt
Mi (Nhà xuất bản An Phú in năm 1959). Cho đến nay nhạc sĩ đã sáng tác hơn
600 tác phẩm, có thể đƣợc phân loại dƣới 3 đề mục lớn: Tình Yêu - Quê
Hƣơng - Thân Phận.
Năm 1972, ông đoạt giải thƣởng Đĩa vàng ở Nhật Bản với bài Ngủ đi
con (trong Ca khúc da vàng) qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly phát hành trên
2 triệu bản; Giải thƣởng cho bài hát hay nhất trong phim Tội lỗi cuối cùng;
Giải nhất của cuộc thi Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh với
bài Em ở nông trường, Em ra biên giới; Giải nhất cuộc thi Hai mươi năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>


11
sau với bài Hai mươi mùa nắng lạ; Năm 1997 ông đoạt giải thƣởng lớn của
Hội nhạc sĩ cho một chuỗi bài hát: Xin trả nợ người, Sóng về đâu, Em đi bỏ
lại con đường [56].
Trịnh Công Sơn thực sự là một thi sĩ, nhạc sĩ có tài có tâm, cái tâm cao
quý của ngƣời thể hiện những thi phẩm thơ lấp lánh chất nhạc. Cái tâm của
Trịnh Công Sơn cịn là tâm huyết của ngƣời con Việt Nam ln trăn trở trong
khát vọng sống về tình u về hịa bình. Bằng tài năng của mình, Trịnh Cơng
Sơn đã khẳng định một tiếng nói riêng trong âm nhạc Việt Nam, một tiếng nói
tha thiết trong dịng chảy âm nhạc dân tộc.
1.1.1. Quan điểm về nghệ thuật, âm nhạc, ca khúc của Trịnh Cơng Sơn
Trịnh Cơng Sơn ln sống trong tình yêu thƣơng con ngƣời, tình yêu dân
tộc bằng âm nhạc của mình. Ơng ln có những suy tƣ, tâm sự về cuộc đời,
con ngƣời và có những quan niệm sống thật giản đơn nhƣng giàu triết lý.
Về quan niệm sáng tác, Trịnh Công Sơn bộc bạch: "Tôi chỉ là một tên
hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những
giấc mơ đời hư ảo..." [55]
Trong quan niệm sống, ông cho rằng “Sống trong đời sống cần có một
tấm lịng, dù khơng để làm gì cả, dù chỉ để gió cuốn đi!” ( Để gió cuốn đi )
Các tuyển tập ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ họ Trịnh có tiêu đề rất gần gũi
đời thƣờng, trong đời sống ngƣời Việt Nam có thể kể tên: Ca khúc Trịnh Cơng
Sơn, Tình khúc Trịnh Cơng Sơn, Tuổi đá buồn, Khói Trời mênh mơng, Ca
khúc da vàng, Kinh Việt Nam, Ta phải thấy mặt trời, Phụ khúc da vàng, Như
cánh vạc bay, Tự tình khúc, Lời đất đá cũ, Thần thoại quê Shương, Tình yêu
và thân phận, Một cõi đi về, Huyền thoại Mẹ, Cỏ xót xa đưa, Em còn nhớ hay
em đã quên, Những bài ca khơng năm Tháng trực về sự vắng
bóng con người...” [45,tr.68]. Sự ra đi của ngƣời cha với một cái chết dƣờng
nhƣ đƣợc bào trƣớc đã sớm in vào tâm hồn Trịnh nỗi ám ảnh bất toại về cái
chết, giữa vùng trời tang thƣơng của chiến tranh, nỗi ám ảnh ấy lại càng mạnh
mẽ hơn...

Bởi vậy, trong hồn thơ Trịnh Công Sơn, thân phận là sự giằng xé vƣơn
lên giữa những điều tƣởng nhƣ đối lập: quá khứ và hiện tại, tuyệt vọng và tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

84
tái tạo niềm tin, cảm giác khơng tìm thấy mình giữa dịng đời và lắng nghe
mọi va đập, tìm cái tôi ẩn khuất trong chốn “đô thị tan nát của hồn mình”.
Ta thấy nhạc Trịnh Cơng Sơn nhƣ một dịng sông mênh mông, dào dạt
và chảy xiết với ba nguồn mạch - hƣớng về tình yêu, quê hƣơng, thân phận.
Nhƣng bởi là dịng sơng nên dù góp lại từ bao nhiêu mạch nguồn thì cũng hịa
làm một, đều có chung hƣớng chảy về biển cả và đều bắt nguồn sâu xa từ lịng
đất, nơi bắt nguồn của mọi dịng sơng. Lịng đất đó, với hồn thơ Trịnh Cơng
Sơn chính là tình u thƣơng. Và điều cịn lại sau cùng của Trịnh Công Sơn
với cuộc đời này khi mọi lời hoa mĩ đã mất đi cũng chính là tình u thƣơng.
Có thể nói mỗi nhạc phẩm của Trịnh Cơng Sơn khi đƣợc hát lên đây đó
thì cung điệu trầm bổng của nó chuyển tải đến ngƣời nghe một thứ triết lý nào
đó, và làm cho ngƣời nghe phải suy tƣ về những gì mình đƣợc nghe. Điều đó
khiến nhiều ngƣời phải thú nhận rằng nhạc của họ Trịnh là nhạc của triết lý và
mỗi bài nhạc là một triết lý sống. Điều thú nhận của nhiều ngƣời nhƣ đã nói
có thể là một điều khẳng định đúng. Nó đúng vì chúng ta khơng khốc lên
nhạc của Ơng một triết lý nhƣng tự bản chất của nhạc mang tính triết lý. Nó
mang tính triết lý bởi vì nó dính dáng đến đời ngƣời và ngƣời đời, nó dính
đến chuyện tình u và cuộc sống, nó dính đến chuyện tồn tại và hiện hữu hay
vơ thƣờng, những chuyện đó đều là những chuyện của triết lý.
Nhƣ mọi ngƣời đã biết, đối với Trịnh Cơng Sơn thì cuộc đời là cõi tạm,
là phù du cát bụi, là “Sinh ký tử quy”, là những gì liên quan đến phận ngƣời.
Mà “Thân phận con người thì vừa cao cả, vừa bi đát, vừa thấy những tia sáng

l lên, vừa dị dẫm bước đi trong bóng tối, vừa là tiếng kêu vô vọng, vừa là
sự thúc bách “Sống còn” tự thâm sâu”. Tất cả đều đƣợc Trịnh Công Sơn cƣu
mang trong từng câu ca, từng điệu nhạc. Nếu chúng ta chú tâm một chút thì sẽ
cảm nghiệm đƣợc những gì mà Nhạc sĩ muốn thể hiện qua con ngƣời (từ em
bé đến cụ già), qua vạn vật cỏ cây, qua chiến tranh, hận thù, …

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

85
Nhƣ Trịnh Cơng Sơn đã nói: “Ca khúc là đời sống thứ hai của tôi, sau
cái thân thể mà cha mẹ đã sinh thành”, mà Ông là con ngƣời triết lý thì ca
khúc của Ơng cũng mang màu sắc chiêm niệm triết học là điều hiển nhiên.
Ngay những nhan đề của nhiều ca khúc cũng nói lên điều đó nhƣ: Cát bụi,
Lời thiên thu, Một cõi đi về, Bên đời hiu quạnh, Đêm thấy ta là thác đổ,
Nguyệt ca, Những con mắt trần gian, Đố hoa vơ thường, Mỗi ngày tôi
chọn một niềm vui, …
Mặt khác nhạc của Trịnh Công Sơn không đơn thuần chỉ là nhạc, mỗi bài
hát không đơn giản là sự kết nối của từ ngữ cho ra bài hát mà còn là chuyện
kể ngắn, mỗi bài là một chƣơng khúc của truyện dài khơng có kết thúc mà vẫn
cứ mở ra nhƣ một vết thƣơng lịng.
Ngơn ngữ trong ca khúc hầu nhƣ lúc nào cũng có một điều gì đó bắt
ngƣời nghe phải suy tƣ, phải triết lý. Cái triết lý mà Ơng muốn nói đã biến
thành hơi thở, máu thịt, thành cái hồn của chính Tác giả, nên khi ơng bức xúc,
đau xót hay cảm hứng viết ra thì lời lẽ nhƣ một dịng sơng suy tƣ triết lý tuôn
tràn. Nhƣ mọi ngƣời đã rõ, Trịnh Cơng Sơn khơng hề có lý luận gì về triết
học, hát lên từng ca khúc ta thấy rõ điều đó nhƣng mà chính triết học đã hồ
tan trong Ơng một cách tự nhiên rồi qua suy tƣ, qua lời nhạc, qua tiết điệu mà
đƣợc thể hiện ra nơi từng nhạc phẩm.

Nhạc của ơng nó triết lý ở chỗ cho con ngƣời nhận ra thân phận, nhận ra
lẽ sống đời ngƣời và cái nét đẹp trong ca khúc của Ông vƣợt lên trên lịng hận
thù, ích kỷ của con ngƣời. Bởi Ông cho rằng trần gian là “Cõi tạm”, là “Đêm
trọ” thì cớ sao mình sống mà lại khơng có một tấm lịng, một tình u của con
ngƣời đối với con ngƣời.
Nghe nhạc Trịnh ta có cảm nhận nhƣ trong ca khúc Ơng viết có điều gì
đó sao xuyến, cái nỗi sao xuyến của kiếp ngƣời ấy mà. Cho nên: “Khơng có
đoạn truyện ngắn (ca khúc) nào kết thúc có hậu như trong truyện cổ tích mà
ngược lại đó là những loại “Tình sầu”, “Tình xa”, “Tình nhớ”, … Khơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

86
cịn là cái đẹp của đối xứng, vng trịn, thuỷ chung. Bởi cùng nhau tắm gội
trong biển bấp bênh của thời đại, con người xót xa khám phá ra cái đẹp
chông chênh, cái ma lực của chén đắng. Đời dành riêng cho kẻ nào đã lên tới
đỉnh buồn và xuống tới vực thẳm … Con người sinh ra là đã thua cuộc … Là
khoác lên sự thua cuộc ấy một gương mặt người do từng cá nhân đắp dập lấy
… Là những gì nhiều người từng quy nạp cho ca khúc Trịnh Công Sơn”[72].
* Tiểu kết
Trịnh Công Sơn biết rằng, nếu nhƣ con ngƣời thời nay hình nhƣ đã đánh
mất đi cái cảm nhận sâu thẳm của một ngƣời trèo núi ngồi bên bờ vực thẳm,
thì ca khúc của Trịnh Công Sơn lại là bài kinh cầu bên bờ vực thẳm. Nó có
sức lay động ý thức về thân phận ở bất cứ một ai mê muội định tìm một chỗ
ẩn trốn an tồn ở đời. Và vì vậy ca khúc của Trịnh Công Sơn không hẳn chỉ là
những bông hồng dâng tặng cho đời mà chứa đựng tất cả những tâm trạng lo
âu, sao xuyến của một con ngƣời nhạy cảm nhìn ra thế giới hiện đại. Điều
khiến cho ca khúc của Trịnh Cơng Sơn sống mãi trong lịng ngƣời là ở chỗ

Trịnh Công Sơn không định làm một triết lý cho âm nhạc nhƣng mà mỗi ca
khúc của Ông là một triết lý sống vậy.
Bao nhiêu năm làm kiếp con ngƣời, rất nhiều thứ đã phôi pha cùng thời
gian, nhƣng nhạc Trịnh Cơng Sơn vẫn cịn đó, lặng lẽ mà sâu xa nhƣ một lời
tự tình, nhƣ tiếng thở dài của kẻ chợt nhận ra mình sau một giấc ngủ vùi trong
vịng nơi “ngậm ngùi”.
Thật khó mang xét định điều gì đã chơn sâu âm nhạc Trịnh Cơng Sơn
trong long ngƣời nghe đến nhƣ vậy. Nhƣng có lẽ một điều mà bất cứ ai yêu
mến nhạc Trịnh Công Sơn đều nhận ra rằng ca từ của Trịnh sâu xa, huyền
hoặc, cơ hồ nhƣ đang nói về thứ gì đó rất xa xơi, nhƣ là ảo vọng. Nhƣng xét
cho cùng cái thứ ngôn ngữ hiện sinh ấy lại đƣợc ngƣời nhạc sĩ tài ba chƣng
cất từ chính cõi đời, từ nỗi ám ảnh của cái chết, sự tàn phai, nỗi buồn, cô đơn
và tuyệt vọng của thân phận con ngƣời; đƣợc cô đọng và khúc xạ trong âm ba
của tình u và niềm khao khát sống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

87
KẾT LUẬN
Văn học dân gian Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững đƣợc vun
đắp nên qua quá trình lịch sử đấu tranh lâu dài dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đó là
lịng u nƣớc, ý chí tự cƣờng dân tộc, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động, tính giản dị khiêm tốn trong lối sống, sự tinh tế trong tâm hồn, trọng
nghĩa đạo tình, sâu sắc trong lựa chọn ngơn ngữ tiếng nói dân tộc và cao hơn
cả là giá trị truyền thống yêu thƣơng con ngƣời. Trong tình u thƣơng đó chỉ
đƣợc bộc bạch rõ nét hơn, đầy đủ hơn trọn vẹn hơn khi con ngƣời đƣợc ni
dƣỡng tâm hồn bằng “dịng sữa dân gian” bằng những lời ru của mẹ, bằng
tiếng nói của dân tộc. Có một trái tim đã hịa mình vào dịng sữa đó, dịng đời

đó trở thành “ linh hồn dân tộc” đó là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Nghệ thuật của Trịnh Công Sơn khơng mon men một thứ tình cảm bán
mua, khơng dung dƣỡng những xấu xa trần tục; chỉ thế thôi có lẽ nó đã đủ sức
lay động trái tim con ngƣời, đủ sức làm nên một nét riêng cho âm nhạc của
ơng. Đó cũng chính là q tặng đẹp nhất của cuộc sống của những gì thuộc về
dân tộc để đến với trái tim mỗi con ngƣời Việt Nam.
Trịnh Công Sơn đã để lại cho đời một khối lƣợng tác phẩm âm nhạc đồ
sộ mà số lƣợng ca khúc không thể so sánh với sự giàu có của giai điệu tâm
hồn mà ơng đã dày cơng tƣới tắm, chăm bón cho cõi đời này. Trịnh Công Sơn
là biểu tƣợng của “Bóng núi” đã chở che cho nhiều kiếp ngƣời bằng chính
những ca khúc bất hủ ngợi ca quê hƣơng - tình yêu và thân phận con ngƣời
Luận văn Chất liệu dân gian trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn với cơ
sở lý luận khoa học về ngôn ngữ, về ca từ trong âm nhạc đặc biệt là về hệ
thống thi pháp văn học dân gian tôi muốn làm sáng tỏ hơn về chất thơ chất
nhạc đặc biệt của các ca khúc trong sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn đã minh chứng cho những những luận
điểm cơ sở về biểu hiện của chất liệu dân gian trong ca từ của nhạc Trịnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

88
Công Sơn. Từ suy nghĩ đến ca khúc của Trịnh đề tài làm sáng tỏ về những tƣ
duy huyền thoại ở trong tâm hồn nhạc sĩ, tại sao đó là tƣ duy huyền thoại mà
không là tƣ duy khác, bởi trong Trịnh Cơng Sơn ln chảy dịng máu đỏ da
vàng nhƣ bao con ngƣời Việt Nam khác. Bởi vậy cho nên tƣ duy dân gian của
những truyền thuyết, những thần thoại nguyên thủy từ cội nguồn dân tộc đã
đƣợc viết lên bởi ngịi bút của Trịnh. Từ đó Trịnh Cơng Sơn đƣa ngƣời nghe
nhạc của ơng tìm thấy sự hào hoa, sự linh thiêng sông núi thuở hồng hoang.

Chất liệu dân gian càng trở lên đậm nét hơn khi những khúc ru đƣợc cất
lên, cứ ngân nga, cứ du dƣơng nhƣ lời ru của mẹ chan chứa trong ca khúc của
Trịnh Cơng Sơn. Có khi là lời ru của mẹ của bà nhƣng có khi là lời ru của em,
lời du của anh cho em, của con cho mẹ, cho chính thân phận kiếp ngƣời.
Trịnh tìm thấy sự bình n trong tiếng ru, nhƣng du khúc ông viết đã an ủi
cho bản thân ông khi ông không lên duyên với ai, cũng là lời an ủi cho thế hệ
của nhạc sĩ. Trịnh Cơng Sơn ru chính ơng, ru tình, ru đời.
Những mơtíp những hình tƣợng mà đề tài tìm thấy trong ca từ nhạc của
Trịnh, khi nghe nhạc Trịnh ta thấy ca từ trong nhạc ơng rất khó hiểu thậm chí
khơng hiểu nổi nhƣng khi soi chiếu vào trong thi pháp văn học dân gian,
chúng hiện lên thật rõ nét và đầy đủ nhất. Đó là những: Con đường, dịng
sơng, mặt trời, mưa, mùa thu, … con Ngựa, con Bống….. Thật bất ngờ là
những mơtíp hình tƣợng đó lại q quen thuộc với chúng ta và chỉ khi chúng
ta cất lên lời hát của Trịnh thì mới thốt lên “thật lạ mà quen”. Tất cả những
biểu tƣợng đó đã minh chứng đầy đủ nhất về chân dung tâm hồn và trí tuệ của
ngƣời nghệ sĩ đa tài, đa tình, đa sầu, đa cảm, đậm đà bản sắc dân tộc.
Và dù trên cõi đời con ngƣời đều trải qua sống chết và yêu hay nhƣ Phật
giáo đã đƣa ra thuyết Sinh - Lão - bệnh - Tử, Trịnh đã biết rằng rồi Trịnh cũng
nhƣ vậy cho nên ông đã viết lên những ca khúc về chính thân phận mình nhƣ
kiếp Dã Chàng nhƣ kiếp Cát bụi vô thƣờng. Nhạc của ông giúp cho ngƣời
nghe thấy ở cõi trần gian này hãy sống hết mình, hãy sống vì lẽ phải ở đời, nét
đẹp của ca khúc của ơng là vƣợt lên lịng hận thù, lịng ích kỷ ở đời. Bởi ơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

89
cho rằng trần gian là “Cõi tạm” là “ Đêm trọ” thì cớ sao lại khơng có một tấm
lịng, một tình yêu giữ con ngƣời với con ngƣời.

Trên chặng đƣờng phát triển ngôn ngữ tiếng Việt Nam, Trịnh Công Sơn
nhƣ một nhà phù thủy của ngơn từ, ơng khốc vào ngôn ngữ mẹ đẻ một tấm áo
đa sắc màu trong hình ảnh, biểu tƣợng. Ơng nhƣ ngƣời nhạc trƣởng tài hoa
điều khiển điêu luyện bản hịa tấu ngơn ngữ một cách diệu xảo. Những sự vật
tầm thƣờng nhƣng khi đƣợc “chiếc đũa thần” của Trịnh Cơng Sơn gõ vào thì
lập tức biến thành lạ thƣờng: Nắng Thuỷ Tinh ; Mưa Hồng ; Hạ Trắng ; Mắt
xanh xao có lẽ đối với các nhà bệnh lý học thì đấy là triệu chứng của một bệnh
nào đấy, nhƣng đối với Trịnh thì “mắt xanh xao” lại là điểm nhấn cho một hình
ảnh liêu trai, đài các: “Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao” (Diễm Xưa).
Bao nhiêu năm đã trôi qua kể từ ngày Trịnh Cơng Sơn đem linh của hồn
văn hóa dân gian gửi vào thơ vào nhạc, ông đã tạo ra một dấu ấn âm nhạc rất
riêng, độc đáo. Theo năm tháng rất nhiều thứ đã phôi pha cùng thời gian,
nhƣng nhạc Trịnh vẫn cịn đó, lặng lẽ mà sâu xa nhƣ một lời tự tình, nhƣ tiếng
thở dài của kẻ chợt nhận ra mình sau một giấc ngủ vùi trong vịng nơi “ngậm
ngùi”. Có lẽ bất cứ ai u mến nhạc Trịnh đều nhận ra rằng ca từ của Trịnh
Công Sơn sâu xa, huyền hoặc, cơ hồ nhƣ đang nói về thứ gì đó rất xa xơi, nhƣ
là ảo vọng. Nhƣng xét cho cùng cái thứ ngôn ngữ bắt nguồn từ nguồn cội lại
đƣợc ngƣời nhạc sĩ tài ba chƣng cất từ chính cõi đời, từ nỗi ám ảnh về sự tàn
phai, nỗi buồn, cô đơn và tuyệt vọng của thân phận con ngƣời, đƣợc cô đọng
và khúc xạ trong âm ba của tình yêu và niềm khao khát sống.
Có lẽ đối với tất cả những ngƣời yêu nhạc thì ngày 1 tháng 4 năm 2001
là một ngày đi vào lịch sử của thi ca, âm nhạc, vào ngày ấy ngƣời nhạc sĩ hiền
từ có thân hình gầy gị, với đơi mắt kính gọng đồi mồi và chất giọng ấm áp
mang đậm âm hƣởng Huế đã vĩnh viễn rời xa nhân thế. Để rồi mƣời ba năm
trôi qua ngƣời đời vẫn luôn tƣởng nhớ, yêu mến ngƣời nhạc sĩ tài hoa ấy.
Tƣởng nhƣ ơng vẫn sống ở đâu đó quanh đây thật gần với mỗi nhà, mỗi
ngƣời để sẻ chia, để an ủi, để ngợi ca tình yêu, cuộc sống, để nhắn nhủ với
mỗi ngƣời: “Sống trong đời sống cần có một tấm lịng...”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


/>

90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dƣơng Viết Á (2005), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, Nxb Viện Âm nhạc,
Hà Nội.
2. Dƣơng Viết Á (2005), Âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hóa, tập 1, Nxb
Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (2003), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng, từ ghép, đoản ngữ),
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Hà Châu (1966), “Cách so sánh trong ca dao ngày nay”, Tạp chí Văn học, số 9.
7. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
8. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hồng Trọng Phiến (2006), Cơ sở ngơn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
9. Đặc tuyển về Trịnh Cơng Sơn và giới trẻ (2005), Tạp chí Thời Văn, số 2,
Nxb Văn nghệ.
10. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Hữu Đạt (1981), “Thủ pháp so sánh trong ca dao và thơ hiện đại”, Văn
nghệ, số 5.
12. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
13. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
14. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội .
15. Fedinand De Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

91
16. George La Koff and Mark Johnsen (2003), Metaphors we Live
by. London: The University of Chicago Press.
17. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
18. Hoàng Văn Hành (1976), "Về bản chất của thành ngữ so sánh tiếng Việt",
Tạp chí Ngơn ngữ, số 1, tr 11-19.
19. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2009), Biểu tượng ngơn ngữ trong ca từ của
Trịnh Công Sơn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội .
20. Lê thị Thu Hiền (2007), Quan niệm nhân sinh trong ca từ Trịnh Công
Sơn, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn - Chuyên ngành Văn học Việt Nam, Đại
học Sƣ phạm Hà Nội.
21. Đỗ Đức Hiểu và các tác giả khác (2004), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới,
.Hà Nội
22. Đinh Ngọc Hoa (1998), So sánh tu từ trong tác phẩm của Nam Cao trước
Cách mạng, Ngữ học trẻ 98, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
23. Nguyễn Hữu Thái Hoà và những ngƣời bạn (2007), Vườn xưa - hành trình
âm nhạc Trịnh Cơng Sơn, Nxb Trẻ, Hà Nội.
24. Nguyễn Hữu Thái Hòa (2007), Vườn xưa - hành trình âm nhạc Trịnh
Cơng Sơn, Nxb Trẻ..
25. Jean Chevalier Alaingheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế
giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
26. Lƣu Quý Khƣơng (2003), “So sánh logic và so sánh tu từ”, Tạp chí Ngơn
ngữ, số 16.
27. Đinh Trọng Lạc (1964), Giáo trình Việt ngữ, tập 3, Nxb Giáo dục, H.

28. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hoà (2004), Phong cách học
tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

92
30. Nguyễn Thế Lịch (1991), “Từ so sánh đến ẩn dụ”, Tạp chí Ngơn ngữ, số 3.
31. Nguyễn Thế Lịch (1988), “Các yếu tố và cấu trúc so sánh nghệ thuật tiếng
Việt”, Số phụ của Tạp chí Ngơn ngữ, số 1.
32. Nguyễn Thế Lịch (1998), “Về các tính chất của ngơn ngữ nghệ thuật”,
Tạp chí Ngơn ngữ, số 4.
33. Nguyễn Thế Lịch (2001), “Cấu trúc so sánh trong tiếng Việt”, Tạp chí
Ngơn ngữ, số 7 & 9.
34. Trần Thị Thuỳ Linh (2008), Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu
thuyết của Chu Lai và Lê Lựu, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Loan (2009), Quan niệm mĩ học trong ca từ và văn xuôi
Trịnh Công Sơn, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
36. Lucbenoist (2006), Dấu hiệu - biểu trưng và thần thoại, Dịch: Hoàng Mai
Anh, Nxb Thế giới
37. Ban Mai (2008), Trịnh Công Sơn - Vết chân dã tràng, Nxb Lao động Trung tâm Văn hoá Ngơn ngữ Đơng Tây, Hà Nội.
38. Đồn Tiến Mạnh (2000) “Cấu trúc của vế chuẩn so sánh tu từ (qua cứ liệu
(văn xuôi)”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
39. E. M. Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
40. E.Mounier (1970), Những chủ đề triết hiện sinh, Nhị Nùng xuất bản.

41. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội .
42. Lê Thị Nhƣ Nguyệt (2009), So sánh và ẩn dụ tu từ trong thơ Xuân Quỳnh,
Luận văn thạc sĩ Ngữ văn - Chuyên ngành Ngôn ngữ, Đại học Sƣ phạm
Thái Nguyên.
43. Nhiều tác giả (2001), "Trịnh Cơng Sơn - Cát bụi lộng lẫy", Tạp chí Sơng
Hương, Nxb Văn hố, Huế.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

93
44. Nhiều tác giả (2004), Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ,
Nxb Trẻ, Hà Nội.
45. Nhiều tác giả (2005), Trịnh Công Sơn - cuộc đời - âm nhạc - thơ - hội hoạ
và suy tưởng, Nxb Văn hố Sài Gịn, TP Hồ Chí Minh.
46. Vũ Ngọc Phan (2005), Tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Lao động Xã hội.
47. Hoàng Phê (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
48. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt (câu), Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
49. Bùi Vĩnh Phúc (2002), "Trịnh Công Sơn những ám ảnh nghệ thuật", In
trong Một cõi Trịnh Cơng Sơn, Nxb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa
Ngơn ngữ Đơng Tây.
50. Bùi Vĩnh Phúc (2008), Trịnh Công sơn - Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ
thuật, Nxb Văn hố Sài Gịn, TP Hồ Chí Minh.
51. Lê Minh Quốc (2006), Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
52. Nguyễn Quang Sáng (1990), Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn, Nxb Tác
phẩm mới.

53. Trịnh Cơng Sơn (2012), Thư tình gửi cho một người, Nxb Trẻ Hà Nội .
54. Trịnh Công Sơn (1998), Những bài ca không năm tháng, Nxb Âm nhạc.
55. Trịnh Công Sơn (2001), Người hát rong qua nhiều thế hệ, Nxb Trẻ ấn
hành năm 2001 ( sau ngày mất của nhạc sỹ).
56. Trịnh Cơng Sơn - Bách khoa tồn thƣ, />57. Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thuỵ Kha - Đồn Tử Huyến (2001), Trịnh
Công Sơn - Một người thơ ca - một cõi đi về, Nxb Âm nhạc, Trung tâm
Văn hố Ngơn ngữ Đơng Tây, Hà Nội.
58. Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thuỵ Kha - Đoàn Tử Huyến (2004), Một cõi
Trịnh Cơng Sơn, Nxb Thuận Hố.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

94
59. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
60. Lý Tồn Thắng (2005), Ngơn ngữ học tri nhận - từ lí thuyết đại cương
đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
61. Nguyễn Thanh (1974), “Bƣớc đầu tìm hiểu lối so sánh trong cách nói,
cách viết của Hồ Chủ Tịch”, Tạp chí Ngơn ngữ, số 2.
62. Nguyễn Quý Thành (2000), “Cấu trúc ngữ pháp - ngữ nghĩa của những
câu tục ngữ Việt có dạng “A là B”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ
học Việt Nam, Hà Nội .
63. Bùi Đức Thao (2002), “Về phép so sánh trong tiếng Việt”, Kỷ yếu Ngữ
học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
64. Hồng Tá Thích (2007), Như những dịng sơng (Tản mạn về nhạc sĩ Trịnh
Cơng Sơn), Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
65. Thích Giác Thiện (2007), Vơ thường, Nxb Tổng hợp TPHCM, TP Hồ Chí
Minh.

66. Trần Thị Chung Toàn (1983), “Thang độ phép so sánh và sự phủ định”,
Tạp chí Ngơn ngữ, số 2.
67. Nguyễn Đức Tồn (1990), “Chiến lƣợc liên tƣởng - so sánh trong giao tiếp
của ngƣời Việt Nam”, Tạp chí Ngơn ngữ, số 3.
68. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
69. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng Văn hố – Dân tộc của ngơn ngữ và
tư duy, Nxb Khoa học xã hội.
70. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc đểm tu từ tếng Việt, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
71. Bùi Tất Tƣơm (1997), Giáo trình cơ sở ngơn ngữ học và tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

95
72. Hồng Phủ Ngọc Tƣờng (2005), Trịnh Cơng Sơn và cây đàn Lya của
hoàng tử bé, Nxb trẻ, Hà Nội.
73. Bùi Khắc Việt (1978), “Về tính biểu trƣng của thành ngữ so sánh trong
tiếng Việt”, Tạp chí Ngơn ngữ, số 1.
74. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
75. Nguyễn Đắc Xuân (2003), Trịnh Cơng Sơn - Có một thời như thế, Nxb
Văn học, Hà Nội .
76. Nguyễn Nhƣ Ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lê (2003),
Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
77. Bửu Ý (2003), Một nhạc sĩ thiên tài, Nxb Trẻ, H.65. http:// www.tcshome.org.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

96
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 2
2. Lịch sử của vấn đề .......................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.................................................................................. 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 7
5. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu ............................................................................... 7
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................ 8
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 9
8. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LIỆU DÂN GIAN
TRONG CA TỪ CỦA NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN NHỮNG CA
KHÚC VỀ THÂN PHẬN ............................................................................... 10
1.1. Những vấn đề chung về cuộc đời và sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ..... 10
1.1.1. Quan điểm về nghệ thuật, âm nhạc, ca khúc của Trịnh Công Sơn ........ 11
1.1.2. Nội dung trong các ca từ về thân phận của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ..... 12
1.2. Văn học dân gian trong đời sống văn hóa, xã hội ngƣời Việt Nam.......... 13
1.2.1. Cơ sở của chất dân gian trong các ca khúc về thân phận....................... 15
1.2.2. Ca từ nhạc Trịnh Công Sơn đƣợc dệt lên từ chất liệu dân gian ............. 20
CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CHẤT LIỆU DÂN GIAN CỦA NHẠC SĨ
TRỊNH CÔNG SƠN TRONG CA TỪ NHỮNG CA KHÚC VIẾT VỀ
THÂN PHẬN .................................................................................................. 25
2.1. Tƣ duy huyền thoại trong ca khúc của Trịnh Công Sơn ........................... 26

2.1.1. Khái niệm huyền thoại ........................................................................... 27
2.2 Sử dụng và sáng tạo thể hát ru trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn ............. 33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

97
2.2.1. Hát ru trong dân gian.............................................................................. 33
2.2.2. Nhận diện thể hát ru trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn ......................... 34
2.3. Sử dụng thể đồng dao trong dân gian trong ca từ nhạc trịnh Công Sơn ....... 38
2.3.1. Hát đồng dao trong dân gian .................................................................. 38
2.3.2. Nhận diện thể đồng dao trong ca từ của nhac Trịnh Công Sơn ............. 38
2.3.3. Nhạc Trịnh Cơng Sơn ví nhƣ đồng dao dành cho ngƣời lớn ................. 40
2.4. Sử dụng ca dao trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn .................................... 41
2.4.1. Khái niệm ca dao .................................................................................... 42
2.4.2. Sử dụng truyền thống từ thơ ca dân gian, trong ca từ nhạc Trịnh
Công Sơn .......................................................................................................... 42
2.4.1. Sử dụng những biểu tƣợng, những mơtíp quen thuộc trong dân gian ... 45
2.4.2. Khái niệm biểu tƣợng và biểu tƣợng nghệ thuật trong văn học dân gian .... 45
2.4.3. Những biểu tƣợng dân gian đậm nét trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn .... 46
CHƢƠNG 3: HIỆU QUẢ CỦA CHẤT LIỆU DÂN GIAN TRONG CA
KHÚC NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN .......................................................... 66
3.1. Bức tranh đời chân thực về cuộc đời con ngƣời thời đại qua ca từ của
Trịnh Công Sơn ................................................................................................ 66
3.1.1. Thân phận con ngƣời trong nỗi buồn và sự cô đơn ............................... 66
3.1.2. Con ngƣời bản thể trƣớc sự sống và cái chết, ám ảnh về nỗi tàn phai .. 70
3.2. Vai trò của chất liệu ngôn ngữ dân gian trong nhạc Trịnh Công Sơn ...... 76
3.2.1. Cái đẹp từ ngôn từ .................................................................................. 76
3.2.2. Cái đẹp từ thể thơ ................................................................................... 77

3.3. Chất trữ tình, triết lý trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn ............................ 82
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

×