Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông cửu long từ 1975 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 214 trang )

1
..

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN MẠNH HÙNG

Chuyên

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI

HƯỚNGHOA

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

HỌC


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN MẠNH HÙNG

Chuyên ngành
Mã số


: Văn học Việt Nam
: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM


3

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
1.1. Sau ngày miền Nam đƣợc hồn tồn giải phóng, đất nƣớc bƣớc sang
một giai đoạn lịch sử mới. Văn học cả nƣớc nói chung, văn học đồng bằng
sơng Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng cũng có sự vận động và phát triển, kịp
thời phản ánh đời sống xã hội trƣớc yêu cầu mới của thời đại.
1.2. Truyện ngắn ĐBSCL gắn liền với nhiều nhà văn đƣợc ngƣời đọc
mến mộ nhƣ: Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,…và
gần đây là Nguyễn Ngọc Tƣ. Họ viết hết mình về vùng đất nơi họ sinh ra, lớn
lên và trải nghiệm suốt cả cuộc đời từ nhiều góc độ, phƣơng diện cảm nhận
cũng nhƣ cách thể hiện.
Thật sự thì gần đây có nhiều tác giả truyện ngắn viết về ĐBSCL khá
thành cơng và có nhiều triển vọng sẽ đi xa hơn. Điều đó đã mở ra nhiều
hƣớng đi mới đầy triển vọng cho văn chƣơng vùng ĐBSCL.
1.3. Văn học cũng địi hỏi có sự tổng kết ở từng giai đoạn để tạo thế đi
lên. Mọi phƣơng pháp, mọi phong cách sáng tác đều cần đƣợc khuyến khích
tìm tịi, thể nghiệm.
So với các thể loại văn học khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 phát
triển nhanh về số lƣợng và có những đóng góp đặc sắc về nội dung cũng nhƣ

nghệ thuật, nhất là việc thể hiện đời sống, tâm hồn, tính cách của ngƣời
ĐBSCL trong thời kỳ này.
Thế nhƣng đến nay các cơng trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một số
tác giả nhƣ Sơn Nam, Trang Thế Hy, Phi Vân, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng
… và chủ yếu là những sáng tác của họ trƣớc 1975, và gần đây là một số cơng
trình nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.


4

Ngồi ra, cũng có một vài cơng trình nghiên cứu truyện ngắn ở một số
địa phƣơng, nhƣ truyện ngắn An Giang, Đồng Tháp,…mà chƣa có cơng trình
nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện về truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến
nay.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng Bắc bộ, nhƣng phần lớn cuộc đời
tơi lại gắn bó sâu nặng với ĐBSCL. Vẻ đẹp của „„nắng chói chang vàng tƣơi
lúa hát‟‟ và „„những con ngƣời mặt đẹp nhƣ hoa‟‟ (Lê Anh Xuân) cùng cái
trong trẻo mát lành của một dịng sơng q đỏ nặng phù sa, rồi tình đất, tình
ngƣời, hƣơng rừng, hƣơng biển... Ở nơi đây đã tạo nên một hƣơng vị rất
riêng, cũng nhƣ làm cho chúng tơi thêm gắn bó sâu nặng với vùng đất này,
vừa gần gũi, thân quen, song cũng vừa độc đáo mới mẻ đến vô chừng.
Với những lẽ trên, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề Khảo sát đặc
điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay.
Vẫn biết rằng muốn đạt đƣợc sự thành công ở vấn đề này, chúng tơi sẽ
gặp khơng ít khó khăn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi tổng hợp, đánh giá dựa trên các
nguồn tƣ liệu sau:
Các tham luận trong Hội thảo bàn trịn Văn xi đồng bằng lần thứ 1 tại
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

Lời giới thiệu ở các Tập truyện ngắn và Tuyển tập truyện ngắn từ 1975
đến nay của các nhà văn ở ĐBSCL.
Một số luận văn Cao học thực hiện đề tài về truyện ngắn ĐBSCL trong
phạm vi một tỉnh hoặc một tác giả cụ thể.
Trên các báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), Văn nghệ trẻ, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, Tạp chí Nhà văn…
Trên các website nhƣ:


5

- ;
- , ...
Từ những tƣ liệu thu thập đƣợc, chúng tôi tạm chia thành hai loại ý kiến
sau:
- Ý kiến bàn về những đóng góp nổi bật của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
- Ý kiến bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
2.1. Ý kiến bàn về những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay
2.1.1. Những đóng góp về nội dung truyện ngắn ĐBSCL
Trong bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1975 đến nay Thành tựu và những điều trăn trở, Hồi Phƣơng nhìn nhận:“Truyện ngắn đã
có những cách tân và đạt nhiều thành tựu đáng tự hào về nội dung lẫn hình
thức thể hiện”[123]. Cịn trong bài Đi tìm „„chân dung‟‟ truyện ngắn đồng
bằng sơng Cửu Long, Võ Tấn Cƣờng nhận xét: “Phác thảo chân dung truyện
ngắn ĐBSCL, tơi cảm nhận đƣợc tính cách con ngƣời, sắc màu văn hóa của
vùng đất này‟‟[24]. Trong bài Văn xi đồng bằng sơng Cửu Long: một khu
vực văn xi có nhiều đặc sắc, Chiêm Thành cũng đề cập đến: “tính cách con
ngƣời Nam bộ trong thời hiện đại đa diện và rất phức tạp, chứ khơng phải
đơn giản là phóng khống, hào hiệp, giàu tình nghĩa nhƣ cái nhìn bất di bất

dịch của một số ngƣời”[135, tr.53]. Còn ở bài Cá tính và bản lĩnh văn xi
Nam bộ, Hồ Tĩnh Tâm đã chỉ ra những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ
1975 đến nay về nội dung phản ánh: „„Dựng nên bức chân dung về tâm linh,
tình cảm của con ngƣời Nam bộ trong cuộc sống. Đó là những vấn đề luôn
tạo nên niềm trăn trở, thao thức trong đời sống hôm nay nhƣ: nỗi đau sau khi
chiến tranh qua đi; thân phận con ngƣời bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh; khát


6

vọng tình yêu và hạnh phúc; tự vấn lƣơng tâm trƣớc những những gì đã và
đang diễn ra trong cuộc sống‟‟[147].
Với bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long - một chặng đƣờng phát
triển, tác giả đánh giá cao một số tác phẩm có giá trị đích thực đáng đƣợc
quan tâm với hai mảng đề tài lớn trong sáng tác văn học sau 1975 là „„chiến
tranh cách mạng và quá trình xây dựng, đổi mới của đất nƣớc‟‟. Trong đó,
vấn đề tự vấn lƣơng tâm diễn ra xuyên suốt ở hai mảng đề tài này “Thân phận
nhân vật trong các tác phẩm thƣờng gởi một phần cuộc đời trong chiến tranh
bom đạn, một phần thao thức vƣơn tới cuộc sống mới. Trong kháng chiến, văn
học hƣớng con ngƣời vƣơn tới giành chiến thắng; ngƣợc lại thời bình, văn
học rộng đƣờng khai thác hơn, khắc họa hình tƣợng con ngƣời với nhiều mối
quan hệ, con ngƣời trong đời thƣờng, trong nghịch cảnh, bất hạnh, niềm vui
và nỗi đau,…”[134, tr.57].
Trong bài Một phong vị truyện ngắn đồng bằng riêng biệt trên trang Web
Văn nghệ sơng Cửu Long, Tƣờng Vi nhận xét: “Có truyện ngắn còn đi vào
tâm trạng phức tạp của những con ngƣời thành thị, bị dằn vặt giữa những
mâu thuẫn tiền tài và khát vọng tình yêu,... hoặc câu hỏi lớn về căn bệnh quan
liêu của các quan chức…Dù dƣới góc nhìn nào, các tác giả cũng mở cho
nhân vật một lối thoát, chứa đựng nhân sinh quan: Cuộc sống vốn sẽ không
quá khắc nghiệt với những ai biết vƣơn lên và phục thiện”[195].

Còn qua bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay thành tựu và những điều trăn trở, Hồi Phƣơng cho rằng:„„Truyện có sự vận
động và phát triển rất nhanh, đáp ứng kịp thời sự chuyển đổi của xã hội và
con ngƣời sau chiến tranh. Chính nhờ sự chuyển tải nhanh và kịp thời nhiều
vấn đề bức xúc, gần gũi với đời sống xã hội, cùng với giọng văn trầm lắng,
nhẹ nhàng, tâm tình nhƣ len lỏi vào tận đáy sâu tâm hồn con ngƣời‟‟[123].


7

Với bài Nhà văn Nguyễn Thanh - ngƣời nặng nợ văn chƣơng, tác giả
khái quát nội dung phản ánh trong sáng tác của ơng:“Truyện của ơng nhiều
chi tiết nhỏ nhít mà sống động lạ lùng, đọc lên cứ nhƣ mình đang ở đó, trong
hồn cảnh đó, nói mấy câu dân dã đó…nếu ngày xƣa ơng say mê xây dựng
hình tƣợng ngƣời lính thì sau này, nhân vật của ơng chủ yếu là nông dân. Họ
hào sảng, tốt bụng, nhân nghĩa nhƣng phải trăn trở, day dứt rất nhiều trong
cuộc mƣu sinh. Và những ngƣời phụ nữ luôn hiện ra với tất cả vẻ đẹp, cái đẹp
lấp lánh từ đau khổ, hy sinh, từ sự vùi dập…”[173, tr.29].
Trong lời giới thiệu tập truyện ngắn Bóng chiều hơm - Nguyễn Thanh,
Nguyễn Thị Thanh Xuân đƣa ra nhận xét đối với cảm hứng về con ngƣời và
cuộc sống ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc: „„Cảm hứng kín đáo xuyên suốt
tác phẩm của Nguyễn Thanh là cái thƣờng ngày của cuộc đời. Bằng một bút
pháp trầm tĩnh, chân tình, đơi khi cịn có phần chân phƣơng trong cách viết,
Nguyễn Thanh đƣa chúng ta đến với những cuộc sống và thế giới tinh thần
của những con ngƣời bình thƣờng ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Bằng
những chi tiết nhỏ tƣơi nguyên, trang viết của Nguyễn Thanh phản ánh cuộc
sinh sôi thầm lặng hay cuộn chảy ào ạt ở Cà Mau trong dịp xây dựng. Ở đó
có những con ngƣời làm việc không mệt mỏi với một ý thức lao động đẹp đẽ
không hề nhân danh cho những giá trị lớn lao. Ở đó đầy ắp tiếng cƣời con
trẻ, tiếng sóng biển, ánh lửa đốt đồng, tiếng vịt gọi bầy, tiếng xuồng lao trong
đêm trên kênh rạch thoảng mùi bùn nồng ấm‟‟[133].

Bàn về Thế giới truyện ngắn Bích Ngân, Huỳnh Phan Anh nhận định:
“Qua từng trang toát ra hơi thở và nhịp đập của vùng đất thân thƣơng nơi
tận cùng của đất nƣớc, tác giả đã đƣa ngƣời đọc đến hoặc đến gần hơn, với
những mảnh đời và cảnh đời làm nên hồn đất lẫn hồn ngƣời, hiền hoà và
mãnh liệt, đã mở ra nhiều cánh cửa nhƣng cịn đó bao điều bí ẩn. Ngơn ngữ
và phong cách Bích Ngân in rõ những nét đặc trƣng Nam bộ…Nhƣng điều


8

đáng nói và cũng hiện rõ trong tài năng của cô là chất giọng Nam bộ vẫn in
đậm trên từng trang viết nhƣng không nặng phần câu nệ hay cứng nhắc đến
cƣờng điệu trong từng câu, từng chữ mà vẫn tốt ra nét tinh tế và trữ tình
riêng mở toang mọi giới hạn…Truyện ngắn Bích Ngân thƣờng dung dị, với
những con ngƣời và cuộc sống thật bình thƣờng, gần gũi, dễ tìm tới nhất, dễ
bắt gặp nhất…”[7].
Đánh giá về nhà văn Trang Thế Hy, Chiêm Thành trong bài văn xuôi
ĐBSCL có nhiều đặc sắc đã nhận xét: „„Ơng đã ý thức đƣợc sức nặng của
từng con chữ - sức nặng ấy có đƣợc là nhờ sự chiêm nghiệm về cuộc đời mà
trên hết là nhờ nỗi đau đớn trong ý thức trả những món nợ nƣớc mắt của thế
gian”[135].
Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có nhận xét khá thú vị về Nguyễn Ngọc Tƣ,
ơng ví: “Cơ ấy nhƣ một cái cây tự nhiên mọc lên giữa rừng tràm hay rừng
đƣớc Nam bộ vậy, tƣơi tắn lạ thƣờng, đem đến cho văn học một luồng gió mát
rƣợi, tinh tế mà chân chất, đặc biệt Nam bộ”[115].
Trong Bài học văn chƣơng từ cánh đồng bất tận, Bùi Việt Thắng đã có
những nhận xét khá sắc sảo về nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tƣ: “Nguyễn Ngọc
Tƣ đã xây dựng biểu tƣợng văn chƣơng và ngơn ngữ văn chƣơng, trong đó
cánh đồng là một biểu tƣợng giàu ý nghĩa. Cánh đồng không phải là cánh
đồng mẹ, nơi lƣu giữ tâm thức của cộng đồng, nơi truyền tình thân yêu nƣớc,

là bằng chứng về sự cố kết máu thịt giữa con ngƣời và đất đai…mà là cánh
đồng chết”[144].
Nguyễn Lâm Điền - Huỳnh Hải Đăng cũng đã khái quát những dấu ấn
văn hóa của vùng đất ĐBSCL đƣợc Nguyễn Ngọc Tƣ thể hiện sinh động
trong các truyện ngắn của chị mà nổi bật nhất là: “Cách nhà văn miêu tả một
trong những nét đẹp về đời sống tinh thần của ngƣời ĐBSCL mà những vùng
miền khác không có đó là đờn ca tài tử, cải lƣơng”[46].


9

Nghiên cứu truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay (qua Tuyển tập truyện
ngắn đồng bằng sông Cửu Long 1975-1995 và Tuyển tập 18 Nhà văn đồng
bằng sông Cửu Long), Trần Mạnh Hùng cho rằng: “Cùng với sự đổi mới và
phát triển của văn học Việt Nam từ sau 1975, truyện ngắn ĐBSCL đã thể hiện
đƣợc tâm hồn và tính cách của ngƣời ĐBSCL trong thời kỳ này” và “Với
hƣơng sắc riêng, truyện ngắn ĐBSCL đã lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp đa
dạng và phong phú cho nền văn học dân tộc”...„„Sự mộc mạc, chân thật, bộc
trực mà luôn thắm đƣợm tình nghĩa” của con ngƣời nơi đây. Ngƣời đọc
cũng:“nhận ra phần nào đặc điểm nổi bật của cảnh quan địa lý, lịch sử, văn
hố và tâm hồn tính cách con ngƣời của vùng đất này”[74, tr.702-703].
Giới thiệu về Truyện ngắn Ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ có
nhận xét rất chính xác thể hiện đƣợc nét đặc trƣng của thiên nhiên vùng sơng
nƣớc: “Có một điều đặc biệt thú vị khi đọc truyện ngắn của ba tác giả nữ
ĐBSCL, đó là ngƣời đọc ln bắt gặp một không gian đầy quyến rũ và thơ
mộng của vùng sông nƣớc Cửu Long với những bờ kênh, con rạch, với hình
ảnh những miệt vƣờn, những cù lao xanh hút tầm mắt và những thú vui điền
dã mang đậm đặc trƣng của miền đất Nam bộ”[196, tr.11].
Trong bài giới thiệu truyện ngắn trên Website Văn nghệ sông Cửu Long
với tựa đề Một phong vị đồng bằng riêng biệt, Tƣờng Vi viết: “Tập truyện đã

gợi lên cho ngƣời đọc hình ảnh sơng nƣớc, làng quê với cảm giác nhớ nhung,
khắc khoải về một vùng đất, đặc biệt là trầm buồn trong những ngày mƣa
lũ,… cho ngƣời đọc những câu chuyện thú vị về một vùng đất hào sảng, nơi
có những tay “sát cá”, những buổi “ ăn ong”, những vùng nƣớc cá tơm nhiều
vơ kể‟‟[195].
Cịn ở bài Thiên nhiên và con ngƣời Nam bộ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ, Tiền Văn Triệu nhận định: „„Dịng sơng và cánh đồng rộng là khơng
gian phù hợp để những câu hò, câu ca vọng cổ cất lên mỗi khi gặp nỗi buồn‟‟


10

Nguyễn Thanh lại có cái nhìn khái qt hơn về sự trù phú của thiên
ĐBSCL: “Vốn là một vùng châu thổ nhiệt đới, đƣợc tạo thành do phù sa Cửu
Long bồi tụ…đây là vùng đất trẻ, đất mới với điều kiện địa lý đặc thù thiên
nhiên ƣu đãi”[134, tr.59].
Từ những ý kiến trên, chúng tơi nhận thấy, mỗi cơng trình nghiên cứu có
cách tiếp cận khác nhau. Hƣớng tiếp cận chủ yếu của các cơng trình trên là
hƣớng tiếp cận nhân học và hƣớng tiếp cận văn hóa học (đƣơng nhiên không
thể thiếu hƣớng tiếp cận ngữ văn học). Theo những hƣớng tiếp cận này, các
nhà nghiên cứu trên khai thác tập trung vào đặc trƣng tính cách con ngƣời và
đặc trƣng văn hóa mà các truyện ngắn ĐBSCL đã vẽ nên qua lăng kính đạo
đức - thẩm mỹ và cá tính của mỗi nhà văn. Nhìn chung, các cơng trình trên đã
đề cập đến những đóng góp nổi bật ở phƣơng diện nội dung của truyện ngắn
ĐBSCL sau 1975.
2.1.2. Những đóng góp nổi bật về nghệ thuật
Trong tham luận hội thảo Bàn trịn văn xi ĐBSCL, lần I, Hồ Tĩnh Tâm
có nhận xét: “Một số cây bút văn xi ĐBSCL đã sử dụng thành thục các giá
trị đặc trƣng ngơn ngữ Nam bộ, thậm chí cịn nâng cao ngơn ngữ Nam bộ lên
tầm cao của ngôn ngữ nghệ thuật”[147]. Ông còn cho rằng truyện ngắn

ĐBSCL đã dựng đƣợc“chân dung về tâm linh, tình cảm của ngƣời Nam bộ
đúng thứ ngôn ngữ rất thuần Nam bộ”[147].
Bàn về nghệ thuật truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, Võ Tấn Cƣờng
cho rằng: “Truyện ngắn ĐBSCL có diện mạo riêng với những phong cách
nghệ thuật mang đậm nét đặc điểm của văn hoá truyền thống”[24].
Nhận xét về cách viết của một số tác giả truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay, Hoài Phƣơng nhận định: “Đa số các nhà văn ở ĐBSCL có cách viết
uyển chuyển và nhẹ nhàng hơn, ít tuân thủ theo các kết cấu truyền thống là
phải có hậu, thậm chí nhiều truyện khơng có phần kết giống nhƣ một cánh


11

cửa khép hờ. Đặc biệt, có một số tác giả đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân
vật giúp cho ngƣời đọc cảm thấy thích thú”[123].
Nhận định về nghệ thuật sử dụng phƣơng ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
của ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ viết: „„Ngôn ngữ của vùng đất
Nam bộ với những phƣơng ngữ, thổ ngữ độc đáo hay những đặc trƣng trong
lời ăn, tiếng nói của ngƣời Nam bộ ln đƣợc sử dụng nhuần nhị, tự nhiên
trong mỗi tác phẩm đã tạo nên cho truyện ngắn của ba tác giả nữ một bản sắc
riêng, tạo ấn tƣợng đối với ngƣời đọc‟‟[196, tr.12].
Nhận xét về nghệ thuật sử dụng phƣơng ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ, Huỳnh Cơng Tín viết: “Nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật,
chị đã sử dụng ngôn từ của phƣơng ngữ Nam bộ khá thành cơng trong sáng
tác của mình. Điều này góp phần làm nên một văn phong riêng ở chị. Tất
nhiên có thể có ngƣời khơng đồng tình với những nhận định này vì cho rằng,
trong tác phẩm văn chƣơng mà sử dụng quá nhiều từ địa phƣơng thì sẽ gây
trở ngại cho ngƣời đọc, hạn chế độc giả. Nhƣng, để có đƣợc những sáng tác
phản ánh sinh động thực tại, khơng gì tốt hơn là phải dùng đƣợc chất liệu
ngôn từ của thực tại cần phản ánh”[152, tr.4].

Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tƣ qua Cánh đồng bất
tận, Đặng Vũ nhận xét: “Nhà văn có lối viết truyện thật hay, khơng theo
khn phép nào, cũng chẳng theo chủ nghĩa này nọ, khơng gị bó, trái lại rất
tự nhiên, thoải mái,“viết nhƣ chơi”[184].
Trần Phỏng Diều bàn về Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ: “Có thể nói, thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ
chính là hình tƣợng ngƣời nghệ sỹ, hình tƣợng ngƣời nơng dân và hình tƣợng
con sơng đƣa mình uẩn khúc, chở nặng tình ngƣời”[31].


12

Cịn ở bài Điểm nhìn và lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Ông Thiềm
Thừ của Trần Kim Trắc, Đỗ Thị Hiền nhận định: Truyện ngắn này “gửi đến
chúng ta một thơng điệp về nhân cách con ngƣời từ góc nhìn văn hố”[69].
Trong bài Yếu tố giọng điệu trong truyện ngắn Sơn Nam, Trần Phỏng
Diều nhận xét: “Điều dễ nhận thấy nhất trong giọng điệu truyện ngắn Sơn
Nam đó là giọng ngậm ngùi, giọng tâm tình, hồi niệm, giọng rề rà, chậm rãi.
Có thể nói giọng rề rà, chậm rãi là một đặc trƣng trong truyện ngắn của
ông...”[30].
Bàn về phong cách Sơn Nam, có ý kiến cho rằng: „„Văn Sơn Nam khơng
ồn ào nhƣ gió chƣớng, lại khơng trong veo nhƣ nƣớc cất trong phịng thí
nghiệm, mà nó là thứ nƣớc chất lỏng hồng hào có tên phù sa, chỉ cần vốc lên
đã thấy mỡ màu cả bàn tay... Những cảnh, những đời, những tâm sự của ơng
dù với tính cách hảo hớn, hào hùng nhất, sảng khoái và chịu chơi nhất bao
giờ cũng pha một giọng kể trầm buồn, u hoài, xa vắng‟‟[58].
Ở bài Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm sâu một phong cách Nam Bộ,
Trần Vệ Giang đã viết: “Không phải kiểu Nam bộ quê rặt, địa phƣơng tính,
văn chƣơng của Nguyễn Quang Sáng có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dịng
sơng, cái khống đạt, giản đơn của con ngƣời miền sông nƣớc. Và quan trọng

hơn hết là, ơng thâu tóm vào tác phẩm cái hồn cốt Nam bộ”[187].
Ngồi các cơng trình đã đề cập trên đây, trong các trƣờng đại học ở khu
vực và thành phố Hồ Chí Minh sinh viên, học viên cao học ngành ngữ văn đã
thực hiện luận văn với đề tài về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975. Trong số đó
đáng chú ý là đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Đồng Tháp giai đoạn
1975 đến 2005 (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn Anh Dân). Tác giả luận văn đã
phát hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới nhân vật, sự đặc sắc trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của truyện ngắn Đồng Tháp trong cách thể hiện xung
đột, sự kiện, trong lựa chọn chi tiết và sử dụng ngôn ngữ… Đề tài Những đặc


13

điểm nổi bật của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn
Thị Thu Thuỷ) là một công trình nghiên cứu cơng phu và nghiêm túc về
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ. Tác giả luận văn khẳng định: „„Mọi sự ồn ào
rồi sẽ qua đi, những giá trị đích thực sẽ ở lại, có thể nói Nguyễn Ngọc Tƣ là
gƣơng mặt của văn học Việt Nam đƣơng đại, chất nhân văn trong sáng tác
của chị là điều làm đọc giả say mê và thích thú. Phải chăng đó là do tình
nhân ái, tính nhân bản là gốc rễ phẩm chất của một nhà văn tài năng‟‟...
Nhìn chung, các ý kiến đã chỉ ra đƣợc một số đóng góp ở phƣơng diện
nghệ thuật nhƣ phong cách, thị hiếu thẩm mỹ, giọng điệu, ngôn ngữ truyện,...
đặc biệt nghệ thuật sử dụng phƣơng ngữ Nam bộ trong tác phẩm. Vốn ngôn từ
địa phƣơng dƣới bàn tay nhào nặn, sắp đặt câu chữ khéo léo của nhà văn đã
góp phần quan trọng cho thành công về mặt nghệ thuật của các nhà văn
ĐBSCL.
2.2. Bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay
Trong bài Đi tìm„„chân dung‟‟ truyên ngắn ĐBSCL, Võ Tấn Cƣờng nhận
xét về sự hạn chế trong việc xây dựng nhân vật và phong cách diễn đạt: “Đọc
hàng trăm truyện ngắn ĐBSCL, tơi nhận ra sự đóng băng trong việc miêu tả

tâm lý, tính cách nhân vật của một số tác giả... Truyện ngắn ĐBSCL chƣa có
nhiều tác phẩm tạo dựng đƣợc những điển hình nhân vật có tầm nhìn, có khả
năng ý thức về cái tơi của con ngƣời trong mối quan hệ với cuộc đời và vũ
trụ. Các nhà văn chƣa đào sâu vào miền bí ẩn của tâm linh con ngƣời với
nhƣng xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa cao thƣợng và thấp hèn... Các
nhà văn ĐBSCL chƣa xây dựng đƣợc những nhân vật có tính cách, tầm vóc
ngang tầm hoặc cao hơn những ngƣời mẫu trong cuộc sống. Hầu hết các
truyện ngắn viết theo lối kể chuyện truyền thống, nhịp điệu và mạch truyện
chậm thiếu độ căng về cấu trúc‟‟[24, tr.14].


14

Cũng trong bài Đi tìm „„chân dung‟‟ truyện ngắn ĐBSCL, khi bàn về
ngơn ngữ truyện, Võ Tấn Cƣờng có những nhận xét khá thẳng thắn: „„Ngôn
ngữ kể chuyện trong nhiều truyện ngắn pha tạp nhiều khẩu ngữ, thiếu sự gọt
giũa, chắt lọc....‟‟[24, tr.14].
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tƣ, Bùi Việt Thắng nhận
xét: “Văn viết Nguyễn Ngọc Tƣ gần với văn nói”[146].
Trong bài Bàn trịn văn xi ĐBSCL khi nhìn nhận về hạn chế của truyện
ngắn, nhà văn Nguyễn Ngọc Tƣ đã dẫn ý kiến của Nguyên Tùng: „„Thừa tả
thực mà thiếu tƣởng tƣợng. Truyện ngắn của các tác giả ĐBSCL chúng ta dễ
gây cho ngƣời đọc cảm giác:„„Đó là câu chuyện có thật‟‟.„„Ngun liệu thơ‟‟
cịn đan bện quá nhiều trong tác phẩm hƣ cấu. Chính điều này đã làm giảm
sự hứng thú cho ngƣời đọc...‟‟[147, tr.41].
Nhìn chung các nghiên cứu về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 đều có
đƣợc những tìm tịi, khám phá đáng q, đáng trân trọng. Lẽ dĩ nhiên cơng
trình của chúng tơi sẽ đƣợc thừa hƣởng nhiều ý kiến quý báu mà các nghiên
cứu trƣớc đó đã gợi ra hoặc khẳng định. Trên cơ sở đó, chúng tơi có điều kiện
để đi sâu hơn, phát hiện thêm những điều mới mẻ về truyện ngắn ĐBSCL sau

năm 1975.
3. Mục đích nghiên cứu
Văn chƣơng nói chung, truyện ngắn nói riêng cũng địi hỏi có sự tổng kết
ở từng giai đoạn. Vì vậy, khi thực hiện đề tài Khảo sát đặc điểm truyện ngắn
đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay, chúng tơi có điều kiện tiếp cận
tồn diện vấn đề. Qua đó, luận án làm rõ quan niệm truyện ngắn về ĐBSCL
cũng nhƣ nhận diện diện mạo, sự vận động và những đặc điểm chủ yếu của
thể loại này.
4. Đối tƣợng và giới hạn phạm vi nghiên cứu


15

Sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian từ 1975, vì đây là năm đánh dấu
sự chuyển biến lớn lao của đất nƣớc. Văn học nói chung, văn học ĐBSCL
cũng bắt đầu vận động theo qui luật đời thƣờng.
So với các thể loại khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975, có bƣớc phát
triển nhanh cả về số lƣợng và chất lƣợng. Vì vậy, luận án chọn thể loại truyện
ngắn để khảo sát. Cụ thể các tuyển tập sau:
- Tuyển tập truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 - 1995,
Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
- Tuyển tập 18 Nhà văn đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản
Mũi Cà Mau.
- Truyện ngắn Ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất
bản Văn học.
- Truyện ngắn miền Tây, Nhà xuất bản Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.
- Truyện ngắn Đồng Tháp, An Giang và truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tƣ.
Nghiên cứu văn học phạm vi một vùng lãnh thổ, do vậy, ngoài khảo
sát truyện ngắn của tác giả truyện ngắn ĐBSCL là hội viên Hội Nhà văn Việt

Nam, chúng tơi cịn chọn khảo sát truyện ngắn của tác giả là hội viên Hội Văn
học - Nghệ thuật ở các địa phƣơng, để có cái nhìn tồn diện hơn về diện mạo
cũng sự vận động của thể loại truyện ngắn ở ĐBSCL từ 1975 đến nay.
Bên cạnh đó, luận án cịn mở rộng phạm vi khảo sát một số truyện
ngắn ĐBSCL trƣớc năm 1975 và ở vùng miền khác để có cơ sở đối chiếu, so
sánh góp phần làm rõ hơn những nét riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
Chọn vấn đề Khảo sát truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, chúng tôi đã
tiếp cận với một đối tƣợng khá rộng và chƣa ổn định. Vì vậy, luận án chỉ khảo


16

sát những vấn đề chủ yếu về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn ĐBSCL
từ 1975 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi xuất phát từ quan điểm Mác - xít để nhìn nhận và lí giải mối
quan hệ giữa thực tiễn đời sống ở ĐBSCL với cảm hứng sáng tạo nghệ thuật
và những vấn đề đƣợc các nhà văn phản ảnh trong tác phẩm; đồng thời,
ngƣời viết sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp hệ thống
Nghiên cứu truyện ngắn ĐBSCL phải đặt trong sự vận động phát triển
của truyện ngắn Việt Nam sau 1975, và bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá của
vùng ĐBSCL.
5.2. Phương pháp loại hình
Với phƣơng pháp này, luận án tìm hiểu đặc điểm của truyện ngắn
ĐBSCL từ 1975 đến nay dựa trên những đặc trƣng của thể loại truyện ngắn.
5.3. Phương pháp miêu tả, so sánh
Để làm rõ diện mạo và đặc điểm riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.

5.4. Phương pháp liên ngành
Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của đề tài có sự liên quan chặt chẽ đến
vấn đề và lịch sử, xã hội, văn hoá và địa lý tự nhiên của vùng đất Nam bộ, vì
vậy sự kết hợp phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành giữa các lĩnh vực là sự
cần thiết.
6. Những đóng góp của luận án
6.1. Về giá trị khoa học
Đóng góp của luận án là làm rõ quan niệm về truyện ngắn ĐBSCL, cũng
nhƣ nhận diện diện mạo, sự vận động và đặc điểm chủ yếu của truyện ngắn
ĐBSCL từ 1975 đến nay.


17

6.2. Về giá trị thực tiễn
Chúng tôi hi vọng luận án phần nào sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích
đối với các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm đến truyện ngắn ĐBSCL
sau 1975.
Mặt khác, kết quả luận án đạt đƣợc có thể là cơ sở cho các nhà biên soạn
lựa chọn đƣợc những truyện ngắn ĐBSCL tiêu biểu để đƣa vào sách giáo
khoa hoặc tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu môn văn
học ở bậc học phổ thông và đại học.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án có
ba chƣơng:
Chƣơng 1: Nhìn chung về truyện ngắn đồng bằng sơng Cửu Long từ
1975 đến nay.
Chƣơng 2: Những cảm hứng trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu
Long từ 1975 đến nay.
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật của truyện ngắn đồng bằng

sông Cửu Long từ 1975 đến nay.


18

Chƣơng 1
NHÌN CHUNG VỀ TRUYỆN NGẮN
ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG TỪ 1975 ĐẾN NAY
1.1.Vài nét về lịch sử, xã hội và văn hóa vùng đồng bằng sơng Cửu Long
1.1.1. Vài nét về lịch sử, xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nam bộ bao gồm hai vùng đất có nét riêng là Đông Nam bộ và Tây Nam
bộ - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Theo Mạc Đƣờng, trong bài viết: Vấn đề dân cƣ và dân tộc ở đồng bằng
sông Cửu Long thì „„Khái niệm „„đồng bằng sơng Cửu Long‟‟ đƣợc phổ dụng
rộng rãi từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến nay. Đồng bằng sông
Cửu Long là vùng đất miền Tây Nam Bộ, là nơi có sông Tiền, sông Hậu và
các chi lƣu nhỏ của sông Mêcông chảy ra biển mà nhân dân ta từ xƣa quan
niệm là chín rồng (Cửu Long) phun nƣớc để tƣới vùng đất đai này‟‟[162,
tr.54].
ĐBSCL là vùng đất tiếp nối địa hình bán sơn địa với một đồng bằng
châu thổ phẳng và thấp. Với diện tích khoảng 39.568 km2, ĐBSCL gồm 13
tỉnh thành: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang,
Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, và thành phố Cần
Thơ, với dân số trên 21 triệu ngƣời, nơi đây:
Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển bờ lai láng, cá bầy đua bơi
Nói đến ĐBSCL là nói đến một thực tại lịch sử - lịch sử khai phá vùng
đất đất Nam bộ nói chung và ĐBSCL nói riêng. Trƣớc thế kỷ XVII, vùng đất
này ngủ yên trong vẻ hoang sơ u tịch, với dân số bản địa ít ỏi và thƣa thớt.
Sang thế kỷ XVII, dƣới thời các Chúa Nguyễn cƣ dân ngƣời Việt ở miệt ngoài

di cƣ vào đây lập nghiệp khai phá. Và thực dân Pháp tiếp nối tiếp nối q
trình đó trong chính sách khai thác thuộc địa.


19

ĐBSCL trong suốt tiến trình lịch sử của mình ln trải qua những biến
cố liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc.
Điểm đặc trƣng nhất khi nói đến ĐBSCL là ngƣời ta dễ dàng liên tƣởng
đến một vùng sông nƣớc. Ở đây những dịng sơng xẻ ngang, xẻ dọc, những
con rạch chằng chịt ôm lấy những cánh đồng lúa bao la, ơm lấy xóm ấp tạo
nên một hình thái giao thông hết sức đa dạng. ĐBSCL đƣợc coi là vƣơng
quốc của sơng rạch. Chính vì vậy mà ngƣời dân miền Tây có thể ngồi trên ghe
đi khắp vùng đồng bằng, qua các thành phố, thị trấn, xóm ấp, miệt vƣờn... mà
không phải đặt chân lên bờ. Các hoạt động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày của
ngƣời dân luôn gắn bó với mọi biến động của dịng nƣớc, của con nƣớc. Nếu
ngoài Bắc ngƣời dân bám lấy mặt đƣờng để làm ăn buôn bán, ở ĐBSCL
ngƣời dân bám lấy mặt sơng, mặt kênh mà sinh sống. Có chỗ một dãy dài vài
ba cây số, dân làm nhà chen chúc hai bờ sông, sàn nhà mấp mé mặt nƣớc.
Nhà nào cũng hƣớng ra mặt sông, mở cửa là bƣớc xuống xuồng. Sơng rạch ở
đây cịn đem phù xa nƣớc ngọt bồi đắp, tƣới mát cho những miệt vƣờn đầy ắp
trái cây, những cánh đồng lúa tƣơi tốt và cá tôm nhiều vô kể. Dƣờng nhƣ con
ngƣời nơi đây đã gắn chặt cuộc đời mình với sơng nƣớc, nơi nào có sơng,
rạch là có ghe, xuồng. Có chiếc ghe để làm ăn sinh sống là là nhu cầu và ƣớc
vọng của ngƣời dân. Nhiều gia đình đời này qua đời khác lập nghiệp bằng
chiếc ghe, coi nó nhƣ ngơi nhà của mình. Nhiều ghe thuyền tụ lại tạo nên khu
dân cƣ nổi, chợ nổi trên sơng.
Ngƣời xƣa đã nói Thiên - Địa - Nhân hợp nhất, nghĩa là trời, đất, con
ngƣời luôn có mối giao kết liên quan đến nhau. Vùng đất, thời tiết nào con
ngƣời ở đó có phong cách, sắc thái riêng của vùng đó, nó cũng nhƣ trái cây,

con vật đặc sản ấy.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, ĐBSCL cùng cả nƣớc hân hoan mừng chiến
thắng. Thế nhƣng vết thƣơng chiến tranh chƣa lành, ngƣời dân các tỉnh biên


20

giới lại phải đối đầu với chiến tranh biên giới Tây Nam. Bên cạnh đó là mn
vàn khó khăn khác : nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, nhiều vùng nơng thơn bị
hoang hố, cơng nghiệp khơng đáng kể, nạn thiếu ăn xảy ra nghiêm trọng, rồi
lũ lụt, dịch bệnh... Nhƣng với ý chí quyết tâm và tinh thần khơng sợ gian khổ,
ngƣời dân ĐBSCL từng bƣớc tạo nên những thành tựu rất đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hố xã hội. Đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân từng bƣớc đƣợc cải thiện, trình độ dân trí đƣợc nâng lên.
Sau ngày giải phóng ĐBSCL các Đài truyền thanh huyện, thị; Báo, Đài
phát thanh - truyền hình tỉnh, thành phố đi vào hoạt động, kịp thời phục vụ
đời sống tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trong vùng. Các Hội văn học
nghệ thuật, Tạp chí văn nghệ là nơi phát hiện, đào tạo đội ngũ sáng tác và giới
thiệu tác phẩm của họ đến công chúng.
Từ khi đất nƣớc bƣớc vào cơng cuộc đổi mới, các lĩnh vực văn hố, xã
hội, đời sống có những biến chuyển khá rõ nét. Phong trào văn nghệ quần
chúng đƣợc duy trì và chất lƣợng hoạt động ngày càng đƣợc nâng cao. Các lễ
hội truyền thống đƣợc khơi phục có chọn lọc, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân. Các loại hình hoạt động văn hoá truyền thống nhƣ đờn ca tài tử, sân
khấu cải lƣơng cũng đƣợc duy trì và phát triển ở nhiều địa phƣơng.
1.1.2. Vài nét về văn hóa vùng đồng bằng sơng Cửu Long
Nhà nhiên cứu văn hố Ngơ Đức Thịnh chia đất nƣớc ta thành bảy vùng
văn hố, trong đó văn hố Nam bộ là vùng thứ bảy và có đặc điểm là vùng
đất mới. Việc phân vùng văn hoá đƣợc xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa
văn hoá lịch sử và địa lý của một vùng và gọi tắt là vùng văn hoá.„„Vùng văn

hoá là một vùng lãnh thổ, có những tƣơng đồng về hồn cảnh tự nhiên, dân
cƣ sinh sống ở đó từ lâu có mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử có những tƣơng
đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã trải qua các mối quan
hệ giao lƣu, ảnh hƣởng văn hoá qua lại mật thiết, nên từ lâu đã hình thành


21

những sắc thái văn hoá chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hố vật chất và
văn hố tinh thần, có thể phân biệt với những vùng văn hoá khác‟‟[150, tr.64].
Trong mỗi vùng nhƣ vậy lại có những tiểu vùng và có những đặc trƣng riêng
lẻ.„„Vùng văn hố Nam bộ, xét trên cả phƣơng diện địa lý và lịch sử, đều là
vùng thứ bảy và có ba tiểu vùng Đơng Nam bộ, Tây Nam bộ và tiểu vùng Sài
Gòn - Gia định‟‟[154, tr.17].
Điều kiện địa lý và lịch sử làm cho ĐBSCL có những nét đáng lƣu ý về
mặt văn hố. Đây là nơi cộng cƣ của nhiều tộc ngƣời nhƣ Việt, Hoa, Khmer,
Chăm trong đó ngƣời Việt đóng vai trị chính. Ngay ngƣời Việt cũng là dân
„„tứ chiếng‟‟ gồm nhiều lớp ngƣời với nhiều nguyên nhân từ Bắc và Trung bộ
hội nhập về đây. Cho nên, đây là nơi diễn ra q trình giao lƣu văn hố giữa
các tộc ngƣời, là vùng văn hoá với nhiều sắc thái đặc trƣng. Những ngƣời Việt
đầu tiên đến định cƣ ở vùng đất mới đều từ miền Bắc và miền Trung. Họ đến
và mang theo vốn văn hóa gốc rễ của mình. Bốn nguồn văn hóa cộng lại
thành một nền văn hóa cộng cƣ đặc trƣng của ĐBSCL trong nền văn hóa Việt
Nam. Đó là một nền văn hóa vơ cùng phong phú và lạ lẫm. Nếu ngƣời Việt có
những làn điệu cải lƣơng hay những câu hị, điệu lý thì ngƣời Khmer lại thể
hiện bản sắc của mình trong điệu múa roăm - vuông, hát đối đáp Aday hay
nhịp trống Chay - dăm. Nếu ngƣời Chăm có những hoạt động nghệ thuật sôi
động trong những ngày kết thúc tháng Ramada sinh nhật Muhamed hoặc các
dịp hơn nhân cƣới hỏi thì ngƣời Hoa lại góp vào đời sống văn hóa Nam bộ
những câu hát Tiêu, hát Quảng...

Nhƣng sức hấp dẫn mãnh liệt nhất của mảnh đất này vẫn là những trang
sử đấu tranh chói lọi thể hiện tinh thần bất khuất và ý chí quật cƣờng của
những ngƣời nơng dân lƣu tán “từ thửa mang gƣơm đi mở cõi” để chống chọi
với thiên nhiên khắc nghiệt trên vùng đất “muỗi kêu nhƣ sáo thổi, đỉa lội lền
nhƣ bánh canh”.


22

ĐBSCL cũng là vùng đất hội nhập nhiều luồng văn hóa Đơng - Tây
khác nhau nên cốt cách con ngƣời và nghệ thuật hấp thu đƣợc những sắc thái
và linh khí của văn hóa các dân tộc. Q trình đó đã bồi đắp nên những giá trị
nhân văn, hình thành những giá trị văn hoá mang sắc thái riêng cho vùng đất
này.
ĐBSCL còn là khu vực sinh thái và địa lý có sức hấp dẫn mạnh mẽ bởi
cảnh quan thiên nhiên của vùng sơng nƣớc. Vì thế đặc điểm nổi bật của văn
hố ĐBSCL là văn hố sơng nƣớc. Điều này đƣợc thể hiện qua tập quán, các
lễ hội về nƣớc và đặc biệt là ngơn ngữ giao tiếp có liên quan đến sông, rạch.
Các tộc ngƣời ở ĐBSCL chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Trong công
cuộc khẩn hoang để khai phá đất đai và phát triển nghề trồng lúa nƣớc cũng
nhƣ trong cuộc sống, ảnh hƣởng và giao lƣu văn hóa giữa các tộc ngƣời diễn
ra thƣờng xuyên. Từ công cụ sản xuất, nhà ở đến cách ăn mặc, nếp sống, lễ
nghi...đều có thể tìm thấy sự đan xen giữa các truyền thống văn hóa. Trong
q trình đó, ngƣời Việt cũng tiếp nhận các yếu tố văn hóa Khmer. Chiếc
khăn rằn của ngƣời Khmer Nam bộ đã trở nên phổ biến và trở thành một biểu
tƣợng quen thuộc của ngƣời Nam bộ.
Cuộc sống, sinh hoạt của ngƣời dân miền Tây đơn giản, gắn với địa hình
sơng nƣớc. Văn hố ăn, mặc, ở, đi lại,...cũng mang đặc thù riêng và phù hợp,
hài hịa với mơi trƣờng sinh thái tự nhiên. Vùng cao thì cất nhà trệt, vùng
ngập lụt thì cất nhà sàn. Món ăn quen thuộc của ngƣời dân ĐBSCL là canh

chua cá đồng nấu với bông điên điển, bông súng, bơng lục bình..., mắm kho,
chuột khìa, cá lóc nƣớng trui, rắn hầm nƣớc dừa, rùa rang muối, cá linh nhúng
giấm,...các món cá khơ nổi tiếng nhƣ khơ lóc, khơ sặc rằn trộn với xồi bằm,
khơ cá kèo, cá khoai thì chấm nƣớc mắm me... Xuồng, ghe là phƣơng tiện di
chuyển phổ biến và thuận tiện của ngƣời dân vùng sơng nƣớc. Vì vậy, hình
ảnh chiếc xuồng ba lá là một biểu tƣợng văn hóa vùng sơng nƣớc. Nếu trang


23

phục truyền thống của ngƣời miền Bắc là áo tứ thân thì Nam bộ là áo bà ba.
Hình ảnh chiếc áo bà ba đã đi vào âm nhạc, văn chƣơng, trở thành biểu tƣợng
của văn hóa mặc Nam bộ. Đối với vùng ĐBSCL, chợ nổi không đơn thuần là
nơi buôn bán trao đổi hàng hóa mà đã trở thành nét văn hóa riêng của vùng
sơng nƣớc.
Bàn tới văn hố vùng đất này, chúng ta khơng thể khơng nói tới tính cách
Nam bộ. Sơn Nam, Trịnh Hoài Đức khi bàn về tính cách ngƣời khẩn khoang ở
vùng đất phƣơng Nam hoang sơ và khắc nghiệt, đã dùng cụm từ „„sĩ khí hiên
ngang‟‟ để chỉ những con ngƣời „„kiến nghĩ bất vi vô dõng giả‟‟, chuộng công
bằng lẽ phải‟‟[104]. Trong cuốn Văn hố vùng và phân vùng văn hố ở Việt
Nam có nhận xét về con ngƣời Nam bộ „„Họ cởi mở, chan hoà, dễ kết thân, dễ
hoà vào cộng đồng mới lạ, không sĩ diện kiểu kẻ sĩ, không coi trọng mơn đăng
hậu đối‟‟[154, tr.50]. Dƣơng Hồng Lộc nhìn nhận con ngƣời Nam bộ ở tính
khoan dung: „„Ngƣời Việt đến từ một nền văn hố nơng nghiệp lúa nƣớc lâu
đời,... tinh thần tƣơng trợ, thƣơng yêu, nhân ái và thấm đƣợm tính khoan
dung hết sức nhân bản của 4000 năm văn hố dân tộc‟‟[92, tr.69].
Tính cách Nam bộ là một khía cạnh văn hoá ứng xử và để lại dấu ấn rõ
rệt trong mọi mặt đời sống văn hoá. Ở vùng đất mới, ngƣời dân phải trải qua
biết bao khó khăn gian khổ trong cuộc sống. Vì thế, ngay từ buổi đầu gặp gỡ,
họ đã biết yêu thƣơng, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Mối quan hệ

giữa ngƣời với ngƣời, giữa con ngƣời với thiên nhiên trở nên gắn bó chặt chẽ
hơn. Mặt khác, sống trong điều kiện sơng nƣớc mênh mông, nhiều kênh rạch,
không bị giới hạn bởi sự ngăn cách từ đó hình thành nếp sống, cách cƣ xử, nét
sinh hoạt và một phần tính cách con ngƣời ĐBSCL. Lƣu dân ngƣời Việt ở
vùng đất này đa số xuất thân từ những gia cảnh nghèo khó, ít chữ nghĩa. Hơn
nữa, khi vào vùng đất mới, họ cũng ít chịu ảnh hƣởng của nho giáo, không
rành ngôn ngữ thánh hiền, khơng quen dùng văn chƣơng hoa mỹ, thích nói


24

ngắn gọn, nôm na dễ hiểu... Đặc điểm riêng đặc sắc đó của mỗi tộc ngƣời
ngày một phát triển và hội nhập vào nhau tạo nên nét đặc trƣng không dễ trộn
lẫn của văn hóa vùng Nam bộ, tạo nên tính cách chung của con ngƣời Nam bộ
trọng nghĩa, khinh tài, phóng khống và hiếu khách... Và vƣợt lên trên tất cả
là từ rất sớm các cộng đồng cƣ dân Nam bộ đã có truyền thống đồn kết, đùm
bọc lẫn nhau, không phân biệt ngƣời đến trƣớc, ngƣời đến sau, không kỳ thị
dân tộc. Truyền thống quý báu này đƣợc hình thành và phát triển trong nhiều
thế kỷ. Càng đi sâu, ta càng thấy thú vị và đầy cảm hứng văn chƣơng. Ngƣời
Nam bộ cũng để lại sắc thái rất riêng biệt trong cách diễn xƣớng dân gian theo
kiểu nói nói nhƣ nói vè, nói thơ, nói tuồng... Họ cịn đƣợc biết đến là những
con ngƣời yêu thích âm nhạc và ca hát. Đặc biệt là sân khấu cải lƣơng, hát
bội, đờn ca tài tử.
Có thể nói ngƣời Nam bộ trong lịch sử là ngƣời „„mang gƣơm đi mở
cõi‟‟, trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm có „„hào khí Đồng Nai‟‟, trong
hiện tại, cung cách làm ăn của ngƣời Nam bộ thoáng hơn, cởi mở và năng
động chắc chắn sẽ là con ngƣời đóng góp sáng tạo cho sự nghiệp xây dựng và
bảo về đất nƣớc.
Ngồi ra, nói tới sắc thái văn hố Nam bộ, chúng ta khơng thể khơng nói
tới ngơn ngữ - tiếng Nam bộ. Đó là phƣơng ngữ Nam bộ đƣợc hình thành

trong quá trình ngƣời Việt đến khẩn hoang đồng bằng Nam bộ. Nó thu hút vào
mình ngơn ngữ của những con ngƣời từ mn nơi lƣu lạc đến, nhƣng đồng
thời cũng sản sinh và phản ánh thế giới tự nhiên và con ngƣời nơi vùng đất
mới với bao màu sắc mới mẻ và đa dạng.
ĐBSCL là mảnh đất màu mỡ, trù phú phía Nam của Tổ quốc. Hành trang
tinh thần của ngƣời Việt về phƣơng Nam có cả truyền thống thƣợng võ và cả
nét hào hoa của lịch sử 4000 năm văn hiến. ĐBSCL là vùng đất trẻ, văn hoá


25

vùng đất này dù đã đƣợc hình thành trong một thời gian dài nhƣng vẫn đang
ngày đƣợc định hình rõ nét hơn.
Tóm lại, từ bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hố, luận án có thêm cơ sở để
làm rõ diện mạo cũng nhƣ những đặc điểm nổi bật về cả hai phƣơng diện nội
dung và hình thức của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
1.2. Quan niệm về truyện ngắn và truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long
1.2.1. Quan niệm về truyện ngắn
Truyện ngắn là gì? Đó là một câu hỏi rất khó trả lời để có thể làm vừa lòng
tất cả mọi ngƣời. Khi xác định nội hàm khái niệm truyện ngắn, các nhà
nghiên cứu đã đặt truyện ngắn trong mối quan hệ với các thể loại tự sự khác.
Cách làm phổ biến là so sánh truyện ngắn với tiểu thuyết. Về cơ bản, truyện
ngắn và tiểu thuyết có những đặc điểm giống nhau. Phân tích 600 truyện ngắn
và 300 tiểu thuyết, Helmut Bonhein đã đƣa ra kết luận: “Khơng có yếu tố đơn
lẻ nào trong nhiều định nghĩa truyện ngắn mà khơng thể tìm thấy trong tiểu
thuyết”[43, tr.420]. Đứng trên quan điểm này, Norman Friedman, một nhà lý
luận tầm cỡ về thể loại truyện ngắn cũng nhận định:“Quá trình quy nạp là thu
thập một mẫu đúng về những gì đƣợc coi là truyện ngắn để kiểm tra đặc điểm
của chúng trong mẫu đó và so sánh những đặc điểm này với những đặc điểm
lấy ra từ mẫu đúng của tiểu thuyết”[43, tr.420]. Và Friedman cũng cho rằng

:“Có thể khơng có sự khác biệt nào giữa truyện ngắn và tiểu thuyết (từ những
yếu tố bề ngoài về độ ngắn dài); hoặc có thể kết quả tốt hơn, đó là sự khác
biệt về cấp độ chứ khơng phải về chủng loại”[43, tr.421]. Hay nói khác hơn,
ơng đã chỉ ra:“Truyện ngắn chỉ khác tiểu thuyết ở quy mô của hành động và
cách thể hiện hành động ở mức độ dài ngắn (tức là khác biệt về cấp độ) chứ
khơng có sự khác nhau về thể loại (vì cũng là hình thức tự sự hƣ cấu bằng


×