Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Định hướng phát triển nội dung lý luận về quản lý nhà nước ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.22 KB, 41 trang )

Lời mở đầu
Ngy nay, ci cỏch hnh chớnh l vn đề mang tính tồn cầu. Cả các
nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như
một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát triển dân chủ và
các mặt khác của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm
1986, tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với
việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải
cách hành chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều
kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trị quan
trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước. Ở Việt Nam đang
còn rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ lâu và mới nảy sinh cần phải
được giải quyết tích cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, bối cảnh tồn cầu hoá
đang đặt ra trước Việt Nam những thách thức và cơ hội mới địi hỏi phải có
những cố gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là q trình cải cách hành chính
ở Việt Nam cịn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết. Cái khó
trong cải cách hành chính Ở Việt Nam là phải tiến hành một cuộc cải cách
hành chính có tính chất cách mạng từ quản lý lập trung quan liêu, bao cấp
sang quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng dân chủ. Thực tiễn
đang đòi hỏi phát triển tư duy lý luận về cải cách hành chính. Việc phát triển
lý luận đem lại sự nhận thức sâu sắc về bản chất và quy luật của quá trình cải
cách hành chính, làm cho hoạt động cải cách diễn ra chủ động và tự giác hơn.
Công tác cải cách hành chính cũng ln là một trong những vấn đề trọng
tâm tại các kỳ họp thường kỳ của Chính phủ hàng tháng. Thủ tướng, với tư
cách là Trưởng Ban chỉ đạo cải cách hành chính, đã thường xuyên yêu cầu
người đứng đầu các bộ, ngành báo cáo về kết quả thực hiện các nội dung của
cải cách hành chính, chỉ rõ những bất cập và hướng khắc phục.
Ngay tại kỳ họp đầu tháng 1 năm nay, Chính phủ và các lãnh đạo bộ
ngành, địa phương trong cả nước đã quyết định phải tạo bước đột phá về cải



cách hành chính trong năm 2007 với trọng tâm là ưu tiên rà sốt sửa đổi các
thủ tục hành chính, giấy phép con – những vướng mắc đang là một nguyên
nhân làm hạn chế đáng kể năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hồn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ
phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững
của đất nước


A.những vấn nh đề lý luận cảI cách hành chính
quốc gia
1.cơ quan hành chính nhà nớc:
Hệ thống cơ quan nhà nớc đợc thành lập từ trung ơng đến địa phơng để
thực hiện chức năng quản lý nhà nớc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xà hội
và để triển khai thi hành hiến pháp,pháp luật trong phạm vi các đơn vị hành
chính lÃnh thổ.các ccơ quan trong bộ máy hành chính có mối quan hệ mật thiết
với nhau và cùng phối hợp với nhau để thực hiện một cách có hiệu quả chức
năng quản lý nhà nơc.
Cơ quan hành chính nhà nớc là loại chủ thể chủ yếu của hoạnh động quản
lý nhà nơc và của các quan hệ pháp luật hành chính
2.thủ tục hành chính:
Là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nớc đợc
quy định trong các quy phạm pháp luật hành chính bao gồm:trình tự,nội
dung,mục đích ,cách thức tiến hành các hoạt động cụ thế trong quá trình giải
quyết các công việc của quản lý hành chính nhà nớc
H thng các quy định thủ tục hành chính
Hiện nay, vấn đề cải cách thủ tục hành chính được xác định là một

nhiệm vụ trọng tâm, then chốt song rất phức tạp. Từ góc độ thực tiễn, vấn đề
này mặc dù được Đảng, nhà nước và đặc biệt là Chính phủ rất quan tâm chỉ
đạo, chỉ đạo quyết liệt song hiệu quả thu lại chưa cao vì những nguyên nhân
sau đây:
Thứ nhất Việt Nam là một trong rất ít những quốc gia ban hành văn bản
đã không tách riêng biệt các quy định mang tính nội dung với những quy định
về thủ tục. Đa số, những quy định về thủ tục đều nằm rải rác, xen lẫn với các
quy định nội dung. Nguyên nhân này, dẫn đến "hậu quả" là ngay chính cán
bộ, cơng chức quản lý về lĩnh vực, ngành mình phụ trách cũng khó lịng mà
biết được khi giải quyết cơng việc của mình cần bao nhiêu hồ sơ, thủ tục,
huống hồ là người dân.


Thứ hai, ngoài việc chưa phân tách những quy định về thủ tục với quy
định nội dung, do một thời gian dài chúng ta chưa có quy định nào quy định
cơ quan, cấp nào có thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính (Quyết định số
181/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về cơ chế "một cửa"
giao thẩm quyền cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh). Do đó, nhiều nơi, nhiều chỗ
đã lạm dụng việc ban hành các quy định th tc hnh chớnh.
Lý luạn thực tiễn của cải cách hµnh chÝnh
Yêu cầu về sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia, dân tộc luôn là một
điều tất yếu. Có nhiều biện pháp, cách thức để thực hiện yêu cầu này; cải cách
hành chính khơng nằm ngồi mục đích, u cầu tất yếu đó. Song, nhìn từ lịch
sử hình thành, phát triển của mỗi quốc gia, chúng ta phải khẳng định rằng cải
cách hành chính, hay đổi mới hành chính, biện pháp quản lý của nhà nước với
xã hội vốn dĩ đã luôn tồn tại, song hành như một nhiệm vụ bắt buộc
Cải cách hành chính là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc mà mọi quốc gia
đều "bắt buộc" phải làm và làm thường xuyên, lâu dài chứ không chỉ trong
một giai đoạn, thời kỳ.
Việt Nam cải cách hành chính, khơng ngồi mục đích cao cả mà sự

nghiệp cách mạng vĩ đại do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định đó là nhằm khơng ngừng nâng cao, hồn thiện đời sống cả
về vật chất và tinh thần cho nhân dân; bảo đảm mọi quyền lực của nhà nước
đều thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Lý luận về quản lý hành
chính, về quản lý nhà nước được hình thành từng bước cùng với thực tiễn xây
dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đương nhiên, tư duy
hành chính khơg phải là điều gì xa lạ và mới mẻ hoặc chưa từng có. Tư duy
hành chính khơng hình thành từ những mong muốn chủ quan của con người,
mà phải được đúc kết từ thực tiễn. Thực tiễn đó vừa là bối cảnh, khả năng và
những yêu cầu trong nước, vừa là kinh nghiệm xây dựng và cải cách bộ máy
hành chính thành cơng ở nước ngồi.


Mặc dù tư duy hành chính ở nước ta đã có bước phát triển trong những
năm qua, song trước những yêu cầu thực tiễn đang đặt ra thì lý luận về quản
lý nhà nước vẫn cịn nhiều bất cập.Có thể nêu lên hai tồn tại cơ bản trong lý
luận về quản lý nhà nước ở nước ta như sau :
- lý luận quản lý nhà nước chưa thực sự phát triển và chưa khẳng định
được tính độc lập của một ngành khoa học riêng biệt. Lý luận về quản lý nhà
nước ở nước ta ra đời muộn lại chịu ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung
quan liêu trong một thời gian dài. Một số quan niệm cũ, vốn đối lập hoàn toàn
chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, thậm chí ngay cả trong những thành
tựu về khoa học quản lý mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. Vì vậy, lý luận
quản lý chưa tạo nên một hệ thống tri thức phản ánh thực tiễn thông qua các
phạm trù và quy luật đặc thù của mình, mà ít nhiều cịn sao chép lại tri thức
của các khoa học khác như khoa học chính trị, khoa học quản lý, kinh tế học,
luật học...
-hệ thống lý luận quản lý nhà nước vẫn cịn khơng ít sự giáo điều, thiếu
tính ứng dụng, tác dụng và hiệu quả thực tế thấp. Về nguyên tắc, lý luận phải
được đúc kết từ hoạt động thực tiễn, phản ánh thực tiễn và thúc đẩy thực tiễn

phát triển. Song, do trình độ tư duy còn hạn chế nên hệ thống lý luận đưa ra
nhiều khi còn chưa khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu khả năng phân
tích sâu sắc về thực tiễn để từ đó rút ra những vấn đề bản chất, quy luật.
Chính vì vậy, lý luận về quản lý hành chính nhà nước chưa thực sự đóng vai
trị mở đường và thúc đẩy thực tiễn cải cách hành chính ở nước ta phát triển.
-Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, số lượng văn bản ban hành ngày càng
nhiều, nhưng về chất lượng, thật sự chưa thể hài lòng, cụ thể là cịn thiếu tính
nhất qn, tính dự báo, khơng ít quy định thiếu tính khả thi.
-Nhiều thể chế chậm được ban hành, chậm được sửa đổi, hoàn thiện,cho
đến nay Nhà nước ta vẫn chưa có cách nào khắc phục được tính cục bộ ngành,
lĩnh vực trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà vẫn
thực hiện theo cách: Luật (hoặc văn bản quy phạm pháp luật) về lĩnh vực nào


giao cho bộ, ngành đó chủ trì soạn thảo. Ðây chính là chỗ để cho cơ quan nhà
nước giành thuận lợi về cho mình, đẩy khó khăn cho người dân, mặc dù
chúng tôi (những người viết bài này) thừa nhận là thời gian gần đây việc xây
dựng, ban hành thể chế đã có nhiều cải tiến như tổ chức lấy ý kiến đóng góp
rộng rãi của các bộ, ngành, đồn thể, kể cả cơ quan báo chí và nhân dân.
+ Chẳng hạn, hiện nay Văn phịng Chính phủ có Ban Xây dựng pháp
luật, thì những văn bản Chính phủ soạn thảo trình QH, Ủy ban Thường vụ QH
thơng qua và những văn bản thuộc thẩm quyền Chính phủ ban hành, giao cho
cơ quan này chủ trì soạn thảo, thay vì giao cho bộ, ngành. Tất nhiên, là phải
quy định rõ chức năng, thẩm quyền để cơ quan này hoạt động; các bộ, ngành
liên quan có đại diện tham gia.
-Chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể cũng như những căn cứ, cơ sở cho
việc phân định về thứ bậc trong hoạt động quản lý, điều hành và thi hành đối
với cả hệ thống đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam
-quá trình hình thành tư duy về cải cách hành chính cịn nặng về kinh
nghiệm. Thực tiễn chỉ ra rằng, với trình độ tư duy kinh nghiệm, con người

khơng thể xem xét một cách sâu sắc mọi quá trình diễn biến phức tạp trong
thực tiễn ; không thể vạch ra cái chung, cái riêng trong việc giải quyết các
nhiệm vụ thực tiễn. Hậu quả là sẽ không phân biệt đâu là nơi cần tập trung
những lực lượng chủ yếu và sự chú ý của mình trong hoạt động thực tiễn.. Sự
nghiệp cải cách hành chính ở nước ta, hơn bao giờ hết, đang địi hỏi rất cao về
cơng tác lý luận. Lý luận về hành chính và cải cách hành chính là những nội
dung cốt yếu của khoa học hành chính.lý luận sinh ra khơng phải vì lý luận,
mà vì nhu cầu của thực tiễn. Hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc rất
lớn vào vấn đề : các công chức nhà nước tiếp thu và vận dụng những kiến
thức về khoa học quản lý nói chung, về khoa học hành chính nói riêng vào
thực tiễn như thế nào ? hiệu lực của bộ máy nhà nước chính là năng lực vận
dụng hệ thống lý luận về quản lý nhà nước vào thực tiễn xây dựng nền hành
chính ở nước ta.


-Sự chun nghiệp hóa trong các hoạt động cơng vụ cũng như thói quen
ứng xử, giao tiếp và ý thức tự giác của đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam
(nhất là ở cấp cơ sở) còn nhiều hạn chế, bất cập
-Vấn đề bất cập hiện nay ở nước ta đó là chính quyền cơ sở cấp xã "vừa
nhỏ" lại vừa yếu. Sự nhỏ bé của chính quyền cơ sở cấp xã phản ánh ở các
nghĩa về thẩm quyền và tổ chức bộ máy. Với quy mô tổ chức bộ máy chỉ
ngang bằng với một phịng chun mơn của cấp huyện, trong đó đã chiếm gần
một nửa là lãnh đạo thì khả năng giải quyết cơng việc, hiệu quả quản lý của
chính quyền cơ sở cấp xã chắc chắn khơng thể đáp ứng yêu cầu đề ra.
Có thể nói, trong thời đại ngày nay, cải cách hành chính cũng là một vấn
đề tồn cầu mang tính đa dạng, đa chiều, nhưng lại khơng có một lời giải
chung nào cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, để thúc đẩy cơng cuộc
cải cách hành chính, chúng ta phải tự xây dựng một hệ thống lý luận phù hợp
với hồn cảnh nước ta, có tính hiệu lực và tính khả thi cao. Một hệ thống lý
luận đúng đắn phải là sự kết tinh từ thực tiễn và là ánh sáng soi đường cho

thực tiễn cải cách hành chính ở nước ta. Để phát triển công tác lý luận trong
lĩnh vực này, điều quan trọng là phải tạo điều kiện thuận lợi để người làm
công tác lý luận gắn với thực tiễn, thâm nhập thực tiễn cải cách hành chính ở
từng lĩnh vực, từng địa phương, từng cơ quan, đơn vị. Đồng thời, cũng phải
tạo ra một cơ chế thích hợp để những người hoạt động thực tiễn trong bộ máy
hành chính nhà nước quan tâm đến những thành tựu của hoạt động lý luận,
đóng góp vào sự phát triển lý luận và thử nghiệm lý luận đó trong cuộc sống.
Bằng cách đó chúng ta sẽ rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, tạo
điều kiện cho cải cách hành chính ở nước ta có sự chuyển biến mạnh hơn
trong thời gian tới, từ đó góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cách mạng
nước ta phát triển theo mục tiêu mà Đảng ta


B. PHáP LUậT Về CảI CáCH HàNH CHíNH QuốC GIA
1. Ngị quyết số 17-NQ/TW ngày 1/8/2007 hội nhgị lần thứ 5 ban chấp
hành trung ơng khoá 10 về đây mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực
quản lý của bộ máy nhà nớc.
2. Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ 6(15-18/12/1976) báo cáo chính
trị của ban chấp hành trung ơng đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
6.
3. Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ 7(24-27/6/1991).
4.Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành trung ơng đảng(khoá
7)23/1/1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiƯn nhµ níc Céng Hoµ X· Héi
Chđ NghÜa ViƯt Nam, trọng tâm là cải cáchnền hành chính quốc gia.
5.Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ 8(28/6-1/7/1996) báo cáo chính
trị của ban chấp hành trung ơng đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
8.
6. Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành trung ơng Đảng (khoá 8)
18/6/1997 phát huy quyền làm chủ của nhân dân,tiếp tục xây dựng nhà nớc
Cộng Hoà XÃ Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh.

7. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ơng Đảng (khoá 8)
18/6/1997 nghị quyết về một số vấn đề về tổ chức bộ máy và đổi mới chất lợng hệ thống chính trÞ ë cë së x·, phêng , thÞ trÊn.
8. NghÞ định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14/2/2008 của chính phủ về tiếp
nhận xử lý, phản ánh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính.
9. Côg văn số 426/BNV-TCBC ngày 18/2/2008 của bộ nội vụ về viêc tổ
chức thực hiện nghị định số13,14 ngày 4/2/2008 của chính phủ quy định tổ
chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ Ban Nhân Dân cấp tỉnh ,huyện.
10.Chỉ thị số 05 /2008/CT-TTg ngày 31/1/2008 cđa thđ tíng chÝnh phđ
vỊ viƯc n©ng cao hiƯu quả sử dụng thời giờ làm việc của cán bộ công chức
viên chức nhà nớc


11.Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của chính phủ quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh ,thàn phố thực thuộc
trung ơng
12.Nghị quyết số 53/2007/NQ-CP ngày 07/11/2007 của chính phủ ban
hành chơng chình hành động của chính phủ thực hiện nghị quyết lần thứ 5
ban chấp hành trung ơng đảng khoá 10 về đẩy mạnh cải cách hành chính
,nâng cao hiệu lực ,hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nớc.
C.nội dung ch ủ yếu của pháp luật về cảI cách
hành chính
1

- Xõy dng v hon thin các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt
động của hệ thống hành chính nhà nước.
- Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
- Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước,
của cán bộ, công chức.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính

2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính

- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với
yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.
- Từng bước điều chỉnh những cơng việc mà Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhận để
khắc phục những chống chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho
các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những công


việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp
thực hiện.
3. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

- Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức
- Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

1. Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước thống nhất quản lý việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng,
an ninh và đối ngoại theo đúng chức năng phù hợp với cơ chế mới, đó
là:
- Quản lý kinh tế – xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị –
xã hội và trật tự kỷ cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những
ngành kinh tế then chốt, bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho
nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống.
- Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh tế nhà
nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hoà giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự

phát triển đồng đều giữa các vùng và các tầng lớp dân cư.
- Tăng cường kiểm kê, kiểm soát sản xuất và phân phối; quản lý, sử
dụng có hiệu quả vốn và tài sản cơng với tư cách đại diện chủ sở hữu
nhà nước, khắc phục tình trạng vơ chủ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hố, xã hội với tăng cường
an ninh, quốc phịng và mở rộng hoạt động đối ngoại, để các lĩnh vực
này tác động hỗ trợ nhau cùng phát triển.


2. Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền
theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý
ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trên cơ sở bảo đảm sự quản lý thống nhất của Trung ương về thể
chế, về chiến lược và quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành và toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, cần phân cấp đúng mức và rành mạch trách
nhiệm và thẩm quyền hành chính, nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy
chính quyền địa phương phát huy tính chủ động, khai thác mọi tiềm
năng tại chỗ để phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương và đóng góp ngày
càng nhiều cho sự phát triển chung của đất nước. Theo tinh thần đó, cần
tăng trách nhiệm và thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc
quyết định những vấn đề của địa phương, đặc biệt là về quy hoạch phát
triển và kế hoạch đầu tư cho khu vực công cộng, về thu chi ngân sách,
về tổ chức và nhân sự hành chính địa phương, về xử lý các vụ việc hành
chính.
Việc phân định trách nhiệm và thẩm quyền của các cấp chính quyền
phải phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng ngành và lĩnh vực hoạt
động, với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quyền trên từng địa
bàn; phù hợp với điều kiện và khả năng của các địa phương có quy mơ,
vị trí khác nhau. Giữa các cấp chính quyền địa phương cũng cần cụ thể
hoá việc phân cấp theo hướng việc nào do cấp nào giải quyết sát với

thực tế hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó.
Quan hệ phân cấp phải gắn liền với việc tăng cường sự phối hợp
quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, được quy định thành thể chế; đặc
biệt cần tăng cường trách nhiệm kiểm tra, kiểm sốt của cấp uỷ đảng và
chính quyền địa phương đối với các cơ quan và tổ chức hoạt động trên
địa bàn, kể cả các đơn vị được quản lý theo ngành dọc.


Các bộ và cơ quan của Chính phủ phải thực hiện chức năng quản lý
hành chính nhà nước về ngành, lĩnh vực của minh trong phạm vi cả
nước, đồng thời thực hiện trách nhiệm đại diện chủ sở hữu nhà nước
trong phạm vi được uỷ quyền đối với các doanh nghiệp nhà nước. Trên
cơ sở xác định rõ chức năng và đổi mới sự phân cấp, tiếp tục điều chỉnh
hợp lý tổ chức của các bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và bộ máy
chính quyền địa phương.
3. Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là
cơng cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước,
thiết lập kỷ cương xã hội.
Đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lý nhà nước
trong điều kiện mới; phát triển mạnh tổ chức thanh tra việc thực hiện thể
chế về từng lĩnh vực trong toàn xã hội như tài chính, lao động, giáo dục,
vệ sinh – y tế, xây dựng, công vụ, v.v…
Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra trong việc
xử lý hành chính tại chỗ các vi phạm pháp luật; phân định rõ hơn trách
nhiệm của cơ quan thanh tra và toà án hành chính trong việc giải quyết
các khiếu kiện đối với các cơ quan và cán bộ, cơng chức hành chính, tạo
điều kiện để các tồ án hành chính phát huy đúng chức năng và thẩm
quyền.
Đẩy mạnh hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ
quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của cấp

trên đối với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ
chức trên địa bàn lãnh thổ.
44. Chính quyền địa phương:
5a. Tập trung sức kiện tồn chính quyền cơ sở.


Phát huy vai trò của hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn trong
việc xem xét, quyết định các nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, an ninh trật tự,
đời sống nhân dân, về ngân sách và giám sát việc điều hành của uỷ ban
nhân dân. Kiện toàn hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn với thành
phần bao gồm những cán bộ chủ chốt của đảng bộ, mặt trận và các đoàn
thể, đồng thời thu hút những người ngoài đảng có đủ tiêu chuẩn, có nhiệt
tình, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn trong lao động sản xuất, có
tín nhiệm trong nhân dân.
- Thực hiện các hình thức, biện pháp bảo đảm phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở, đồng thời quy định một số trách nhiệm nhất
định giao cho nhóm đại diện hội đồng nhân dân xã theo từng thôn (làng,
ấp, bản) như tổ chức việc xây dựng, thực hiện hương ước, giám sát
trưởng thôn (bản, ấp).
- Quy định hợp lý số lượng cán bộ chính quyền cơ sở phân biệt theo
đặc điểm và dân số của từng loaị đơn vị cơ sở; chú trọng cơng tác đào
tạo, bồi dưỡng và chính sách đãi ngộ phù hợp với chức trách của họ.
Chính phủ quy định nguyên tắc chung, còn mức phụ cấp cụ thể cho mỗi
chức danh cán bộ xã, phường, thị trấn do hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quyết định cho sát với điều kiện thực tế của từng địa phương. Có chế độ
thích hợp để chun nghiệp hố một số cán bộ đảm bảo những công việc
cần được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.
- Trưởng thông, (bản, ấp) do nhân dân trong thôn, bản, ấp bầu và
chủ tịch uỷ ban nhân dân xã phê chuẩn.
b. Về hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân

- Kiện toàn và củng cố hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân các cấp
để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được phân cấp;
đồng thời, đề cao trách nhiệm tham gia cùng chính quyền cấp trên thực


hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tổ chức theo ngành dọc trên địa
bàn lãnh thổ.
- Xây dựng hội đồng nhân dân các cấp có thực quyền thực hiện đầy
đủ vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở từng cấp.
- Nghiên cứu phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động của hội đồng
nhân dân và nhiệm vụ quản lý hành chính ở đơ thị với hoạt động của hội
đồng nhân dân và nhiệm vụ quản lý hành chính ở nơng thơn, có thể tiến
hành thí điểm ở một vài địa phương để thấy hết các vấn đề cần giải
quyết; từ đó có cơ sở thực tế giúp cho việc quyết định chủ trương khi
bầu hội đồng nhân dân khóa mới vào năm 1999.
- Uỷ ban nhân dân các cấp cần được kiện toàn theo hướng tinh gọn,
giảm bớt số uỷ viên là thủ trưởng cơ quan chuyên môn; quy định rõ hơn
trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể uỷ ban nhân dân và của chủ tịch uỷ
ban nhân dân.
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất và năng lực là
yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy nhà nước.
4. Cải cách tài chính cơng

- Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trị chỉ đạo của ngân sách
Trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách
nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân
sách.
- Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân

dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các
công việc ở địa phương; quyền quyết định của các bộ, sở, ban, ngành về phân
bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử


dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính
sách

- Sửa đổi Hiến pháp; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục sửa

đổi và xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế, văn hố, xã hội, về hình sự,
dân sự, hành chính, về quyền và nghĩa vụ cơng dân… Nâng cao trình độ của
các cơ quan nhà nước về xây dựng luật pháp, sớm ban hành luật về trình tự
xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật. Thường xuyên giáo dục
pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân.
- Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và hội đồng nhân dân để làm đúng chức năng quy định.
Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu, chế độ bầu cử và quy chế hoạt động của Quốc hội và hội đồng nhân dân.

- Sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, coi
trọng bàn bạc tập thể, đồng thời đề có trách nhiệm và quyền hạn cá nhân của
người đứng đầu Chính phủ, đứng đầu bộ trong quản lý và điều hành.
- Xác định lại chức năng, nhiệm vụ của cấp tỉnh, huyện, xã để sắp xếp lại
tổ chức của mỗi cấp; đề cao quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương,
đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của nhà nước trung ương. Xây dựng
chính

quyền

cấp


xã,

phường

vững

mạnh.

- Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của
Viện Kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân. Bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan
bảo vệ pháp luật làm tốt nhiệm vụ.

- Kiên quyết sắp xếp lại tổ chức và tinh giản biên chế các cơ quan hành
chính, sự nghiệp ngay từ năm 1991, làm cho bộ máy gọn nhẹ và hoạt động có
hiệu quả. Sớm ban hành quy chế viên chức nhà nước. Xây dựng đội ngũ viên
chức nhà nước có phẩm chất chính trị, tinh thần trách nhiệm cao và thành thạo
nghiệp vụ.
- Tiếp tục tiến hành kiên quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống tệ
tham nhũng. Phương hướng cơ bản để khắc phục tệ tham nhũng là phải xây
dựng và hoàn chỉnh bộ máy, cơ chế quản lý và pháp luật; xử lý nghiêm minh


những người vi phạm, đồng thời tăng cường giáo dục tư tưởng, quản lý chặt
chẽ nội bộ”.

Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối
cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
- Về hoạt động lập pháp: Ban hành các đạo luật cần thiết để điều
chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ưu tiên xây dựng các luật về

kinh tế, về các quyền công dân và các luật điều chỉnh công cuộc cải cách
bộ máy nhà nước, các luật điều chỉnh các hoạt động văn hố, thơng tin.
Coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam, nâng cao chất lượng xây dựng
pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định cụ thể, dễ hiểu,
dễ thực hiện. Giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở những nguyên
tắc chung, muốn thực hiện được phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi
hành.
- Về hoạt động giám sát: Nâng cao chất lượng hiệu lực và hiệu quả
hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Xác định rõ
phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc
hội và của hội đồng nhân dân các cấp; phân định rõ tính chất, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của các
cơ quan và tổ chức khác. Cùng với việc bảo đảm thực hiện các quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân, cần nghiên cứu, hướng dẫn để mọi cơng
dân có điều kiện phát hiện, đề xuất, kiến nghị, giúp cho hoạt động giám
sát có hiệu quả.
1. Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước thống nhất quản lý
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc


phòng, an ninh và đối ngoại theo đúng chức năng phù hợp với cơ chế
mới, đó là:
- Quản lý kinh tế – xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị –
xã hội và trật tự kỷ cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những
ngành kinh tế then chốt, bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho
nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống.
- Thông qua các công cụ quản lý vĩ mơ và vai trị của kinh tế nhà
nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hoà giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự

phát triển đồng đều giữa các vùng và các tầng lớp dân cư.
- Tăng cường kiểm kê, kiểm soát sản xuất và phân phối; quản lý, sử
dụng có hiệu quả vốn và tài sản công với tư cách đại diện chủ sở hữu
nhà nước, khắc phục tình trạng vơ chủ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với tăng cường
an ninh, quốc phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại, để các lĩnh vực
này tác động hỗ trợ nhau cùng phát triển.
2. Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền
theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý
ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trên cơ sở bảo đảm sự quản lý thống nhất của Trung ương về thể
chế, về chiến lược và quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành và toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, cần phân cấp đúng mức và rành mạch trách
nhiệm và thẩm quyền hành chính, nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy chính
quyền địa phương phát huy tính chủ động, khai thác mọi tiềm năng tại
chỗ để phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương và đóng góp ngày càng
nhiều cho sự phát triển chung của đất nước. Theo tinh thần đó, cần tăng
trách nhiệm và thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc quyết


định những vấn đề của địa phương, đặc biệt là về quy hoạch phát triển
và kế hoạch đầu tư cho khu vực công cộng, về thu chi ngân sách, về tổ
chức và nhân sự hành chính địa phương, về xử lý các vụ việc hành
chính.
Việc phân định trách nhiệm và thẩm quyền của các cấp chính quyền
phải phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng ngành và lĩnh vực hoạt
động, với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quyền trên từng địa
bàn; phù hợp với điều kiện và khả năng của các địa phương có quy mơ,
vị trí khác nhau. Giữa các cấp chính quyền địa phương cũng cần cụ thể
hoá việc phân cấp theo hướng việc nào do cấp nào giải quyết sát với

thực tế hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó.
Quan hệ phân cấp phải gắn liền với việc tăng cường sự phối hợp
quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, được quy định thành thể chế; đặc
biệt cần tăng cường trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát của cấp uỷ đảng và
chính quyền địa phương đối với các cơ quan và tổ chức hoạt động trên
địa bàn, kể cả các đơn vị được quản lý theo ngành dọc.
Các bộ và cơ quan của Chính phủ phải thực hiện chức năng quản lý
hành chính nhà nước về ngành, lĩnh vực của minh trong phạm vi cả
nước, đồng thời thực hiện trách nhiệm đại diện chủ sở hữu nhà nước
trong phạm vi được uỷ quyền đối với các doanh nghiệp nhà nước. Trên
cơ sở xác định rõ chức năng và đổi mới sự phân cấp, tiếp tục điều chỉnh
hợp lý tổ chức của các bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và bộ máy
chính quyền địa phương.
3. Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là
cơng cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước,
thiết lập kỷ cương xã hội.


Đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lý nhà nước
trong điều kiện mới; phát triển mạnh tổ chức thanh tra việc thực hiện thể
chế về từng lĩnh vực trong tồn xã hội như tài chính, lao động, giáo dục,
vệ sinh – y tế, xây dựng, công vụ, v.v…
Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra trong việc
xử lý hành chính tại chỗ các vi phạm pháp luật; phân định rõ hơn trách
nhiệm của cơ quan thanh tra và tồ án hành chính trong việc giải quyết
các khiếu kiện đối với các cơ quan và cán bộ, cơng chức hành chính, tạo
điều kiện để các tồ án hành chính phát huy đúng chức năng và thẩm
quyền.
Đẩy mạnh hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ
quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của cấp

trên đối với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ
chức trên địa bàn lãnh thổ.
4. Chính quyền địa phương:
a. Tập trung sức kiện tồn chính quyền cơ sở.
- Phát huy vai trò của hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn trong
việc xem xét, quyết định các nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, an ninh trật tự,
đời sống nhân dân, về ngân sách và giám sát việc điều hành của uỷ ban
nhân dân. Kiện toàn hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn với thành
phần bao gồm những cán bộ chủ chốt của đảng bộ, mặt trận và các đoàn
thể, đồng thời thu hút những người ngồi đảng có đủ tiêu chuẩn, có nhiệt
tình, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn trong lao động sản xuất, có
tín nhiệm trong nhân dân.
Thực hiện các hình thức, biện pháp bảo đảm phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở, đồng thời quy định một số trách nhiệm nhất
định giao cho nhóm đại diện hội đồng nhân dân xã theo từng thôn (làng,


ấp, bản) như tổ chức việc xây dựng, thực hiện hương ước, giám sát
trưởng thôn (bản, ấp).
- Quy định hợp lý số lượng cán bộ chính quyền cơ sở phân biệt theo
đặc điểm và dân số của từng loaị đơn vị cơ sở; chú trọng công tác đào
tạo, bồi dưỡng và chính sách đãi ngộ phù hợp với chức trách của họ.
Chính phủ quy định ngun tắc chung, cịn mức phụ cấp cụ thể cho mỗi
chức danh cán bộ xã, phường, thị trấn do hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quyết định cho sát với điều kiện thực tế của từng địa phương. Có chế độ
thích hợp để chun nghiệp hố một số cán bộ đảm bảo những công việc
cần được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.
- Trưởng thông, (bản, ấp) do nhân dân trong thôn, bản, ấp bầu và
chủ tịch uỷ ban nhân dân xã phê chuẩn.
b. Về hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân

- Kiện toàn và củng cố hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân các cấp
để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được phân cấp;
đồng thời, đề cao trách nhiệm tham gia cùng chính quyền cấp trên thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tổ chức theo ngành dọc trên địa
bàn lãnh thổ.
- Xây dựng hội đồng nhân dân các cấp có thực quyền thực hiện đầy
đủ vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở từng cấp.
- Nghiên cứu phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động của hội đồng
nhân dân và nhiệm vụ quản lý hành chính ở đô thị với hoạt động của hội
đồng nhân dân và nhiệm vụ quản lý hành chính ở nơng thơn, có thể tiến
hành thí điểm ở một vài địa phương để thấy hết các vấn đề cần giải
quyết; từ đó có cơ sở thực tế giúp cho việc quyết định chủ trương khi
bầu hội đồng nhân dân khóa mới vào năm 1999.


- Uỷ ban nhân dân các cấp cần được kiện toàn theo hướng tinh gọn,
giảm bớt số uỷ viên là thủ trưởng cơ quan chuyên môn; quy định rõ hơn
trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể uỷ ban nhân dân và của chủ tịch uỷ
ban nhân dân.
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất và năng lực là
yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy nhà nước.
Có biện pháp thực hiện tốt các chủ trương về xây dựng đội ngũ c

×