Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

ảnh hưởng của ấn tượng nước xuất xứ đối với giá trị hàng Việt Nam tại thị trường Nhật 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.23 KB, 4 trang )

-64-
Chương : Ⅵ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua các phân tích ở trên, ta thấy rằng sự tồn tại của ảnh hưởng nước xuất
xứ của hàng Việt Nam đối với thái độ mua hàng của người tiêu dùng Nhật
một cách trực tiếp và gián tiếp. Kết quả này hoàn toàn ủng hộ sự hợp lý của
một mô hình đã được nghiên cứu trước đây, mô tả ảnh hưởng đồng thời với
niềm tin vào sản phẩm của ấn tượng nước xuất xứ đối với thái độ người tiêu
dùng, trong trường hợp cụ thể cho hàng thủy sản, là một hàng hoá mà chưa
được nghiên cứu nhiều về ảnh hưởng của ấn tượng nước xuất xứ. Đó là “mô
hình linh hoạt về quá trình nhận thức nước xuất xứ của người tiêu dùng”
(Knight et al., 1999). Như vậy, chúng ta có thể kết luận là nếu người tiêu dùng
Nhật càng có ấn tượng về quốc gia Việt Nam tốt, hàng thủy sản Việt Nam
càng được nhận thức giá trò (chất lượng) cao tại thò trường Nhật, thông qua hai
con đường về quá trình nhận thức con người, sự ảnh hưởng trực tiếp do ấn
tượng Việt Nam với thái độ người tiêu dùng và sự ảnh hưởng do niềm tin vào
sản phẩm được hình thành dựa trên ấn tượng quốc gia đối với thái độ người
tiêu dùng.
Trong nghiên cứu này không quan sát trực tiếp ảnh hưởng của ấn tượng
quốc gia với giá trò cụ thể của sản phẩm, mà chỉ quan sát ảnh hưởng với thái
độ người tiêu dùng. Vì đa số nghiên cứu trước đây xem xét về mối quan hệ
giữa sự nhận thức nước xuất xứ và chất lượng nhận thức của người tiêu dùng,
cho nên tác giả dễ nghiên cứu tiếp cho trường hợp cụ thể của Việt Nam hơn
về ảnh hưởng với chất lượng nhận thức. Như vậy, còn một điều cần thảo luận
thêm là sự cải thiện thái độ người tiêu dùng với hàng Việt Nam sẽ ảnh hưởng
bao nhiêu đối với giá trò cụ thể của hàng thủy sản Việt Nam, tức là tỷ lệ lựa
chọn hàng Việt Nam tăng bao nhiêu, hoặc có thể trả tiền thêm cho hàng Việt
Nam là bao nhiêu, vv.
Nhưng kết quả đã được chứng minh sự phù hợp mô hình linh hoạt trong quá
trình hình thành thái độ của người tiêu dùng tại thò trường Nhật đối với hàng
thủy sản Việt Nam cũng là một điều có ý nghóa đối với các đơn vò liên quan
của Việt Nam. Tức là kết quả này có thể cho họ nhận thức sự quan trọng của


ấn tượng nước xuất xứ của hàng thủy sản Việt Nam tại thò trường Nhật. Nếu
các đơn vò cung cấp thông tin về quốc gia Việt Nam cho thò trường Nhật và cải
tiến ấn tượng về Việt Nam thông qua hoạt động kinh doanh tại thò trường Nhật
hoặc chiến lược tiếp thò quốc gia thì họ sẽ nhận được lợi ích về chất lượng
-65-
nhận thức của hàng hoá mình, và nhờ đó họ có thể hy vọng rằng vò trí hàng
hoá Việt Nam sẽ được cải tiến hơn. Còn ngược lại nếu ấn tượng về quốc gia
được nhận thức tại thò trường Nhật là tiêu cực, tức là người tiêu dùng Nhật có
ấn tượng không tốt về Việt Nam, thì họ phải bò mất một khoản tiền lợi do sự
bất lợi về giá trò hàng hoá hoặc sự nỗ lực tiếp thò để khắc phục sự bất lợi trong
cuộc cạnh tranh tại thò trường Nhật.
Cụ thể, trong mô hình cuối cùng được phân tích bằng phân tích nhân tố
khẳng đònh, không có nội dung về ấn tượng nào mà người tiêu dùng Nhật
đánh giá rất tiêu cực. Nhưng có một số biến thì không được đánh giá cao lắm
hoặc chưa được ấn tượng rõ ràng, như ấn tượng về mức độ giáo dục, kỹ năng
tay nghề, tính sáng tạo. Những ấn tượng này phải được các đơn vò Việt Nam
quan tâm và họ nên xem xét khả năng nâng cao ấn tượng về những điều này,
để có được sức cạnh tranh của mình tốt hơn. Nhờ đó, có thể hình thành điều
kiện thuận lợi hơn cho các hàng hoá tiếp theo sẽ được tung ra thò trường Nhật
trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam.
Còn một số ấn tượng được người tiêu dùng Nhật nhận thấy tích cực về Việt
Nam, đặc biệt như sự siêng năng của người Việt Nam, nên được các đơn vò
Việt Nam hiểu biết và nhấn mạnh trong việc cộng tác với thò trường Nhật, để
nâng cao mức độ phổ biến ưu điểm của quốc gia Việt Nam cho người dân
Nhật.
Những điều thảo luận ở đây, được coi là vẫn có ý nghóa với các ngành khác
của Việt Nam, nhắm vào thò trường Nhật hoặc hợp tác với các đơn vò Nhật.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy có sự khác biệt về mức ảnh hưởng của
nước xuất xứ giữa các loại sản phẩm khác nhau, nhưng các nội dung về ấn
tượng bản chất con người Việt Nam, có ảnh hưởng đến thái độ mua hàng của

người Nhật, được xem là nó không khác nhau nhiều vì bản chất con người cần
được sử dụng trong tất cả mọi hoạt động của con người. Tức là ảnh hưởng của
ấn tượng về bản chất con người Việt Nam không thể khác nhau nhiều mà chỉ
khác nhau về mức độ ảnh hưởng của nó tùy theo loại sản phẩm cụ thểù, trong
quá trình nhận thức chất lượng hàng hoá Việt Nam của người tiêu dùng Nhật.
Trong kết quả mô hình nghiên cứu này, chúng ta đặc biệt cần chú ý là mô
hình cuối cùng chứa rất nhiều nội dung ấn tượng quốc gia về bản chất con
người Việt Nam. Kết quả này rất hữu ích với các đơn vò Việt Nam. Vì kết quả
cho thấy những bản chất, năng lực con người Việt Nam là những điều mà
nhân dân Việt Nam hay tự tin trong việc phát triển kinh tế quốc gia, có thể
giúp cho sự thành công trong việc nâng cao giá trò hàng hoá Việt Nam đối với
-66-
người tiêu dùng Nhật.
Nhưng ngược lại, nói về mức độ hoàn thành của mô hình nghiên cứu mô tả
ảnh hưởng của ấn tượng một quốc gia với giá trò hàng hoá xuất khẩu cho một
thò trường cụ thể, thì kết quả của mô hình nhận sự đánh giá khác. Vì ấn tượng
về một quốc gia có phạm vi rất rộng rãi và phức tạp. Không chỉ về bản chất
con người mà còn rất nhiều nội dung liên quan đến chính trò, văn hoá, xã hội,
kinh tế, công nghệ, ... Trong đó nghiên cứu này hình thành được một mô hình
chỉ bao gồm nội dung phạm vi rất hẹp về ấn tượng quốc gia. Đặc biệt, ấn
tượng về sản phẩm trong mô hình không được hình thành tốt cho một nhân tố
không quan sát được, và tính đúng đắn khác biệt không cao với ấn tượng về
con người. Kết quả trên có thể là do việc sử dụng thang đo ấn tượng quốc gia
của nghiên cứu trước đây mà áp dụng cho quốc gia khác. Như vậy, nghiên cứu
tiếp theo có thể cần phải thực hiện một cuộc điều tra đònh tính và đònh lượng
để phân tích các nhân tố hình thành ấn tượng quốc gia Việt Nam, trước khi
phân tích ảnh hưởng ấn tượng nước xuất xứ của hàng Việt Nam. Nhờ đó xây
dựng một bộ thang đo thích hợp riêng cho ấn tượng quốc gia Việt Nam. Trong
đó, có thể phát triển mô hình nhưng không chỉ bao gồm hai nhân tố, con người
và sản phẩm, cho ấn tượng nước xuất xứ mà còn có thể bao gồm nhân tố mô

tả nội dung khác. Điều này sẽ giúp việc hiểu biết ảnh hưởng của ấn tượng
nước xuất xứ một cách tổng hợp hơn, và cho biết điểm mạnh và yếu của Việt
Nam về ấn tượng quốc gia một cách rõ ràng hơn.
Nghiên cứu này thu thập dữ liệu trên Internet với khung mẫu người tiêu
dùng Nhật của một công ty điều tra Internet, với phương pháp lấy mẫu là
hoàn toàn ngẫu nhiên. Do đó, dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu này có sự khác
biệt về thuộc tính của tập hợp mẫu với tổng thể người tiêu dùng tại thò trường
Nhật. Nhờ sự đánh giá sơ bộ về ảnh hưởng do sự khác biệt về thuộc tính người
tiêu dùng, nghiên cứu kết luận là kết quả vẫn có ý nghóa với tổng thể người
tiêu dùng Nhật. Nhưng nghiên cứu này đề nghò việc sử dụng phương pháp lấy
mẫu theo tỷ lệ thuộc tính của tổng thể người tiêu dùng ở Nhật cho nghiên cứu
tiếp theo và các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện điều tra thò trường Nhật. Vì
phương pháp thu thập dữ liệu trên Internet hiện nay là một phương pháp rất
dễ thu thập theo tỷ lệ thuộc tính của người Monitor.
Cuối cùng, một điều ý nghóa nhất chúng ta đã nhận được trong nghiên cứu
này là kết quả xác đònh được sự tồn tại của ảnh hưởng ấn tượng quốc gia Việt
Nam đối với giá trò nhận thức hàng Việt Nam tại thò trường Nhật. Đặc biệt là
ảnh hưởng của ấn tượng về con người Việt Nam. Ấn tượng về quốc gia dễ
-67-
được hình thành nhờ kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Nói cách khác, hành vi
của mỗi người có thể ảnh hưởng đến ấn tượng về một quốc gia của một người
kia, đặc biệt ấn tượng về bản chất của con người. Trong nghiên cứu này chứng
minh được sự ảnh hưởng của ấn tượng quốc gia đối với sự thành công của một
hàng hoá quốc gia, và ảnh hưởng này có thể dẫn tới sự thành công của kinh tế
quốc gia.
Trong thế kỷ 21, Việt Nam và Nhật Bản ngày càng củng cố mối quan hệ
giữa hai quốc gia về mặt kinh tế, chính trò, văn hoá, ... Đối với mỗi người dân
của hai quốc gia ngày càng có nhiều cơ hội giao tiếp với quốc gia kia. Trong
thời gian đó, tôi hy vọng mỗi đơn vò trong cả hai nước, từ đơn vò nhỏ như mỗi
cá nhân đến mức cơ quan quốc gia đều có sự nỗ lực hành vi có thể tạo ấn

tượng tốt mình, để xây dựng mối quan hệ quan trọng đối với cả hai bên và
thành công trong mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Hành vi của mỗi người có thể góp phần vào một thành quả lớn trong quá
trình phát triển quốc gia, thông qua hai con đường ảnh hưởng của ấn tượng về
quốc gia.

×