Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm số đỏ của vũ trọng phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 96 trang )

..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––––––

NGUYỄN TRƯỜNG SƠN

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––––––

NGUYỄN TRƯỜNG SƠN

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Ngµnh: Ngơn ngữ Việt Nam
Mã số: 8.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HỐ VIỆT NAM


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Quang Năng

THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Thái Ngun, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

NGUYỄN TRƯỜNG SƠN

i


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau
Đại học, các giảng viên Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
cùng gia đình, bạn bè đã động viên, tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập
và nghiên cứu.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS.
Hà Quang Năng, người đã hết sức tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tơi trong q
trình nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
Thái Ngun, tháng 6 năm 2018
Tác giả

NGUYỄN TRƯỜNG SƠN

ii



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
6. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn .............................................................. 6
7. Cấu trúc dự kiến của luận văn ..................................................................... 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ..................................................................... 8
1.1. Hội thoại và các dạng thức hội thoại............................................................ 8
1.1.1. Khái niệm hội thoại ........................................................................... 8
1.1.2. Vận động hội thoại ............................................................................ 9
1.1.3. Các dạng thức hội thoại ................................................................... 11
1.2. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt ...................... 17
1.2.1. Khái niệm từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt .................................... 17
1.2.2. Phân loại từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt ...................................... 18
1.3. Từ thông tục ............................................................................................ 20
1.4. Thành ngữ trong tiếng Việt .................................................................... 21
1.5. Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp và tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ
Trọng Phụng .................................................................................................. 23
1.5.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng .................................. 23
1.5.2. Tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng ...................................... 25


iii


1.6. Ngôn ngữ nhân vật và từ ngữ trong lời thoại nhân vật của tác phẩm
Số đỏ Vũ Trọng Phụng .................................................................................. 28
1.6.1. Ngôn ngữ nhân vật .......................................................................... 28
1.6.2. Từ ngữ trong lời thoại nhân vật của tác phẩm Số đỏ Vũ Trọng Phụng... 30
1.7. Tiểu kết ................................................................................................... 31
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC
PHẨM SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG QUA TỪ NGỮ
XƯNG HÔ ........................................................................................ 32
2.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt ...................... 32
2.2. Các loại từ ngữ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Số
đỏ của Vũ Trọng Phụng ................................................................................. 32
2.2.1. Nhân vật dùng từ xưng hơ là đại từ ................................................. 32
2.2.2. Từ xưng hơ có nguồn gốc danh từ thân tộc và các danh từ khác.......... 41
2.3. Từ xưng hô và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng ................................................................................................. 50
2.3.1. Mối quan hệ giữa xưng hô và kiểu nhân vật ................................... 50
2.3.2. Từ xưng hô của một số kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng.......................................................................................... 51
2.4. Tiểu kết chương 2 ................................................................................... 60
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM
TSỐ ĐỎ CỦA NHÀ VĂN VŨ TRỌNG PHỤNG QUA TỪ
NGỮ THÔNG TỤC VÀ THÀNH NGỮ ........................................ 61
3.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 61
3.2. Từ thông tục trong lời thoại nhân vật ..................................................... 63
3.2.1. Từ thông tục trọng lời thoại nhân vật ở tiểu thuyết Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng ....................................................................................... 63
3.2.2. Từ ngữ thông tục của một số kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ....... 69


iv


3.2.3. Vai trị của từ ngữ thơng tục trong ngơn ngữ nhân vật của tiểu
thuyết Số đỏ ............................................................................................... 74
3.3. Vai trị của việc sử dụng thành ngữ trong ngơn ngữ nhân vật ở tiểu
thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ................................................................ 75
3.4. Tiểu kết ................................................................................................... 80
KẾT LUẬN....................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 85
NGUỒN TƯ LIỆU KHẢO SÁT CỦA LUẬN VĂN ..................................... 88

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số sử dụng ĐTNX trong lời thoại nhân vật của
tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ............................................. 33
Bảng 2.2. Bảng thống kê số lượng và tần số xuất hiện các từ xưng hơ có
nguồn gốc từ danh từ thân tộc và các từ các danh từ khác của
nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ..................... 42
Bảng 3.1. Bảng thống kê các từ ngữ thông tục được sử dụng trong tiểu
thuyết Sô đỏ của Vũ Trọng Phụng .................................................... 61
Bảng 3.2. Bảng thống kê các thành ngữ được sử dụng trong tiểu thuyết Số
đỏ của Vũ Trọng Phụng .................................................................... 76

iv



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngơn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Giao
tiếp bằng ngơn ngữ được thực hiện dưới hai dạng nói và viết. Tác phẩm văn
học là sản phẩm giao tiếp thuộc phong cách viết nhưng lại có tính tích hợp cả
hai phong cách nói và viết thành một dạng giao tiếp đặc thù: giao tiếp nghệ
thuật. Văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội. Ngôn ngữ trong tác
phẩm văn học, do vậy, thể hiện một cách sinh động hoạt động giao tiếp của con
người trong xã hội thông qua sự sáng tạo của nhà văn. Nghiên cứu ngôn ngữ
trong hoạt động hành chức trong cuộc sống là một trong những hướng nghiên
cứu mà ngôn ngữ học hiên đại đang quan tâm. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên
cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một cách tiếp cận phù hợp với xu
hướng nghiên cứu mới cả về phương diện lí luận và phương diện cụ thể.
Ngơn ngữ ra đời đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội. Tùy theo hồn
cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp mà người giao tiếp lựa chọn cách xưng hô
sao cho phù hợp. Việc sử dụng các đại từ nhân xưng và lớp từ xưng hô khác
trong hội thoại là rất quan trọng. Bởi vì, các đại từ nhân xưng và lớp từ xưng hơ
thể hiện thái độ tình cảm của người nói đối với người nghe hay đối tượng được
nói tới.
Vũ Trọng Phụng là một trong số các nhà văn có nhiều tác phẩm thành
cơng ở thể loại tiểu thuyết, tạo ra phong cách, giọng điệu riêng. Các tác phẩm
của nhà văn này đã phản ánh được nhiều vấn đề nóng bỏng về hiện thực xã hội.
Ngơn ngữ của các nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng có nhiều điều
đáng được quan tâm. Ông sử dụng rất nhiều các đại từ nhân xưng và lớp từ
xưng hô khác trong tác phẩm của mình, điều này mang rất nhiều dụng ý nghệ
thuật của tác giả. Vậy, việc Vũ Trọng Phụng sử dụng từ xưng hô là các đại từ
nhân xưng, từ xưng hơ có nguồn gốc là danh từ thân tộc, từ ngữ thông tục và
thành ngữ trong tác phẩm của ông mang lại hiệu quả nghệ thuật như thế nào?

1



Nó có ý nghĩa gì trong việc thể hiện đề tài, nội dung từ tưởng tác phẩm và tài
năng của nhà văn? Đó là lí do chúng tơi chọn đề tài: “Đặc điểm ngôn ngữ
nhân vật trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng” cho cơng trình luận văn
của mình. Luận văn của chúng tơi sẽ tập trung khảo sát, nghiên cứu những đặc
điểm ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng vận dụng quan điểm
ngữ dụng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm lí thuyết ngơn ngữ dưới ánh sáng ngữ
dụng học và thêm một lần nữa khẳng định tài năng, những đóng góp của nhà
văn vào thành công của nền văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ trong hoạt động giao
tiếp đã trở thành một trong những hướng nghiên cứu được nhiều nhà ngôn ngữ
học quan tâm. Những kết quả nghiên cứu ở lĩnh vực này được các nhà nghiên
cứu triển khai theo những hướng khác nhau, như: nghiên cứu về dụng học Pragmatics (J.L. Austin, 1965; Ch.W. Morris, 1966; J.R. Searle, 1969); nghiên
cứu về ngôn ngữ học xã hội - Socio - Lingiustics (Nikolski, 1920; E. Sapir, O.
Jespersen, 1922,...); hướng nghiên cứu về ngôn ngữ học văn bản - Text
Lingiustics (L. Bloomfield, 1926; E. Benveniste, 1960; A.A. Reormatxky,
1967,...). Ở hướng nghiên cứu dụng học, các nhà ngôn ngữ học xác định 4 vấn
đề: sự chiếu vật và chỉ xuất, nghĩa tường minh và hàm ẩn, hành động ngơn ngữ
và lí thuyết hội thoại. Trong các vấn đề đó, lí thuyết hội thoại (bàn về lĩnh vực
giao tiếp đối thoại) được xem là một vấn đề trọng tâm. "Ngôn ngữ chỉ sống
trong sự giao tiếp đối thoại giữa những người sử dụng ngơn ngữ. Sự giao tiếp
đối thoại chính là lĩnh vực đích thực của cuộc sống ngơn ngữ. Tồn bộ cuộc
sống của ngơn ngữ, trong bất kì lĩnh vực nào sử dụng nó (sinh hoạt, sự vụ, khoa
học, nghệ thuật v.v) đều thấm nhuần những quan hệ đối thoại" [32, tr.172].
Nghiên cứu ngơn ngữ hội thoại nói chung, ngơn ngữ nhân vật nói riêng khơng
thể tách nó khỏi lĩnh vực lời nói, tức khỏi ngơn ngữ với tư cách là hiện tượng
toàn vẹn cụ thể.


2


Ở Việt Nam, các nhà ngơn ngữ học đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
lĩnh vực ngữ dụng học, ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học văn bản đề cập đến
sự hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp. Về vấn đề ngôn ngữ hội thoại, ngôn
ngữ nhân vật, các hành động ngơn ngữ, đã có nhiều nghiên cứu ở các quy mô
khác nhau, đề cập đến ở những mức độ khác nhau. Trong các cơng trình nghiên
cứu, các tác giả đã nêu lí thuyết hội thoại, nhận xét, đánh giá về đặc điểm và
các phương diện hội thoại. Đỗ Hữu Châu nhấn mạnh: "Hội thoại là hoạt động
giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ. (...)
Phải nghiên cứu sự hành chức của những cặp trả lời như cặp hỏi/trả lời theo
một quan điểm hội thoại, tức trong sự đối đáp của các nhân vật giao tiếp trong
một hoàn cảnh nhất định" [8, tr.276]. Nhiều cơng trình nghiên cứu về hội thoại
đã được cơng bố như: Về ngữ nghĩa của lời (Hồng Phê, 1981); Phân tích các
nhân tố trong hội thoại (Nguyễn Thiện Giáp, 1999); Ngữ nghĩa lời hội thoại
(Đỗ Thị Kim Liên, 1999), v.v. Nhiều cơng trình nghiên cứu chun sâu về
ngơn ngữ hội thoại trong các hồn cảnh giao tiếp cụ thể. Chẳng hạn, Ứng xử ngôn
ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt (Nguyễn Văn Khang chủ biên, 1999);
Phân tích về vai trị của từ trong hoạt động giao tiếp (Bùi Minh Toán, 1999); Bàn
về vai xã hội và ứng xử trong giao tiếp (Nguyễn Như Ý, 1990); Phân tích đặc
điểm của khẩu ngữ tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng giao tiếp (Nguyễn Chí Hịa,
2009); Về từ xưng hơ trong gia đình đến ngồi xã hội của người Việt (Bùi Minh
Yến, 2001), v.v.
Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng đã mang lại cái nhìn vơ cùng mới mẻ về xã
hội Việt Nam đầu thế kỉ XX. Cho đến nay, những bài nghiên cứu, viết về cuộc
đời, tác phẩm của ông đã lên tới hàng trăm bài. Theo Nguyễn Quang Trung trong
cuốn “Tiếng cười Vũ Trọng Phụng”, (NXB Văn hóa thơng tin, 2002) đã thống kê,
có hơn 200 bài tiểu luận, nhiều cuốn sách, chuyên đề luận văn, luận án nghiên cứu
về cuộc đời, sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng; và sau 12 năm qua, chắc chắn sẽ có


3


rất nhiều bài viết về ông. Điều này càng thêm khẳng định tài năng kiệt xuất, những
cống hiến của ông đối với nền văn học nước nhà cũng như sự yêu thích của các
nhà nghiên cứu đối với các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
Các cơng trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói
chung và nghiên cứu về tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nói riêng cho đến nay là
tương đối nhiều, song mỗi nhà nghiên cứu lại có cách đánh giá riêng, dưới
những góc nhìn riêng.
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong cuốn “Nhà văn tiền chiến và q
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới 1945” (NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2005) đã nhận xét: Vũ Trọng Phụng là một nhà văn tài
hoa trên cả hai lĩnh vực phóng sự và tiểu thuyết, song trước hết Vũ Trọng
Phụng là một “kiện tướng” về phóng sự, bởi xét về mặt thể tài thuần túy, phóng
sự của Vũ Trọng Phụng đã là một cái gì rất chín, rất thành thục khơng chê vào
đâu được. Sở dĩ nói Vũ Trọng Phụng đi xa hơn cả so với nhiều cây bút phóng
sự khác là ở chỗ trong khi miêu tả những sự đời ấy, ơng biết làm cho nó lung
linh lên, thật đấy mà huyễn hoặc đấy, ma quái đấy. Những sự thật được ông
khai thác đôi khi tưởng như riêng lẻ, cá biệt song lại nói được bản chất sự vật”.
Trong cuốn “Đặc sắc văn chương Vũ Trọng Phụng”. (NXB Thanh Niên,
2008), tác giả Trần Đăng Thao cho rằng “cái tôi trần thuật của nhà văn họ Vũ
đã vươn đến giọng điệu bình luận sắc sảo, kín đáo, hay hàm ý trào phúng, phê
phán sâu cay và bộc lộ trực tiếp nhận thức của chính nhà văn trước sự vật và
hiện tượng”.
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu mới từ góc độ ngơn
ngữ, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về đặc điểm ngơn ngữ nhân vật trong
tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
Như vậy, căn cứ vào tình hình thực tiễn nghiên cứu về đặc điểm ngôn

ngữ và về tác giả Vũ Trọng Phụng, chúng tôi chọn đề tài: “Đặc điểm ngôn ngữ
nhân vật trong tác phẩm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng”

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Qua việc miêu tả, phân tích việc sử dụng một số kiểu loại từ ngữ của
nhân vật qua ngôn ngữ hội thoai, đề tài nhằm làm sáng tỏ đặc điểm ngôn ngữ
nhân vật và phong cách ngôn ngữ của tác phẩm văn học trong tiểu thuyết “Số
đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần tập trung giải quyết tốt các
nhiệm vụ sau:
a. Hệ thống hóa các quan điểm lí luận chung liên quan đến đề tài, như: lí
thuyết hội thoại, hành động ngôn ngữ trong hội thoại của nhân vật, nhân vật và
ngơn ngữ nhân vật, vai trị của từ ngữ trong tác phẩm, qua đó xác lập cơ sở lí
luận cho việc nghiên cứu;
b. Khảo sát, thống kê, phân loại nguồn ngữ liệu liên quan đến ngôn ngữ
hội thoai, các lời thoại của nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng;
c. Miêu tả, phân tích, nêu vai trị của các lớp từ ngữ tiêu biểu trong việc
thể hiện đặc điểm ngôn ngữ nhân vật qua các lời thoại nhân vật trong tiểu
thuyết Vũ Trọng Phụng;
d. Tổng hợp, rút ra những đặc điểm nổi trội về sự hành chức của các lớp
từ ngữ trong lời thoại nhân vật và đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết
Vũ Trọng Phụng, từ đó góp phần làm rõ phong cách ngơn ngữ của nhà văn này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu

thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài ở
việc tìm hiểu từ ngữ trong lời thoại nhân vật bao gồm từ xưng hô là đại từ, từ

5


xưng hô là danh từ thân tộc và các danh từ khác, việc sử dụng các từ ngữ thông
tục, các thành ngữ trong tiểu thuyết “Số đỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng từ
góc độ ngữ dụng.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp thống kê - phân loại được dùng để thống kê các câu văn
là lời thoại của nhân vật; các từ ngữ tiêu biểu trong ngôn ngữ nhân vật; phân
loại các lớp từ ngữ, tính tần số sử dụng của các từ ngữ. Phương pháp này vừa là
cơ sở để xác định đối tượng nghiên cứu (từ ngữ của ngôn ngôn ngữ nhân vật),
vừa cung cấp các số liệu làm minh chứng cho các luận điểm trong từng chương
của luận án.
5.2 Phương pháp so sánh phân tích diễn ngơn dùng để phân tích các ngữ
liệu trên các bình diện của diễn ngôn hội thoại, chỉ ra sự chi phối của các nhân
tố giao tiếp, của các phương châm hội thoại đến các tuyến nhân vật và ngôn
ngữ của họ; tổng hợp để rút ra đặc điểm khái quát về từ ngữ trong ngôn ngữ
của nhân vật trong tác phẩm, đối chiếu để chỉ ra sự giống và khác nhau trong
ngơn ngữ của nhân vật.
5.3 Phương pháp phân tích ngữ nghĩa - ngữ dụng được dùng trong tìm
hiểu nội dung ý nghĩa của từ ngữ và vai trò của chúng trong lời thoại của các
nhân vật tham gia giao tiếp trong tác phẩm.
6. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Có thể nói, đây là cơng trình nghiên cứu tồn diện, hệ thống và đầy đủ

đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ở bình
diện từ ngữ từ góc độ ngữ dụng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ phục vụ thiết thực cho việc giảng
dạy tác phẩm văn học trong nhà trường, cung cấp một cách tiếp cận mới đối với
việc phân tích tác phẩm văn học, phân tích nhân vật từ góc độ ngơn ngữ học
nói chung, ngữ dụng học nói riêng.
6


7. Cấu trúc dự kiến của luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn sẽ
gồm 3 chương có bố cục như sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Đặc điểm ngơn ngữ nhân vật trong tác phẩm Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng qua từ ngữ xưng hô
Chương 3: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng qua sử dụng từ thông tục và thành ngữ

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Hội thoại và các dạng thức hội thoại
1.1.1. Khái niệm hội thoại
Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu đều cho rằng Hội thoại là
hình thức giao tiếp thường xuyên, căn bản, phổ biến của ngơn ngữ và cũng là
hình thức cơ sở của mọi hoạt động khác.
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) hội thoại “là sử dụng một

ngôn ngữ để nói chuyện với nhau” [26, tr. 444]
Đỗ Hữu Châu khơng đưa ra định nghĩa hội thoại nhưng khẳng định
tầm quan trọng của nó: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xun, phổ
biến của ngơn ngữ, có cũng là hình thức cơ sở cho mọi hoạt động ngôn ngữ
khác”[10, tr. 201]
Tác giả Nguyễn Đức Dân chỉ rõ hơn đặc điểm của hội thoại: “Trong giao
tiếp hai chiều, bên này nói, bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trò của
hai bên thay đổi: bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe.
Đó là hội thoại. Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất là hội thoại”
[12, tr. 76]
Theo tác giả Nguyễn Như Ý đã nhấn mạnh: “Hội thoại là hoạt động
giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội
dung miêu tả và liên cá nhân theo đích được đặt ra” [41, tr.122]. Theo Đỗ Thị
Kim Liên: “Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa
hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà họ có sự
sáng tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một
đích nhất định” [19, tr.18]. Trong nhiều tác phẩm văn học, cùng với ngôn ngữ
của tác giả là sự xuất tồn tại luân phiên, xem kẽ ngôn ngữ hội thoại của các
nhân vật.
8


Trong bất kể một tác phẩm văn học nào, hội thoại hầu như đều có mặt,
nó khơng xuất hiện độc lập mà luôn gắn liền với ngôn ngữ của tác giả, hoàn
thiện tác phẩm ở cả mặt nội dung và hình thức.
1.1.2. Vận động hội thoại
Để hình thành một cuộc hội thoại gồm có cấu trúc: sự trao lời, sự trao
đáp và sự tương tác. Để hình thành một cuộc giao tiếp hồn chỉnh và đúng hình
thức thì đây là những điều kiện cần phải có.
Để thực hiện cuộc hội thoại, ban đầu người nói đưa ra phát ngơn của

mình hướng về phía người nghe nhằm phát đi thơng tin và hướng tới một đối
tượng nhất định nào đó, hoạt động đó được gọi là trao lời “vận động trao lời
của người nói”.
Sau khi tiếp nhận phát ngơn từ phía người nói, người nghe sẽ phản hồi
bằng cách đưa ra phát ngơn nhằm thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm của
mình để đáp trả lại ý kiến của người nói, đây được gọi là “sự trao đáp”.
Trong q trình hội thoại, các đối ngôn sẽ ảnh hưởng lẫn nhau, tác động
đến cách thức giao tiếp của nhau. Đó được xem là vận động tương tác xảy ra
trong hội thoại.
1.1.2.1. Sự trao lời
Đây là vận động đầu tiên xuất hiện trong một cuộc hội thoại. “Trao lời là
vận động mà Sp1(vai nói) nói lượt lời của mình và hướng lượt lời của mình về
phía Sp2 (vai nghe) nhằm làm cho Sp2 nhận biết được rằng lượt lời được nói ra đó
là giành cho Sp2.”[10, 205]
Ví dụ 10: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” [1, 345]
Phát ngôn trên là của Sp1 (Xn tóc đỏ) hướng đến Sp2 (ơng Phán mọc
sừng) nhằm thực hiện hợp đồng đã thỏa thuận giữa hai người.
Trong lời trao, sự có mặt của Sp1 là tất yếu, khơng thể thiếu. Sự có mặt đó
thể hiện ở nhiều dấu hiệu như: từ xưng hô ngôi thứ nhất, tình cảm, thái độ, quan

9


điểm của Sp1 trong nội dung lời trao. Ngoài ra còn phải kể đến những yếu tố phi
lời khác như: điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, ánh mắt…; qua những yếu tố hàm ẩn tiền
giả định trong giao tiếp, qua những yếu tố ngôn ngữ tường minh như lời hô gọi,
chỉ định, lời thưa gửi…
1.1.2.2. Sự trao đáp
Trao đáp hay còn gọi là sự đáp lời là lời mà Sp2 (vai nghe) dùng để đáp lại
lời của Sp1( người nói). Phải có lời trao đáp thì một cuộc thoại mới chính thức

được hình thành.
Ví dụ 11:
“Sp1: Ơ kìa, con bé lạ nhỉ? Thế mày làm sao?
Sp2: U ạ, dễ thường tôi…dễ thường tôi chửa…”[1, tr.99]
Đây là lời trao đáp của Sp2 (nhân vật thị Mịch) thông báo với Sp1 (nhân vật
bà Đồ) về việc mình đã mang thai với Nghị Hách
Ví dụ 12:
“Sp1: Mẹ kiếp! Con Giời với chả con Phật!
Sp2: Cứ nói nhảm thế, chứ cậu ấy cịn bé dại như thế, đã biết qi gì!”
[1, 400]
Trong ví dụ trên, lời trao đáp của Sp2(người vú nuôi) thể hiện thái độ phản
đối với hành vi cảm thán thể hiện sự bất bình, chê trách của Sp1(Xn tóc đỏ)
trước lối sống của con trai bà Phó Đoan.
1.1.2.3. Sự tương tác
Trong q trình hội thoại, các đối ngơn sẽ có ảnh hưởng lẫn nhau, tác động
đến cách ứng xử của nhau. Đây được xem là vận động tương tác xảy ra trong hội
thoại. Trước khi hội thoại giữa các đối ngôn tồn tại một khoảng cá ch nhất định về
sự hiểu biết lẫn nhau, về tâm lí, tình cảm… Sau khi hội thoại,nếu những khoảng

10


cách ấy được thu hẹp lại, rút ngắn lại, khi ấy có thể nói đã có một cuộc hội thoại
tích cực. Ngược lại, khoảng cách ấy vẫn giữ nguyên hoặc mở rộng ra, khi ấy cuộc
thoại có thể bị xem là tiêu cực. Tương tác là một kiểu quan hệ xã hội giữa người
với người. Có một hoạt động xã hội thì có sự tương tác. Tương tác bằng lời là một
kiểu tương tác, là hình thức giao tiếp bằng ngơn ngữ.
Ví dụ 13:
“Sp1: Nhục! Giời ơi! Nhục ơi là nhục!
Sp2: Ơ hay! Đẻ làm gì thế? Đi phu thì đã làm sao?

Sp1: Nhục! Sức vóc học trị! Rồi ốm! Rồi chết!” [1, 28]
Đây là cuộc thoại giữa hai nhân vật: Phú và mẹ Phú. Cuộc thoại diễn ra với
hai quan điểm, thái độ, tình cảm khác nhau trước việc Phú phải đi hộ đê. Sp1 (bà
cụ Cử) phản đối việc Phú đi hộ đê, vô cùng lo lắng, đau khổ vì điều đó. Cịn với
Phú đi hộ đê là cơng việc bình thường, tất yếu trong hồn cảnh của gia đình và tự
tin mình có thể làm được. Như vậy các nhân vật trong cuộc thoại đã không cộng
tác với nhau khiến cho cuộc thoại trở nên căng thẳng, không củng cố được mối
quan hệ giữa các nhân vật.
Như vậy trong các cuộc hội thoại ba vận động: trao lời, đáp lời, tương tác
là ba vân động đặc trưng, có mối quan hệ chặt chẽ, khơng thể tách rời. Bằng vận
động trao lời, đáp lời, các nhân vật hội thoại sẽ tự hòa phối, liên hòa phối để thực
hiện vận động tương tác.
1.1.3. Các dạng thức hội thoại
Qua khảo sát và thống kê các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, chúng tôi
nhận thấy, ngôn ngữ của tác giả sử dụng nhiều dạng thức hội thoại như đơn
thoại, song thoại, tam thoại, đa thoại. Dưới đây là những dạng thức hội thoại.
1.1.3.1. Đơn thoại
Có thể hiểu trên cơ sở lí thuyết thì đơn thoại là lời thoại của một nhân vật
phát ra hướng đến người nghe nhưng khơng có lời đáp trực tiếp. Việc tiếp nhận
11


nội dung lời thoại được phản hồi bằng hành động thực hiện hay cử chỉ không
được tác giả trực tiếp mô tả.
Dạng đơn thoại biểu hiện rõ nhất ở kiểu lời trần thuật của nhân vật, có
nghĩa là lời nói của nhân vật có xen một yếu tố kể của mình, của người. Có thể
minh chứng bằng ví dụ sau:
“Nó đọc thật to, lại lai nhai giọng hò như giọng ê a của đứa trẻ con học
bài thuộc lòng chữ Hán vậy. Có điều đáng lạ là bài nó học chính tự nó đặt ra:
- Mẹ kiếp! Quần với chả áo! Cái này là cái gì? À Lời hứa!... Thắt đáy,

nở ngực, nở đít… phải phải! Thắt đáy, nở ngực, nở đít là Lời hứa! Hở ngực, hở
tay, hở đù là Chinh phục! Hở đến nách và nửa vú là ngây thơ!
Cái chổi cướng cái đinh rơi xuống đất. Nó cúi nhặt mồn vẫn đọc to:
- Hở đến nách và nửa vú là Ngây thơ! Hở… hở là… Ngây thơ!” [28, tr. 54]
Đoạn văn là lời thoại của nhân vật “nó” với việc học thuộc những mẫu
thời trang mà nó được giao một cách nhanh nhất. Động từ dẫn: “Nó đọc thật
to” “mồm vẫn đọc to” của một thằng ma cà bơng đang tìm cách đặt chân vào
giới thượng lưu lúc bấy giờ. Trong truyện “Người tù được tha” cũng có
đoạn thoại sau:
“Lần đầu trong đời, cụ phán Uyên dám nói ra miệng mấy câu tưởng
khơng khi nào cụ dám nói:
- Các ơng nói rất phải. Nó chết như thế cố nhiên là hơn chết vì hóc
xương gà! Kể ra cho đúng thì nó là người cũng đáng phục, có chí khí lỗi lạc
khác nhiều người, khác tơi. Tơi sống thế này là hèn nhát cực điểm, vinh thân
phì ra thế chứ có biết hy sinh là cái qi gì! Xã hội tồn những người như tơi
cả thì cũng hỏng bét! Thơi thì… giữa lúc đau đớn, các ơng khun tôi nên lấy
thế làm vinh, tôi cũng xin lấy thế làm vinh chứ sao! Thì tơi cũng xin kiêu ngạo
vì đã là bố nó, để mong khy khỏa được đơi chút...” [27, tr. 157]

12


Đây là đoạn thoại giữa cụ phán Uyên và những người dân, nhưng có thể
thấy ơng cụ đang độc thoại với chính mình. Ơng đang kể về về cái chết của cậu
con trai với những lời lẽ tự hào. Và ai cũng ngạc nhiên về mấy câu nói hùng
hồn bất ngờ của cụ phán mà tính nhút nhát là khơng cịn ai chẳng biết. Trong
mắt cụ thì cậu con trai chính là anh hùng, là vĩ nhân.
Dạng đơn thoại cịn tồn tại ở kiểu cấu trúc mệnh lệnh sai khiến:
“Châu trừng mắt nhìn một lượt ba người chức vị, rồi nghẹn ngào hỏi:
- Anh Phách tơi có mệnh hệ gì phải không?

Lý trưởng đành rút giấy công văn để dưới đèn ra đưa cho Châu.”[27, tr. 153]
Đơn thoại khơng có bất kì lời đáp đồng ý nào nhưng đem lại hiệu quả
cao. Thay vì lời đáp là hành động sẵn sàng của nhân vật. Vì vậy, cuộc thoại đã
đạt đích. Dĩ nhiên dang đơn thoại là vắng mặt lời đáp, mỗi nhân vật tự đeo đuổi
một ý nghĩa riêng của mình nhưng đều tn theo một lơgic. Ở nhân vật Châu sự
lo lắng nghẹn ngào đã lên đến đỉnh điểm để thốt ra câu hỏi trong sự thúc giục
về cái chết của anh Phách. Hành động của Lý trưởng đã làm thoải mãn và đạt
đến cái đích mà Châu muốn biết.
1.1.3.2. Song thoại
Đây là dạng thoại chủ yếu và được quan tâm nhiều nhất của lý thuyết hội
thoại. Song thoại làm nền tảng cho việc nghiên cứu đa thoại và tìm hiểu các
dạng đa thoại. Theo Nguyễn Đức Dân: “Nếu khơng có chú thích gì đặc biệt thì
thuật ngữ hội thoại sẽ được hiểu là song thoại” [12, tr.77].
Song thoại là lời của người trao hướng đến người nghe và có sự đối đáp
bằng hành vi ngơn ngữ, thường gọi là hành vi trao lời và hành vi đáp lời. Ở
dạng thoại này, thường nhân vật trực tiếp đưa ra lời nói của mình vào hội thoại,
bảo đảm yếu tố trao lời và đáp lời của nhân vật, bảo đảm nguyên tắc luân phiên
lượt lời của hội thoại.
Trong hội thoại có thể nhận ra “tác giả” của lời nói qua hệ thống tên
riêng của nhân vật. Chẳng hạn trong Bụng trẻ con có đoạn:

13


“Liên vẫn không tin lại hỏi: Chỉ dối!... thế sao mợ không phải mua ống
tre? Sao mở chỉ bỏ tiền vào hịm? Mợ bảo: Mợ có nhiều tiền nên khơng phải bỏ
vào ống tre… Liên lại bảo: Nhỏ cũng có hịm, sao khơng bỏ vào hịm mà phải
mua ống tre? Thằng nhỏ gãi đầu, không biết đáp thế nào, phải làm một câu:
Thưa chị, tôi sợ cứ ăn quả cả ngày như chị thì hết mất nên tơi phải mua ống tre
để giành. Liên quay gót ra ngẫm nghĩ…”[28, tr.28]

Trong đoạn thoại này, các nhân vật tham gia hội thoại lần lượt trao và
đáp lời, mỗi lời đáp đều hướng vào trọng điểm hỏi, hướng vào nội dung của
câu trao, mỗi lời trao là một lời đáp, khơng có hiện tượng đè lên nhau.
Ở dạng song thoại, có thể khơng có lời dẫn và từ dẫn mà được biểu hiện
bằng hình thức “gạch ngang đầu dịng”.
- Thế là xong, tơi đã đóng một vai trị tàn nhẫn hết sức!
- Thế nào?
- Tơi đã bảo Oanh thế này: “Tơi chỉ cịn thương hại cơ mà thơi! Cơ hỏi
tơi có giận khơng? Có u đâu mà giận! Sao xưa kia, cơ đã khinh tôi như thế?
Bây giờ khổ sở, cô mới hận, mới quay lại u tơi…Cái u như thế hỏi có giá
trị gì? Có ai lại vớt lại một bát nước mà ta đã hắt xuống đất?” Oanh xúc cảm
quá mạnh nên khơng nói được gì cả. oanh nấc lên mộ cái thì tơi bỏ mặc ra
về”[27, tr.78]
Hoặc có đoạn:
- Cứ ỡm ờ mãi!
- Xin một tị! Một tị tỉ tì ti thơi!
- Khỉ lắm nữa!
- Lẳng lơ thì cũng chẳng mịn…
- Thật đấy. Chính chun cũng chẳng sơn son để thờ? Nhưng này!
Duyên kia ai đợi mà chờ? Tình kia ai tưởng mà tơ tưởng tình….[28, tr.6]
Ở dạng song thoại xuất hiện một hiện tượng: Về hình thức nó là đối
thoại, nhưng về mặt nội dung lại là tự nói với mình, nhằm thể hiện suy nghĩ

14


cảm xúc của mình. Dạng này diễn ra phổ biến ở nhiều tác phẩm: Tự do, Lấy vợ, Số
đỏ…Đây là dạng thoại được vận dụng do hệ quả của song thoại. Có đoạn sau:
Sau khi vợ anh ra phố mua bán, Dỗn bèn hỏi tơi: - Chắc anh rất ngạc
nhiên khi thấy một người như tôi mà đi lấy một người vợ như thế ấy? Tôi vội

vàng ngừng đũa. Làm ra vẻ ngạc nhiên: - Sao? Sao anh lại hỏi tơi thế nhỉ? Có
lẽ sự vờ vĩnh của tơi khơng được tự nhiên mấy nên anh Doãn mỉm cười mà
rằng: - Chà! Cái thằng mới sính đóng kịch làm sao! Thơi, chỗ chúng ta, tơi cho
phép anh cứ việc nói thẳng những điền anh nghĩ. Tơi bèn nói: - Vợ chồng là
dun số. Ở đời này khơng phải hễ mình muốn thì là được và khơng muốn thì là
thốt.”[27, tr. 94]
Song thoại là dạng thức cơ bản của lí thuyết hội thoại và cũng là dạng
thức hội thoại chủ yếu của hội thoại trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng.
1.1.3.3. Tam thoại
Trong giao tiếp thường ngày cũng như bên trong một tác phẩm văn học
ln có sự giao tiếp của hai hoặc hơn hai nhân vật đối thoại trực tiếp với nhau
trở lên. Ở dạng giao tiếp này được gọi là tam thoại. Tam thoại là dạng thoại
xuất hiện khi có từ ba nhân vật giao tiếp cùng một chủ đề, trong một không
gian và ở cùng một thời điểm. Ở hình thức giao tiếp này có thể quy về dạng
tam thoại. Trong tiểu thuyết Vũ Trong Phụng, dạng thức hội thoại này xuất
hiện khá nhiều, điều đó cũng thể hiện mối quan hệ đan xen nhiều chiều, phức
tạp giữa các nhân vật trong tiểu thuyết, biểu hiện ở một số trường hợp sau:
Trong Lấy nhau vì tình có đoạn:
“Người ta nói chuyện như là đơi trẻ đã lấy nhau rồi vậy. Quỳnh bèn hỏi:
- Thưa me, có phải me đã nhận lời rồi, hay khơng?
Bà tham Bích ngơ ngác mất một lúc rồi nói:
- Khơng! Me đã nói gì đâu! Dẫu bằng lịng đến chết đi nữa thì cũng phải
từ từ chứ ai lại vồ ngay đến như thế!
- Vì con thấy cơ với me nói chuyện y như đã nhận lời rồi ấy.

15


Ơng phán Hịa gật đầu:
- Chưa nhận thì cũng như đã nhận rồi! Hai đứa lấy nhau là phải. Tuy

thằng Liêm là cháu gọi tôi bằng cậu thật đấy, nhưng mà tơi xin thề rằng tơi nói
thế cũng như một người ngồi mà thơi. Liêm nó là người thế nào, hẳn người cô
ruột của Quỳnh đã biết.
Bà Phán cũng dọa:
- Chính thế, chị ạ. Học thức thì... đõ tú tài ấy. Con nhà thì... tử tế. Tính
nết thì... ngoan ngỗn. Ờ, chị ạ, ngoan lắm, ít có đấy, khơng chơi bời gì
cả.”[27, tr. 60]
Ở đoạn này có đến ba nhân vật tham gia hội thoại, nội dung chủ yếu
xoay quanh việc làm mai cho Quỳnh và Liêm. Các nhân vật tư do bày tỏ ý kiến
của mình và hướng câu trả lời về phía người trao thoại.
“- Khơng sợ! Cái đó là người ta bày ra làm đồi chơi, khơng có ma. Ta
ngồi xa xa ở đây vậy.
- Nhà này là nhà ai hở anh?
- Nhà một ông giáo sư già, đõ cử nhân, bạn dạy học của anh.
- Thế ông ấy đâu?
- Ông ấy đi xa một tuần lễ, nhờ anh đến đây trơng hộ.
- Lạ nhỉ?
- Chính thế đấy.
- Người ngủ dưới nhà hẳn là đầy tớ?
- Bẩm vâng ạ.
- Sợ nó biết...
- Bẩm khơng ạ! Nó ngủ thì ắt nó khơng biết và đã nó có biết thì cũng
khơng dám nói với ai, vì nó sợ nói với ai thì chủ nó sẽ đuổi nó!” [27, tr. 65]
Cuộc hội thoại xuất hiện ba nhân vật giao tiếp gồm: Liêm, Quỳnh và
người đầy tớ. Nội dung xoay quanh việc Liêm đưa Quỳnh đến nhà một người
bạn đi công tác xa và đang nhờ Liêm trông coi hộ. Các nhân vật đều tư do thể
hiện suy nghĩ và ý kiến của mình.
16



1.1.3.4. Đa thoại
Trong hội thoại khi xuất hiện lời của nhiều nhân vật đan xen vào với
nhau nhưng cùng trong một hội thoại cụ thể, chúng tôi gọi đây là lời của đám
đông (nhân vật). Dạng thức hội thoại này có thể dễ dàng bắt gặp trong tiểu
thuyết “Số đỏ”. Cụ thể có thể thấy trong cảnh đưa đám tang cụ cố Hồng.
“- Con bé nhà ai kháu thế? Con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! - Ừ, ừ, cái
thằng ấy bạc tình bỏ mẹ! - Xưa kia vợ nó bỏ nó chớ? - Hai đời chồng rồi! - Cịn
xn chán! - Gớm cái ngực, đàm quá đi mất! - Làm mối cho tớ nhé? - Mỏ vàng
hay mỏ chì? - Khơng, khơng hẹn hị gì cả. - Vợ béo thế chồng gầy thì mọc sừng
mất!”[28, tr.178]
Trong đoạn hội thoại, lời của đám đông xuất hiện với nhiều nhân vật.
Các câu văn đã xác định được số lượng nhân vật tham gia hội thoại. Trong hội
thoại các nhân vật không được miêu tả cụ thể về tính cách, hình dáng hay bất kì
mối quan hệ nào. Chỉ biết rằng các nhân vật xuất hiện cùng lúc, luân phiên lượt
lời với nhau.
1.2. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
1.2.1. Khái niệm từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
Xưng hơ (hay cịn gọi là xưng gọi) là thuật ngữ dùng để chỉ việc tự gọi
tên mình (xưng) và gọi tên người khác (hơ). Có thể nói, trong bất kỳ cuộc giao
tiếp nào cũng không thể thiếu được hành động xưng hô và các từ ngữ dùng để
xưng hô.
Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Từ xưng hô là những từ dùng để xưng hô giữa các
nhân vật khi giao tiếp. Xưng hô cũng được xem như một phạm trù, đó là phạm trù
ngơi. Khi nói đến từ xưng hơ, người ta thường đề cập đến nhóm đại từ xưng hơ
đích thực và danh từ thân tộc chuyển hóa thành từ xưng hô” [20, tr.174]. Các loại
từ dùng để xưng hơ trong giao tiếp được Cù Đình Tú xác định: “Bên cạnh các đại
từ nhân xưng: tôi, ta, tao, chúng tôi, chúng tao (ngôi 1), mày, bay, chúng mày,
chúng bay (ngơi 2), nó, hắn, y, va, nghỉ, chúng nó (ngơi 3), tiếng Việt cịn dùng tất

17



×